Nhìn lại để đi tới và phát triển

Bảo tàng Văn học Việt Nam trân trọng giới thiệu bài tham luận của PGS.TS Tôn Phương Lan tại Hội nghị Lý luận phê bình Văn học lần thứ V:

 Trong một bài viết gần đây, tôi đồng tình với quan điểm của nhiều người, rằng thế hệ cầm bút chúng ta là những người làm nên lịch sử văn học giai đoạn vừa qua, nhưng phán xét nó như thế nào trong tương lai là không còn tùy thuộc vào ý muốn của mình bởi một tác phẩm văn học khi ra đời có sức sống riêng và sức sống đó lâu bền đến đâu là tùy thuộc vào cảm thụ của người đọc chứ không còn là vào ý muốn của người viết. Nói thế là để nhớ lại cái thời chúng tôi còn trẻ, văn chương là mặt trận tư tưởng, bao nhiêu nhà văn khi cầm bút ý thức mình đang cầm vũ khí để bảo vệ Tổ quốc nên văn chương trong thời điểm ấy đến với người đọc và được biến thành lực lượng vật chất. Sau này đọc lại nhật kí, hồi kí của Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, cũng như của Ngô Thảo trong Dĩ vãng phía trước ghi lại những buổi trà dư tửu hậu ở cơ quan Tạp chí Văn nghệ quân đội thời sơ tán chống Mĩ…, tôi càng thấm thía hơn hai chữ hi sinh. Hi sinh ở đây cần hiểu không chỉ là hi sinh tính mạng, tuổi trẻ, mà còn là hi sinh nghệ thuật (“Sống đã rồi hãy viết” – Nam Cao); là hi sinh khi ở một trình độ khác nhưng để phục vụ quần chúng công – nông – binh phần nhiều mới qua bình dân học vụ, nhà văn đã chọn hình thức sáng tác phù hợp để văn nghệ dễ đi vào đời sống cách mạng và kháng chiến lúc bấy giờ…

Tình hình đời sống văn học có những thay đổi cả ở người viết, người đọc và cả ở người quản lí khi văn chương Việt bung nở từ sau Đổi mới, các loại “tính” như lí luận văn học trước đây yêu cầu dường như không còn xuất hiện công khai trên văn đàn dù rằng chúng có những biến hình nhất định. Với sự du nhập của nhiều lí thuyết mới, các nhà văn đã chọn cho mình cái tạng phù hợp để thể hiện cuộc sống và con người nên văn chương Việt đã mang diện mạo mới, cũng như người đọc đã có thể tự chọn loại sách phù hợp, chọn trong các phương tiện “đọc – nghe – nhìn” mà mình yêu thích. Đổi mới như một tất yếu là vì thế, nhưng vai trò của người cầm bút trong sự nghiệp bảo vệ cũng như xây dựng Tổ quốc mà đối tượng thể hiện là con người – cụ thể là người chiến sĩ – trong hoàn cảnh hiện nay không chỉ sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc mà còn có nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc, tôi nghĩ là vẫn không thay đổi. Ở đây, tôi muốn đi sâu hơn một chút về mối quan hệ giữa kế thừa và phát triển, giữa dân tộc và nhân loại. Có nhà văn nói rằng cứ đi đến tận cùng những vấn đề của dân tộc thì sẽ gặp những vấn đề của nhân loại, điều đó quả không sai.

