Nhà văn NAM CAO (1917 – 1951)

1. TIỂU SỬ

Nhà văn Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, bút danh Thúy Rư, Xuân Dư, Nguyệt, Nhiêu Khê. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo giấy khai sinh, ông sinh ngày 29 tháng 10 năm 1917 nhưng theo người em ruột của ông là Trần Hữu Đạt thì ông sinh năm 1915 tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông hi sinh ngày 28 tháng 11 năm 1951 tại đồn Hoàng Đan thuộc làng Vũ Đại, xã Gia Xuân, Gia Viễn, Ninh Bình khi đang tham gia một đoàn cán bộ công tác vùng địch hậu.

2. QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC

Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Cha là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc, làm thuốc, mẹ là bà Trần Thị Minh làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung. Nhưng vì thể chất yếu, chưa kịp thi Thành Chung, ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi cưới vợ năm 18 tuổi và có năm người con.

Năm 18 tuổi ông vào Sài Gòn nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn. Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở Trường tư thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê, Hà Nội. Phát xít Nhật thâm nhập Đông Dương, trường sở bị trưng dụng, ông rời Hà Nội, về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng.

Tháng 4 năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và là một trong số những thành viên đầu tiên. Bị địch khủng bố gắt gao, ông phải lánh về quê. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, ông được cử làm Chủ tịch xã của chính quyền mới ở địa phương. Năm 1946, Nam Cao ra Hà Nội hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc. Tiếp đó, ông vào miền Nam với tư cách phóng viên. Ra Bắc, Nam Cao nhận công tác ở Ty Văn hóa Hà Nam, làm báo Giữ nước và Cờ chiến thắng của tỉnh. Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc. Ông là thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc, Tại chiến khu, năm 1948, Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1950, Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà soạn tạp chí Văn nghệ, sau đó ông được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương Đảng. Trong năm đó, ông tham gia Chiến dịch Biên giới. Tháng 5 năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Trên đường đi công tác, ông bị quân Pháp phục kích ông hi sinh vào ngày 28 tháng 11 năm 1951 tại đồn Hoàng Đan thuộc làng Vũ Đại, xã Gia Xuân, Gia Viễn, Ninh Bình.

3. TÁC PHẨM

Truyện ngắn

Ba người bạn.

Bài học quét nhà.

Bẩy bông lúa lép.

Cái chết của con Mực.

Cái mặt không chơi được.

Chuyện buồn giữa đêm vui.

Cười.

Con mèo.

Con mèo mắt ngọc.

Đầu đường xó chợ.

Điếu văn.

Đôi móng giò.

Đòn chồng.

Đón khách.

Nhỏ nhen.

Làm tổ.

Lang Rận.

Mong mưa.

Một chuyện xu-vơ-nia.

Mua danh.

Mua nhà.

Người thợ rèn.

Nhìn người ta sung sướng.

Những chuyện không muốn viết.

Những trẻ khốn nạn.

Nụ cười.

Nước mắt.

Nửa đêm.

Phiêu lưu.

Quái dị.

Rình trộm.

Rửa hờn.

Rình trộm.

Sao lại thế này?

Xem bói.

Thôi về đi.

Truyện biên giới.

Truyện tình.

Tư cách mõ.

– Từ ngày mẹ chết.

Truyện người hàng xóm.

Chí Phèo. (1941)

Dì Hảo. (1941)

Trăng sáng (1942).

Trẻ con không được ăn thịt chó (1942).

Đời thừa. (1943).

Lão Hạc. (1943).

Một bữa no. (1943).

Quên điều độ (1943).

Một đám cưới. (1944).

Tiểu thuyết:

Truyện người hàng xóm (1944) – Báo Trung văn Chủ nhật.

Sống mòn (viết xong 1944, xuất bản 1956), ban đầu có tên “Chết mòn” – Nhà xuất bản Văn Nghệ.

Bốn tiểu thuyết bản thảo bị thất lạc:

Cái bát.

Một đời người.

Cái miếu.

Ngày lụt.

Trong kháng chiến chống Pháp

Truyện ngắn

Mò Sâm Banh (1945).

Nỗi truân chuyên của khách má hồng (1946).

Đôi mắt (1948).

Đợi chờ.

Trần Cừ.

Những bàn tay đẹp ấy.

Hội nghị nói thẳng.

– Định mức.

Truyện ký

Đường vô Nam.

Ở rừng (Nhật ký).

Từ ngược về xuôi.

Trên những con đường Việt Bắc.

Bốn cây số cách một căn cứ địch.

Vui dân công.

Vài nét ghi qua vùng giải phóng.

Kịch:

Đóng góp (1951)

Ngoài ra ông còn làm thơ và biên soạn sách địa lý với Văn Tân:

Địa dư các nước Châu Âu” (1948).

Địa dư các nước châu Á, châu Phi (1949).

Địa dư Việt Nam (1951).

4. GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC

– Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, đợt I, năm 1996.