Nhà văn VÕ QUẢNG (1920 – 2007)

1. Tiểu sử:

Nhà văn Võ Quảng sinh ngày 01 tháng 03 năm 1920, tại xã Đại Hòa huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1965. Ông mất ngày 15 tháng 06 năm 2007 tại Hà Nội.

2. Quá trình công tác:

Năm 1935, trong khi đang theo học Tú tài ở Quốc học Huế, ông tham gia tổ chức Thanh niên Dân chủ ở Huế. Năm 1939, ông làm tổ trưởng tổ Thanh niên Phản đế ở Huế. Tháng 9 năm 1941, bị chính quyền Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ, Huế, Hội An, Vĩnh Điện sau đó bị đưa đi quản thúc vô thời hạn ở Hội An.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông được cử làm ủy viên Tư pháp thành phố Đà Nẵng. Khi quân Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông được cử vào chức vụ Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến thành phố Đà Nẵng. Từ năm 1947 đến 1954, ông là Phó chánh án toà án quân sự miền Nam Việt Nam và Hội thẩm nhân dân Toà án Liên khu V. Thời gian này, ông bắt đầu sáng tác một số tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi.

Sau khi tập kết ra Bắc, ông được điều về công tác ở chức vụ Ủy viên Ban nhi đồng Trung ương, phụ trách văn học cho thiếu nhi. Ông là một trong những người tham gia sáng lập và từng giữ chức Giám đốc Nhà xuất bản Kim Đồng. Một thời gian sau đó, ông được cử làm Giám đốc Xưởng phim hoạt hình Việt Nam

Năm 1965, ông được kết nạp làm Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1968, ông về công tác tại Bộ Văn hóa, năm 1971, về Hội Nhà văn Việt Nam, được phân công làm chủ tịch Hội đồng Văn học Thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ này đến khi về hưu…

Ông qua đời lúc 11 giờ 20 phút ngày 15 tháng 6 năm 2007 tại Hà Nội.

3. Tác phẩm:

Nhà văn Võ Quảng là người viết nhiều truyện và thơ cho thiếu nhi với nhiều tác phẩm được các thế hệ yêu thích như:

Văn:

Cái thăng (truỵên, 1961);

Chỗ cây đa làng (truỵên, 1964);

Cái Mai (1967);

Những chiếc áo ấm (truyện, 1970);

Quê nội (tiểu thuyết, 1973);

Bài học tốt (truyện, 1975);

Tảng sáng (tiểu thuyết, 1976);

Kinh tuyến vĩ tuyến (1995);

Vượn hú (truyện 1993);

Thơ:

Gà mái hoa (1957);

Thấy cái hoa nở (1962);

Nắng sớm (1965);

Anh Đom Đóm (1970);

Măng tre (1972);

Quả đỏ (1980);

Anh Nắng sớm (1993);

Tôi đi (2003);

Kịch bản phim hoạt hình:

Sơn Tinh Thuỷ Tinh,

– Con 2,

– Những chiếc áo ấm.

Ngoài ra, ông còn có bài thơ đồng dao “Mời vào” cho trẻ em rất nổi tiếng.

Ông cũng là người đầu tiên dịch tác phẩm Đôn Kihôtê sang tiếng Việt dưới bút danh Hoàng Huy từ năm 1959.

4. Giải thưởng:

– Giải thưởng Nhà nước về Văn học & Nghệ thuật đợt 2 năm 2007.