1. Tiểu sử:
Nhà thơ Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt. Ông sinh ngày 22 tháng 02 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, nay là thôn Phúc Tằng, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Quê gốc tại xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957. Ông mất ngày 06 tháng 05 năm 2010 tại Hà Nội.
2. Quá trình công tác:
Nhà thơ Hoàng Cầm xuất thân trong gia đình nhà nho lâu đời. Tên ông được đặt ghép từ địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên. Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học ở Bắc Giang và Bắc Ninh; năm 1938, ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Từ đó, ông lấy bút danh là tên một vị thuốc trong thuốc bắc: Hoàng Cầm.
Năm 1944, do Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra quyết liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc ở Thuận Thành. Cũng tại nơi này, ông bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình một thời gian rồi giải thể.
Tháng 8 năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12. Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên. Năm 1952, ông được cử làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch.
Tháng 10 năm 1954, đoàn văn công về Hà Nội. Đầu năm 1955, do đoàn văn công mở rộng thêm nhiều bộ môn, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói. Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4 năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, và được bầu vào Ban chấp hành.
Ông nổi tiếng với vở kịch thơ Hận Nam Quan, Kiều Loan và các bài thơ Lá diêu bông, Bên kia sông Đuống. Ngoài bút danh Hoàng Cầm ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi.
Đầu năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Ông mất ngày 06 tháng 05 năm 2010 tại Hà Nội.
3. Tác phẩm
– Hận ngày xanh (phóng tác theo La martine 1940);
– Bông sen trắng (phóng tác theo Andersen, 1940);
– Cây đèn thần (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1941);
– Tỉnh giấc mơ vua (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1942);
– Thoi mộng (truyện vừa, 1941);
– Mắt thiên thu (tập thơ, mất bản thảo, 1941);
– Hai lần chết (truyện ngắn, 1941);
– Hận Nam Quan (kịch thơ, 1944);
– Bốn truyện ngắn (đăng Tiểu thuyết thứ Bảy từ 1939 đến 1943);
– Kiều Loan (kịch thơ, 1945);
– Viễn khách (kịch thơ, 1942, 1952);
– Lên đường (kịch thơ, 1952);
– Cô gái nước Tần (kịch thơ, 1952);
– Ông cụ Liêu (kịch nói, 1952);
– Đêm Lào Cai (kịch nói 3 hồi, 1957);
– Tiếng hát quan họ (trường ca, in chung trong tập Cửa biển, 1956);
– Những niềm tin (thơ dịch của Boualem Khalfa – Algérie, 1965);
– Men đá vàng (truyện thơ, viết 1973, nxb Trẻ, 1989);
– Mưa Thuận Thành (thơ, 1991);
– Về cõi em (tập thơ chưa in, 1992);
– Trương Chi (kịch thơ, xuất bản năm 1993);
– Lá diêu bông (tập thơ chọn lọc, 1993);
– Bên kia sông Đuống (thơ chọn lọc, 1993);
– Về Kinh Bắc (thơ, 1994);
– Tương lai (kịch thơ, 1995);
– 99 tình khúc (tập thơ tình, 1995);
– Kiều Loan (kịch thơ, 3 hồi, 1995).
– Văn xuôi Hoàng Cầm (tập văn, 1997);
4. Giải thưởng:
– Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt 2 năm 2007.