1. TIỂU SỬ
Đặng Thai Mai còn được biết đến dưới tên gọi Đặng Thái Mai và những bút danh Thanh Tuyền, Thanh Bình. Ông sinh ngày 25-12–1902, tại làng Lương Điền (nay là Thanh Xuân), huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nho học. Cha ông là Đặng Nguyên Cẩn, đỗ phó bảng, tham gia phong trào Duy Tân cùng với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, bị thực dân Pháp bắt, đày đi Côn Đảo. Ông là hậu duệ của Tể tướng Đặng Dung, thuộc chi Tiến sĩ Đặng Công Thiếp. Ông là giáo sư, nhà giáo, nhà văn, nhà phê bình văn học Việt Nam và nguyên là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Viện trưởng đầu tiên của Viện Văn học Việt Nam. Ông mất ngày 25-9–1984.2.
2. QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC
Xuất thân trong gia đình có truyền thống khoa bảng và giàu lòng yêu nước. Sau khi cha bị bắt, ông về sống tại quê nội từ năm 6 tuổi, và được bà nội nuôi dưỡng, giáo dục lòng yêu nước, học chữ Hán và chữ Quốcn ngữ theo chương trình Đông Kinh nghĩa thục. Từ năm 1915, ông học trường tiểu học Pháp – Việt rồi trường Cao đẳng tiểu học Vinh. Năm 1925, khi đang theo học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương – Hà Nội, ông tham gia phong trào đòi “ân xá” Phan Bội Châu, truy điệu Phan Châu Trinh, đồng thời gia nhập đảng Tân Việt. Năm 1928, là giáo sư trường Quốc học Huế. Năm 1929, khi đảng Tân Việt tan vỡ, ông bị xử một năm tù treo, sau đó lại trở về dạy học ở Huế. Ông lại bị bắt năm 1930 và bị xử 3 năm vì tham gia phong trào Cứu tế đỏ. Sau khi ra tù, ông ra Hà Nội sống và dạy học tại trường tư Gia Long (1932). Đến năm 1935, Đặng Thai Mai cùng với các bạn là Phan Thanh, Hoàng Minh Giám, Võ Nguyên Giáp… lập ra Trường tư thục Thăng Long. Năm 1936, thời kỳ Mặt trận Dân chủ, tham gia phong trào Mặt trận Bình dân, viết và biên tập các báo tiếng Việt và tiếng Pháp của Đảng Cộng sản Đông Dương (Le Travail En avank, Notre Voix, Tin Tức), là một trong những người sáng lập Hội truyền bá chữ Quốc Ngữ cùng Nguyễn Văn Tố, Vương Kiêm Toàn, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp… Ông bắt đầu hoạt động văn hóa thời kì Mặt trận Dân chủ (1936–1939), viết báo và sáng tác một số truyện ngắn bằng tiếng Pháp nêu gương các chiến sĩ cách mạng. Năm 1939, ông ứng cử Viện dân biểu Trung Kỳ, thay cho Phan Thanh vừa mất, và đã trúng cử.
Sau Cách mạng Tháng Tám ông giảng dạy ở bậc đại học và nghiên cứu phê bình văn học. Từ năm 1946 ông lần lượt đảm nhiệm trọng trách: Đại biểu Quốc hội các khoá: I, II, III, IV, V. Ủy viên Ban dự thảo Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1945-1949), Giáo sư trường Đại học Văn khoa Liên khu IV (1948-1951), Giám đốc trường Dự bị Đại học và Sư phạm cao cấp Liên khu IV (1952). Sau hoà bình (1954) vừa đảm nhiệm các chức vụ trong ngành giáo dục: Chủ nhiệm khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1956-1957), Hiệu trưởng kiêm chủ nhiệm khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956-1959), vừa tham gia Đoàn chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1957-1984). Từ 1959, làm Viện trưởng Viện Văn học và chủ nhiệm tạp chí Nghiên cứu văn học của Viện (cho đến 1977).
3. TÁC PHẨM
Nghiên cứu:
Văn học khái luận (1944)
Lỗ Tấn (1944)
Tạp văn trong văn học Trung Quốc ngày nay (1945)
Triết học phổ thông (1949)
Chủ nghĩa nhân văn dưới thời kỳ văn hoá phục hưng (1949)
Văn thơ Phan Bội Châu (1958)
Văn thơ Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (1961)
Trên đường học tập và nghiên cứu (3 tập, 1959, 1969, 1970).
Bình giảng:
Giảng văn Chinh phụ ngâm (chú giải, bình giảng, 1950, 1992)
Biên khảo:
Lược sử văn học hiện đại Trung Quốc (biên khảo, tập I, 1958)
Tác phẩm:
Đặng Thai Mai tác phẩm (2 tập, 1978-1984)
Hồi ký:
Hồi ký (1985).
Dịch, giới thiệu:
Thế giới hiện đại (dịch chung, 1946)
Lịch sử triết học phương Tây (tập I, 1949, tập II, 1957)
Lôi Vũ (của Tào Ngu, 1945, 1958)
Ả Sim (1957)
Nhật xuất (của Tào Ngu, 1958)…
4. GIẢI THƯỞNG
Huân chương Hồ Chí Minh (1982)
Giải A giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986 (tác phẩm cuốn Hồi ký).
Giải thưởng Hồ Chí Minh về về các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam và văn học thế giới. đợt I năm 1996.