1. TIỂU SỬ
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng sinh ngày 6 tháng 5 năm 1912 trong một gia đình nho giáo ở làng Dục Tú, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957. Ông mất ngày 25 tháng 7 năm 1960 tại Hà Nội.
2. QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC
Năm 1930, Khi còn là học sinh, Nguyễn Huy Tưởng tham gia phong trào yêu nước của thanh niên học sinh ở Hải Phòng. Năm 1935, ông làm thư ký nhà Đoan (Thuế quan) ở Hải Phòng, sau đó quay về Hà Nội. Năm 1938, ông tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ và phong trào hướng đạo sinh ở Hải Phòng. Năm 1943, ông gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật, và được bầu làm Tổng thư ký Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng. Sau đó ông tiếp tục hoạt động ở Hà Nội, Nam Định và Phúc Yên. Tháng 6 năm 1945, ông công tác trong Ban biên tập báo Tiên phong của Văn hóa cứu quốc. Tháng 6 năm 1945, ông tham gia ban biên tập tạp chí Tiên Phong của Văn hóa cứu quốc. Tháng 8 năm 1945, là đại biểu văn hoá cứu quốc tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào.
Cách mạng Tháng Tám thành công, ông trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Hội văn hóa cứu quốc, biên tập các báo Cờ giải phóng, Tiên phong; Tổng thư ký Ban Trung ương Vận động đời sống mới; Đại biểu Quốc Hội khoá I. Tháng 7 năm 1946, ông được bầu là Phó Thư ký Hội Văn hoá cứu quốc Việt Nam; Tháng 12 năm 1946, toàn quốc kháng chiến ông tổ chức và đưa Đoàn văn hoá kháng chiến lên Việt Bắc, tiếp tục hoạt động văn hoá, văn nghệ; Ủy viên Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam, Thư ký toà soạn tạp chí Văn nghệ, tham gia tiểu ban Văn nghệ Trung ương Đảng, tham gia chiến dịch Biên giới (1951) và công tác giảm tô, cải cách ruộng đất (1953 – 1954). Sau hoà bình (1954), ông tiếp tục hoạt động văn nghệ, làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá I); Giám đốc Nhà xuất bản Kim Đồng.
3. TÁC PHẨM
Kịch:
– Vũ Như Tô (1941).
– Cột đồng Mã Viện (1944).
– Bắc Sơn (công diễn 6 tháng 4 năm 1946).
– Những người ở lại (1948).
– Anh Sơ đầu quân (1949).
– Lũy hoa (truyện phim, 1961).
Tiểu thuyết:
– Đêm hội Long Trì (1942, được chuyển thể điện ảnh, chèo, cải lương, 1990).
– An Tư công chúa (1944).
– Truyện Anh Lục (1955).
– Bốn năm sau (1959).
– Sống mãi với Thủ Đô (1961).
– Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960).
Ký:
– Ký sự Cao Lạng (1951).
– Gặp Bác (1956).
Truyện thiếu nhi:
– Tìm mẹ (1950).
– Kể chuyện Quang Trung (1957).
– An Dương Vương xây thành ốc (1960).
– Chiến sĩ ca-nô.
– Thằng Quấy.
– Con cóc là cậu ông trời
– Cô bé gan dạ
Tuyển tập:
– Kịch Nguyễn Huy Tưởng (1963)
– Truyện viết cho thiếu nhi (1966)
– Nguyễn Huy Tưởng tuyển tập (1978)
– Tuyển tập Nguyễn Huy Tưởng, 3 tập (1984, 1985, 1986)…
– Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng (3 tập, 2006) dày 1700 trang
4. GIẢI THƯỞNG
– Giải ba truyện và ký sự Giải thưởng Văn Nghệ 1951 – 1952 của Hội Văn nghệ Việt Nam (Ký Sự Cao Lạng).
– Giải nhì tiểu thuyết Giải thưởng Văn học Hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955 (tiểu thuyết Truyện anh Lục).
– Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt I, năm 1996.