Tôi nghĩ rằng đối với mỗi người cầm bút hôm nay nhìn lại nền văn học ra đời trong chiến tranh, thấy rõ cả nét ưu lẫn nhược, để hoàn thiện hơn nền văn chương nước nhà trong bước phát triển mới là một việc cần làm. Hiện nay giới trẻ có tâm lí hướng ngoại, đó là điều cần thiết, nhất là trong cơ chế hội nhập. Phương Tây, phương Đông có những nền văn minh và thế hệ trẻ tìm hiểu, khám phá để phát triển đã trở thành một nhu cầu, mà đương nhiên sự phát triển của các cá nhân sẽ góp phần làm cho xã hội phát triển. Nền văn học ra đời trong chiến tranh vừa qua có được ưu điểm gì để tiếp tục, có những nhược điểm gì để rút kinh nghiệm là điều mà thế hệ mới – những người đang và sẽ chiếm lĩnh văn đàn hôm nay – chắc không khó lắm để nhận ra khi so sánh với các nền văn học khác. Người viết ngày nay có thể nhìn ra trong văn học một thời chưa xa đó những nhà văn-chiến sĩ dám dấn thân vào sự nghiệp cứu nước tuy họ nhận ra những nguy hiểm phía trước đối với tính mạng và sự nghiệp của mình. Vả chăng, qua đây, người viết ngày nay cũng nhận ra cái căn cốt có tính truyền thống trong tư chất người Việt để có cơ sở tìm ra cách viết về cái tốt, về những con người tốt, ít nhiều tránh được những công thức khô cứng, minh họa một khi không bị những áp lực về cơ chế, khi mà cánh cửa mở ra thế giới đã thông thoáng hơn để văn chương của mình vừa đảm bảo là viết về đất nước, con người Việt Nam nhưng con người đó vừa mang những mẫu số chung của nhân loại. Theo tôi, đây cũng là một hướng cho những ngòi bút ưa tìm tòi trong ý thức xây dựng hình tượng người chiến sĩ thời nay. Trong cơ chế thị trường với rất nhiều cám dỗ, cạm bẫy khi mà công nghệ 4.0 đang là một đòi hỏi, một nhu cầu, viết về người lính càng ngày càng trở nên một thách thức. Lâu nay, với cảm hứng sử thi, công chúng nói chung quen với hình ảnh người chiến sĩ – anh bộ đội Cụ Hồ là một hình mẫu lí tưởng về nhân cách, phẩm cách. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ thực sự là một hình tượng nghệ thuật có sức sống trong tâm thức người đọc, đưa lại nguồn cảm hứng cho người đọc trong cuộc chiến tranh vừa qua. Nay, viết về những người lính đang sống và làm nhiệm vụ ở những miền biên viễn của Tổ quốc như thế nào để có thể hút người đọc hơn trong tương quan với hình ảnh người lính nơi những phóng sự trên các đài truyền hình đã khó, mà xây dựng hình tượng người lính trên mặt trận kinh tế trong cơ chế thị trường khi họ vẫn giữ vai trò là người chiến sĩ thì quả là càng khó hơn, càng là một thử thách không nhỏ. Tôi cho rằng, điều trước tiên là người viết phải có cảm hứng, phải tìm hiểu đối tượng từ các góc nhìn đạo đức, nhân cách, lối sống và phải có trách nhiệm trong việc thể hiện, xây dựng nhân vật như một hình tượng nghệ thuật bởi công chúng ngày nay trong tương quan với trình độ người viết, với đối tượng văn học là người chiến sĩ… đều được nâng lên. Hiểu về người lính có lẽ không ai hơn chính người lính. Sức sống của hình tượng nghệ thuật hấp dẫn người đọc không hẳn vì tính tích cực mà có khi bởi chính tính không toàn bích của con người. Mặt khác, trong sự đa dạng của người thưởng thức hôm nay, tôi nghĩ chọn hình thức nào để tiếp cận đối tượng bạn đọc cũng là điều nhà văn nên nghĩ đến bởi vì độc giả hiện nay trình độ được nâng cao hơn, đa dạng và khó tính hơn. Muốn để tác phẩm đến được với đối tượng mà mình nhắm đến, tiêu chí đầu tiên vẫn phải là hay.

  1. Cuộc chiến tranh đã đi qua nhiều chục năm, đất nước thống nhất đã gần nửa thế kỉ. Đề tài chiến tranh tuy không còn là đề tài chính trong đời sống văn học nhưng đó vẫn là một đề tài có tầm ảnh hưởng không nhỏ đối với độc giả hiện nay, không chỉ từ phương diện nghệ thuật, công chúng cũng rất cần một quan niệm mới trong viết về chiến tranh. Đó là chưa kể tình hình thế giới đang có những chuyển biến phức tạp, cụ thể là chiến tranh giữa Nga và Ukraine đang xảy ra…

