Nhà thơ THÂM TÂM (1917 – 1950)

1. Tiểu sử:

Nhà thơ Thâm tâm tên khai sinh là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12 tháng 05 năm 1917 tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương. Ông mất  ngày 18 tháng 08 năm 1950 trên đường đi công tác ở chiến khu Việt Bắc.

  1. Quá trình công tác:

Nhà thơ Thâm tâm là con thứ trong một gia đình nhà nho nghèo và đông con, học hết tiểu học, ông phải ở nhà giúp gia đình đóng sách và nấu bánh kẹo. Năm 1938, chàng nghệ sĩ lên Hà Nội cùng gia đình, ở một phố thuộc quận Hai Bà Trưng ngày nay (xưa là Ô Cầu Dền). Trong cảnh gia đình khó khăn, Thâm Tâm phải kiếm sống bằng nghề vẽ tranh Bờ Hồ, viết báo, làm đồ gốm và bắt đầu làm thơ.

Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên báo Bắc HàTiểu thuyết thứ bảyNgày nayTiểu thuyết thứ năm, nhà sách Tân dân và Truyền bá quốc ngữ… Ông từng thử sức trên nhiều thể loại thơ, truyện, kịch, vẽ và viết cho loạt sách Truyền bá, nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ. Thơ Thâm Tâm có nhiều giọng điệu, khi buồn da diết, khi trầm hùng, bi tráng, khi reo vui…

Thâm Tâm bén duyên với những bài thơ làm theo thể hành – một lối thơ cổ lai của nhà Trung Quốc gồm: Can trường hànhVọng nhân hành, và nổi bật là Tống biệt hành. Ngoài ra có Tráng ca và một số thể loại dịch thuật, truyện ngắn… ông có tham gia nhưng chưa có bài nào nổi bật.

Thời kỳ 1937 – 1939 là thời kỳ đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá và đến 1945 toàn bộ báo chí phải trở thành vũ khí đấu tranh cách mạng.. Từ giã Tiểu thuyết thứ bảy và Truyền bá (đóng cửa), cũng như bạn bè kẻ vô Nam, người ra Bắc, Thâm Tâm tham gia văn nghệ trong Hội cứu quốc và tham gia ban kịch cùng người bạn thân là Trần Huyền Trân.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Thâm Tâm tham gia Văn hóa Cứu quốc, ở trong Ban biên tập báo Tiên Phong (1945 – 1946), ông biên tập cho báo Tiền phong (cách mạng) với công việc làm bích báo, vẽ áp-phích, viết kịch như: 19.8Lối sốngÐầu quân vào Nam (1945), Người thợLá cờ máu (1946).

Năm 1947, ông gia nhập quân đội theo chỉ thị thông tư của Bộ quốc phòng vào tháng 2 năm 1947. Thâm Tâm là người lính cầm bút trong Toà soạn báo Vệ quốc với tư cách một thư ký cho cơ quan ngôn luận của quân đội nhân dân Việt Nam. Thời kỳ này ông viết truyện Ðại đội Kim Sơn (1948), tiểu luận Văn thơ bộ đội (1948). Bài thơ mà các nhà nghiên cứu cho là nổi bật về tinh thần những người bộ đội là Chiều mưa đường số 5 (1946).

Ông mất sau một cơn bệnh đột ngột ngày 18 tháng 8 năm 1950 trên đường đi công tác trong chiến dịch Biên giới, được đồng đội và nhân dân địa phương mai táng tại bản Pò Noa, xã Phi Hải, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.

Thâm Tâm nổi tiếng với bài thơ Tống biệt hành Sinh thời ông chưa in thơ thành tập. Sáng tác thơ của ông được xuất bản năm 1988 trong sưu tập Thơ Thâm Tâm. Ngoài ra, Thâm Tâm còn có 3 bài thơ Gửi T.T.Kh.Màu máu TygônDang dở. Đây là những bài thơ tình hay nhất của Thâm Tâm gởi cho thi sĩ bí ẩn T.T.Kh. trong năm 1940. Trong các bài thơ, ông tự nhận là người tình cũ của T.T.Kh. Một số người còn cho rằng chính ông là T.T.Kh. Tuy nhiên, vẫn không ai biết chính xác là như thế nào.

  1. Tác phẩm:

Thơ:

– Tống biệt hành (in trong Thi nhân Việt Nam, 1942);

– Ngậm ngùi cố sự,

– Chào Hương Sơn,

– Ly biệt,

– Vạn lý Trường thành

– Chiều mưa đường số 5 (thơ, 1949);

– Thơ Thâm Tâm (1988).

Kịch:

Sương tháng Tám (kịch một hồi, Tiểu thuyết thứ bảy, 1939)

Nga Thiên Hương

19 – 8

Lối sống (1945)

Lá cờ máu

Người thợ (1946

  1. Giải thưởng:

Giải thưởng Nhà nước về Văn học & Nghệ thuật đợt 2 năm 2007.