Nhà thơ Lưu Trọng Lư

Nhà thơ Lưu Trọng Lư

1. TIỂU SỬ

Nhà thơ Lưu trọng Lư. Sinh ngày 19-06-1912 tại xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Mất ngày 10-08-1991.

2. QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC

Nhà thơ Lưu trọng Lư sinh trưởng trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Thuở nhỏ, ông học trường tỉnh, rồi học ở Huế (đến năm thứ ba tại trường Quốc học Huế) và Hà Nội. Sau đó, ông bỏ học đi dạy tư, viết văn, làm thơ. và làm báo để kiếm sống. Năm 1932, ông là một trong những nhà thơ khởi xướng, chủ tướng và tích cực cổ vũ cho Phong trào Thơ mới. Năm 1933 – 1934, ông chủ trương mở Ngân Sơn tùng thư ở Huế. Năm 1941, ông và thơ ông được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam.

Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông tham gia Văn hóa cứu quốc ở Huế. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông tham gia hoạt động tuyên truyền, văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên khu IV. Sau 1954, ông công tác ở Bộ Văn hóa và làm Tổng Thư ký Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam.. Ủy viên Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam (khóa II). Tổng thư ký Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Năm 1991, Lưu Trọng Lư mất tại Hà Nội.

3. TÁC PHẨM

Văn xuôi:

Người sơn nhân (tập truyện ngắn, 1933)

Những nét đan thanh (truyện ngắn, 1934)

Huyền Không động (truyện ngắn, 1935)

Cô Nguyệt (truyện ngắn, 1937)

Con đười ươi (truyện ngắn, 1938)

Huế – một buổi chiều (truyện ngắn, 1938)

Một người đau khổ (truyện ngắn, 1939)

Chạy loạn (truyện ngắn, 1939)

Cô gái tân thời (truyện ngắn, 1939)

Một tháng với ma (truyện ngắn, 1940)

Chiếc cáng xanh (truyện dài, 1941)

Khói lam chiều (truyện dài, 194l)

Cô Nhung (truyện ngắn, 1941)

Mẹ con (truyện ngắn, 1942)

Em là gái trong khung cửa (truyện ngắn, 1942)

Dòng họ (truyện ngắn, 1943)

Hổ với Mọi (truyện ngắn, 1944)

Chiến khu Thừa Thiên (truyện vừa, 1952)

Truyện cô Nhụy (truyện vừa, 1962)

Mùa thu lớn (tuỳ bút, hồi ký, 1978)

Nửa đêm sực tỉnh (hồi ký, 1989)

Thơ:

Tiếng thu (1939), 52 bài

Tỏa sáng đôi bờ (1959)

Người con gái sông Gianh (1966)

Từ đất này (197l)

Chị em (1973)

Bâng khuâng (1988)

Bao la sầu (1989)

Sân khấu:

Nữ diễn viên miền Nam (cải lương)

Cây thanh trà (cải lương)

Xuân Vỹ Dạ (kịch nói)

Anh Trỗi (kịch nói)

Hồng Gấm, tuổi hai mươi tới rồi (kịch thơ,1973)

4. GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC

Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, đợt II, năm 2000.