Tôi vẫn nghĩ viết về chiến tranh có thể có hai xu hướng chính: xu hướng viết về cái tốt, cái mưu lược, quả cảm để khẳng định phẩm chất anh hùng của nhân dân ta trong quyết tâm bảo vệ đất nước và một xu hướng khác là viết về chiến tranh để chống chiến tranh bởi chiến tranh gây ra bao nhiêu đau thương, tang tóc cho con người, làm xô lệch những chuẩn mực đạo đức. Chẳng hạn Mây cuối chân trời xuất bản khi nhà văn Nguyễn Trọng Oánh đã mất nhưng ngay từ ngày khởi viết, ông đã có cái nhìn về người mẹ của kẻ địch theo truyền thống của tình mẫu tử: đã là mẹ thì người mẹ nào cũng yêu những đứa con mình đứt ruột đẻ ra. Tôi cho đó là một biểu hiện trong việc đổi mới tư duy nghệ thuật của nhà văn khi thể hiện tinh tế tâm lí một bà mẹ ghê gớm trong nỗi căm hận cách mạng, dù rất tự hào về con mình nhưng sẵn sàng bỏ về trong buổi khánh thành dựng bia “ghi ơn” con trai mình mà bà ta lại đọc thấy sự giả dối trong những giọt nước mắt của tên quận trưởng. Sự đổi mới đó đã được biểu hiện từ trước, khi Đất trắng là một trong số những tác phẩm sớm nhất “dám” viết về thất bại trên chiến trường trong cuộc Tổng tấn công Mậu Thân đợt hai của quân Giải phóng với những tổn thất lớn và những trận chạy càn liên miên để rồi bị đẩy lên xanh. Vậy nhưng, như chúng ta đã biết, ngay từ khi mới ra đời, Đất trắng vẫn hấp dẫn người đọc vì tính chân thật của cuộc chiến đấu.

Tôi có những người bạn thân học cùng khóa đại học đi vào chiến trường đầu những năm bảy mươi – thời kì mỗi bên đều cố gắng để có những chiến thắng trên chiến trường làm thế mạnh trong cuộc đàm phán ngoại giao ở Hội nghị Paris – với chuyến đi bộ vượt Trường Sơn hàng nửa năm trời, vào đến Nam Bộ, gầy chỉ còn da bọc xương, xanh xao vàng vọt, vẫn vui vẻ và hết mình khi nhận công việc được phân công. Các bạn ấy kể lại sự trong sáng của con người đối với nhau trong chiến tranh cũng như cuộc sống anh hùng của người lính, của những nữ thanh niên xung phong đã gặp trên đường… nên rất không đồng tình khi đọc thấy nhiều sáng tác về chiến tranh cho rằng phụ nữ khát dục, đàn ông trở thành những người hung bạo; các bạn ấy bảo nếu cuộc chiến tranh được thể hiện như trong những cuốn tiểu thuyết a, b, c nào đó thì làm sao chúng ta có thể chiến thắng… Tôi xin được trở lại với ý kiến của mình: viết về chiến tranh ngoài ý nghĩa viết về chiến thắng, viết về cái cao cả anh hùng của những con người hi sinh để giữ nước thì còn một ý nghĩa khác là viết để chống chiến tranh; đấy là nhiệm vụ của văn chương nghệ thuật. Tội ác của chiến tranh không chỉ thể hiện bằng những con số của những nhà viết sử mà điều này như chúng ta đã biết cũng không thiếu trong các tiểu thuyết tư liệu như của Hữu Mai, Văn Lê, Trần Mai Hạnh, Trầm Hương, Nguyễn Thị Ngọc Hải, trong nhật kí chiến tranh của nhiều chiến sĩ, liệt sĩ… mà xu hướng phi hư cấu đã ghi dấu những thành tựu nhất định trong thời gian qua. Về một phương diện khác, hình tượng nghệ thuật là lịch sử viết bằng văn mà khỏi nói thì ai cũng có thể tìm hiểu con người và cuộc sống của nước Nga, của Liên Xô vào những thời khắc chiến tranh khác nhau của Lev Tolstoy trong Chiến tranh và hòa bình, của A.Tolstoy trong Con đường đau khổ, của M.Sholokhov trong Sông Đông êm đềm… Con người thì đa sự mà cuộc sống thì đa đoan, điều đó không chỉ có trong hòa bình. Có những người phụ nữ do hoàn cảnh sống quá khổ cực ở chiến trường đã bị bệnh bế kinh và trở thành con người như là không có giới tính và dị dạng về hình thức: đó cũng là một thứ tội ác của chiến tranh. Khát dục là một chuyện bình thường ở những người phụ nữ bình thường, nhưng do thiếu thốn, gian khổ quá mà nhu cầu ấy biến chứng thành bệnh lí thì cũng là một biểu hiện khác của tội ác chiến tranh. Cách nhìn chiến tranh và con người như thế nào để thể hiện trong tác phẩm của mình là tùy thuộc vào tư tưởng nghệ thuật và cách tiếp cận, thể hiện vấn đề của nhà văn. Thực tế của đời sống chiến tranh nhiều khi không cho phép nhà văn coi chiến tranh là môi trường tôi luyện con người kiểu “thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh, lúc đó thép sẽ trở nên cứng rắn” (Ostrovsky – Thép đã tôi thế đấy) mà họ coi đó là một phép thử, ở đó con người sẽ bộc lộ những gì vốn có, đó là chưa kể sau chiến tranh, có những người đã không giữ được phẩm chất tốt đẹp mà mình từng có trước đó. Từ điểm nhìn đó tìm sâu vào bản chất vấn đề để thấy rằng người lính cũng là con người, vậy đâu là nét đặc trưng khi họ được đặt trong môi trường chiến tranh? Tôi thấy viết về chiến tranh ở thế hệ sinh ra sau chiến tranh cũng có biểu hiện tiếp cận khác hơn, cách thể hiện khác hơn, như Huỳnh Trọng Khang trong Mộ phần tuổi trẻ là một cách, như Phan Thúy Hà trong Tôi là con gái của cha tôi, Đừng kể tên tôi, Những trích đoạn của các anh là một cách. Điều đó cho thấy điểm nhìn về chiến tranh của những người cầm bút thế hệ sau đã có những cái khác: họ đã yêu cuộc sống và con người, yêu hòa bình theo cách không giống với nhiều người ở thế hệ trước, trong đó có ý thức tránh mọi nỗi đau cho nhân dân cũng như ý thức hòa hợp dân tộc toát ra từ tư tưởng nghệ thuật. Về điểm này tôi đồng quan niệm với tác giả Nguyễn Mạnh Tuấn trong tiểu thuyết Linh ứng vừa mới xuất bản gần đây, rằng “đồng hành với các tác giả trẻ là thế hệ sau chúng ta”, và “đề tài về chiến tranh và lịch sử, muốn giữ cách nào cũng thuộc về tác giả hậu sinh”.

