1. TIỂU SỬ
Nhà thơ Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 14 tháng 01 năm 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Mất ngày 24-06-1989 tại thành phố Hồ Chí Minh.
2. QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC
Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Năm 1927, khi 7 tuổi, cả gia đình ông chuyển vào Bình Ðịnh. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của “Trường Thơ Loạn”. Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là “Bàn thành tứ hữu” của Bình Định. Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội. Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi dạy học ở Thanh Hóa và Huế. Năm 1942, ông cho ra đời tập truyện ngắn Gai lửa, tập văn Vàng sao, tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí.
Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Cứu quốc, Kháng chiến, báo Quyết Thắng của Việt minh Trung bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm báo chí ở Liên khu IV, khi ở Thanh Hóa, khi ở vùng tạm chiếm Bình Trị Thiên. Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn – đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực.
Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc hoạt động văn nghệ ở Hà nội. Ông làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là báo Văn nghệ). Từ năm 1963 ông là Ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, Ủy viên ban thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là Đại biểu Quốc hội các khóa IV, V, VI, VII, Ủy viên Ban Thống nhất của Quốc hội khóa IV và V.
3. TÁC PHẨM
Thơ:
Điêu tàn (1937)
Gửi các anh (1954)
Ánh sáng và phù sa (1960)
Hoa ngày thường
Chim báo bão (1967)
Những bài thơ đánh giặc (1972)
Đối thoại mới (1973)
Hoa trước lăng Người (1976)
Hái theo mùa (1977)
Hoa trên đá (1985)
Tuyển tập Chế Lan Viên (2 tập, 1985)
Di cảo I (1994)
Di cảo II (1995)
Các tập ký:
Vàng Sao (1942);
Thăm Trung Quốc (1963)
Những ngày nổi giận (1966)
Giờ của số thành (1977)
Tiểu luận, phê bình, trao đổi nghề nghiệp:
Nói chuyện văn thơ (1960)
Phê bình văn học (1962)
Vào nghề (1962)
Suy nghĩ và bình luận (1971)
Bay theo đường dân tộc đang bay (1976)
Nghĩ cạnh dòng mở (1981)
Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981)
4. GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC
Giải A giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994 ( Di cảo I và Di cảo II).
Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 ( tập thơ Hoa trên đá)
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học & Nghệ thuật đợt I năm 1996.