Nhà thơ THANH TỊNH (1911 – 1988)

1. Tiểu sử:

Nhà thơ Thanh Tịnh (bút danh: Thinh Không, Pathé (trước 1945), Thanh Thanh, Trinh Thuần (sau 1945) tên thật là Trần Văn Ninh (6 tuổi được đổi là Trần Thanh Tịnh), Ông sinh ngày 12 tháng 12 năm 1911. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957. Ông mất ngày 17 tháng 07 năm 1988 tại Hà Nội.

  1. Quá trình công tác:

Nhà thơ Thanh Tịnh sinh ngày 12 tháng 12 năm 1911 tại xóm Gia Lạc,ven sông Hương, ngoại ô Huế. Thuở nhỏ, ông theo học chữ Hán đến năm 11 tuổi, thì theo học chữ Quốc ngữ tại trường tiểu học (trường Đông Ba) và trung học (trường Pellerin của giáo hội Thiên Chúa giáo) ở Huế.

Đỗ bằng Thành chung, năm 1933, ông đi làm ở các sở tư rồi sau đó làm nghề dạy học, hướng dẫn viên du lịch, đo đạc ruộng đất,. Thời gian này, ông bắt đầu viết văn, làm thơ và cộng tác với các báo Phong hóa, Ngày nay, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ Năm, Thanh Nghị, Tinh Hoa…Sáng tác đầu tay của ông là truyện “Cha làm trâu, con làm ngựa” đăng trên Thần kinh tạp chí (1934). Năm 1936, Thanh Tịnh cho xuất bản tập thơ Hận chiến trường. Năm 1941, ông và hai bài thơ của ông (“Mòn mỏi” và “Tơ trời với tơ lòng”) được Hoài Thanh – Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (1942).

Sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1945), Tổng thư ký Hội Văn hóa Cứu quốc Trung bộ, đầu quân phụ trách đoàn kịch Chiến thắng của quân đội.. Đã là uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa I, II), uỷ viên Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Cấp bậc Đại tá Quân đọi Nhân dân Việt Nam trước khi nghỉ hưu. Ngoài thơ, còn làm ca dao, viết kịch, viết báo; được coi là người sáng tạo ra thể “tấu nói”, đi đầu trong lối viết “những đoạn văn ngắn”.

Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Thanh Tịnh làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung Bộ. Năm 1948, ông gia nhập bộ đội. Sau đó, ông tham gia phụ trách đoàn kịch Chiến Thắng của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.

Năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957), và trở thành Ủy viên Ban chấp hành Hội khóa I, II. Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Khi tạp chí Văn nghệ quân đội ra đời, ông tham gia phụ trách rồi làm Phó Chủ nhiệm rồi Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội. Về sau, ông thôi làm lãnh đạo, để chuyên tâm sáng tác, mang cấp bậc Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam trước khi nghỉ hưu.

Nhà thơ Thanh Tịnh mất ngày 17 tháng 07 năm 1988 tại Hà Nội. Hiện phần mộ ông đặt tại núi Thiên Thai phía Tây thành phố Huế.

  1. Tác phẩm:

Trước năm 1945

– Hận chiến trường (thơ, 1937);

– Quê mạ (truyện ngắn, 1941);

– Tôi đi học (truyện ngắn, 1941), được đưa vào chương trình giảng dạy Trung học cơ sở qua Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 1, NXB Giáo dục và đào tạo.

– Chị và em (truyện ngắn, 1942);

– Ngậm ngải tìm trầm (truyện ngắn, 1943);

– Con so về nhà mẹ (truyện ngắn, 1943). Viết tặng hương hồn Thạch Lam. In trong tập Giai phẩm của Đời Nay năm 1943.

– Xuân và Sinh (truyện ngắn, 1944);

Sau năm 1945

– Sức mồ hôi (ca dao, 1954);

– Những giọt nước biển ( tập truyện ngắn – 1956)

– Đi giữa mùa sen (truyện thơ, 1980);

– Thơ ca (thơ, 1973);

– Thanh Tịnh – đời và văn (1996)

  1. Giải thưởng:

– Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1951 – 1952) cho những bài độc tấu xuất sắc.

– Giải thưởng Nhà nước về Văn học & Nghệ thuật đợt 2 năm 2007.

Ngoài ra, ông còn là người chiếm giải nhất (bài Lời cuối cùng) đồng hạng với nhà thơ Phạm Đình Bách trong cuộc thi thơ tháng Hai do báo Hà Nội báo tổ chức năm 1936.