Nhà văn NAM CAO (1917 – 1951)

1. TIỂU SỬ

Nhà văn Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, bút danh Thúy Rư, Xuân Dư, Nguyệt, Nhiêu Khê. Ông sinh ngày 29 tháng 10 năm 1917 tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông hy sinh ngày 28 tháng 11 năm 1951.

2. QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC

Nhà văn Nam Cao học ở làng và thành phố Nam Định. Từ 1936, bắt đầu viết văn in trên các báo: Tiểu thuyết Thứ bảy, Ích hữu…. Năm 1938, dạy học tư ở Hà Nội và viết báo. Năm 1941, dạy học tư ở Thái Bình. Năm 1942, trở về quê, tiếp tục viết văn. Năm 1943, gia nhập Hội Văn hoá Cứu quốc. Cách mạng Tháng Tám (1945) được cử làm Chủ tịch xã. Năm 1946, ra Hà Nội, hoạt động trong Hội Văn hoá Cứu quốc và là Thư ký toà soạn Tạp chí Tiên phong của Hội. Cùng năm đó, tham gia đoàn quân Nam tiến với tư cách phóng viên, hoạt động ở Nam bộ. Sau đó, lại trở về nhận công tác ở Ty Văn hoá Hà Nam. Mùa thu 1947, lên Việt Bắc, làm phóng viên báo Cứu quốc, cùng phụ trách báo Cứu quốc và là Thư ký toà soạn báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1950, về tạp chí Văn nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là Ủy viên tiểu ban Văn nghệ Trung ương. Năm 1951, tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở khu III. Bị địch phục kích và hy sinh.

3. TÁC PHẨM

Tiểu thuyết:

– Truyện người hàng xóm (Báo Trung văn Chủ nhật, 1944);

Bản thảo tiểu thuyết bị thất lạc:

– Cái bát;

– Một đời người;

– Cái miếu;

– Ngày lụt.

Truyện dài:

– Sống mòn (ban đầu có tên “Chết mòn”, viết xong năm 1944, xuất bản 1956, 1970);

Là tác giả các tập truyện ngắn:

– Đôi lứa xứng đôi (1941);

– Chí Phèo (1957);

– Truyện ngắn Nam Cao (1960);

– Một đám cưới (1963);

– Những cánh hoa tàn (1988);

– Nam Cao truyện ngắn tuyển chọn (1995);

– Nam Cao truyện ngắn (chọn lọc, 1996).

Các truyện ngắn:

– Ba người bạn;

– Bài học quét nhà;

– Bẩy bông lúa lép;

– Cái chết của con Mực;

– Cái mặt không chơi được;

– Chuyện buồn giữa đêm vui;

– Cười;

– Con mèo;

– Con mèo mắt ngọc;

– Dì Hảo;

– Đầu đường xó chợ;

– Điếu văn;

– Đôi móng giò;

– Đôi mắt;

– Đôi lứa xứng đôi (Chí Phèo);

– Đòn chồng;

– Đón khách;

– Đời thừa;

– Đợi chờ;

– Định mức.

– Làm tổ;

– Lang Rận;

– Lão Hạc;

– Mong mưa;

– Mò Sâm Banh;

– Một chuyện xu-vơ-nia;

– Một bữa no;

– Một đám cưới;

– Mua danh;

– Mua nhà,

– Người thợ rèn;

– Nhỏ nhen;

– Nhìn người ta sung sướng;

– Những chuyện không muốn viết;

– Những trẻ khốn nạn;

– Nỗi truân chuyên của khách má hồng;

– Nụ cười;

– Nước mắt;

– Nửa đêm;

– Quái dị;

– Quên điều độ;

– Phiêu lưu;

– Rửa hờn;

– Rình trộm;

– Sao lại thế này?;

– Thôi về đi;

– Truyện tình;

– Tư cách mõ;

– Từ ngày mẹ chết;

– Truyện người hàng xóm;

– Trăng sáng;

– Trẻ con không được ăn thịt chó;

– Xem bói;

Là tác giả các truyện ký:

– Đường vô Nam;

– Ở rừng (Nhật ký);

– Từ ngược về xuôi;

– Trên những con đường Việt Bắc;

– Bốn cây số cách một căn cứ địch;

– Vui dân công;

– Truyện Biên giới

– Vài nét ghi qua vùng giải phóng.

– Trần Cừ;

– Những bàn tay đẹp ấy;

– Hội nghị nói thẳng;

 kịch

– Đóng góp (1951);

Biên soạn sách địa lý cùng với tác giả Văn Tân:

Địa dư các nước châu Âu (1948),

– Địa dư các nước châu Á, châu Phi (1949),

– Địa dư Việt Nam (1951).

Tuyển tập:

– Tác phẩm Nam Cao (tuyển, 1964);

– Nam Cao tác phẩm (tập I: 1976, tập II: 1977);

– Tuyển tập Nam Cao (tập I: 1987, tập II: 1993);

.4. GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC

Nhà văn Nam Cao được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học & Nghệ thuật, đợt I, năm 1996.