1. Tiểu sử:
Nhà văn Lý Biên Cương tên khai sinh: Nguyễn Sỹ Hộ. Sinh ngày 24 tháng 1 năm 1941. Nguyên quán: Nam Sách, Hải Dương. Dân tộc: Kinh. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1974. Mất ngày 22 tháng 3 năm 2010.
2. Quá trình công tác
Sau khi đi thanh niên xung phong 12B Tây Bắc về Hà Nội, ông là phóng viên báo Tiền phong năm 1960. Năm 1961: Tốt nghiệp khoa Báo chí Đại học Nhân dân, chuyển về khu Đông Bắc, là phóng viên báo Vùng mỏ, sau đổi tên là báo Quảng Ninh (1961-1987). Từ 1988 chuyển sang Hội Văn học nghệ thuật Quảng Ninh, là Phó Chủ tịch Hội, Phó Tổng biên tập báo Hạ Long. Liên tục từ 1995-2005 là ủy viên Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1997 đến 2006: Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Ninh. Năm 2001: ông nghỉ hưu.
3. Tác phẩm chính
Đã xuất bản gần 40 tác phẩm văn xuôi và thơ:
Người đãi vàng (1972)
Người tôi yêu mến (1974)
Bây giờ ta lại nói về nhau (1976)
Tháng giêng (1979)
Gắn bó (1982)
Quả trong lòng tay (1984)
Bây giờ trăng khuyết (1990)
Thi hứng (thơ, 1991)
Thu cảm (1994)
Phù du (1991, tái bản nhiều lần)
Dã quỳ (2000)
Nẻo trời Vô Tích tôi qua (2003)
Con người kể cũng hay hay (2003)
Riêng thơ (thơ, 2005)
Quả chát giữa hai bờ xôi mật (2006)
Lý Biên Cương, truyện ngắn chọn lọc (1996)
Lý Biên Cương tuyển tập truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết (2003)
Lý Biên Cương, tuyển tập tiểu thuyết (2006)…
4. Giải thưởng
Giải chính thức Văn học công nhân lần thứ nhất năm 1972.
Giải ba báo Văn nghệ năm 1972.
Giải nhì báo Văn nghệ năm 1975.
Bốn lần được Giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (1992, 1994, 1998, 2003).
Sáu lần được giải thưởng Văn nghệ Hạ Long của UBND tỉnh Quảng Ninh (1981, 1986, 1991, 1996, 2001, 2006)
Giải chính thức truyện vừa tạp chí Nhà văn 1998.
Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2012.