  1. Theo tôi hiểu, nhân cách là phẩm giá và tính cách của con người nhưng con người thì lại luôn được đặt trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội, vì thế, ngoài tính cá thể ra, nó chịu tác động cũng như ảnh hưởng của cộng đồng. Trải qua mấy chục năm chiến tranh, lại đến thời kì thế giới phẳng với tác động bởi mặt trái của phim ảnh, bạo lực bạo hành hình như cũng không ít, nhận thức của con người về cái “tôi” cá nhân, về nhân tính được đặt ra rõ ràng hơn, chúng ta cũng cần làm thế nào để có cái nhìn thỏa đáng, công tâm về con người vì điều này liên quan đến vấn đề xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học.

Trước đây, khi nói đến chức năng của văn học, người ta hay lờ đi chức năng giải trí, đề cao chức năng giáo dục, nhưng gần đây thì ít người nhắc đến chức năng giáo dục của văn học trong khi lại đề cao chức năng giải trí. Có người còn cho rằng viết/ đọc tác phẩm văn học có tính giáo dục nay đã có gì đó lỗi thời. Tôi thì có ý nghĩ hơi khác: lỗi thời là vì người viết đã giáo huấn người đọc một cách thô vụng trên trang viết, còn thì bất kì một tác phẩm văn học nào cũng phải đưa lại cho người đọc những xúc cảm thẩm mĩ; và trên ý nghĩa đó chức năng giáo dục luôn tồn tại thông qua hình tượng nghệ thuật, hướng con người đến với cái đẹp, cái thiện, lòng nhân.

Trở lại với văn chương thời chiến tranh, tôi rất ý thức là có những người tài năng thật sự nhưng trong hoàn cảnh bấy giờ, dẫu nhận ra những bất cập của bản thân và đời sống văn nghệ nhưng chấp nhận sự hi sinh nghệ thuật cho sự sống còn của Tổ quốc nên sau chiến tranh họ đã đấu tranh cho việc đổi mới tư duy nghệ thuật, hoặc bằng tác phẩm, hoặc bằng ý kiến. Trong văn chương, cũng như ở bất kì lĩnh vực nào của khoa học nghệ thuật, cần cù chỉ có hỗ trợ chứ không bù được thông minh. Tài năng là thứ trời cho và đó mới là điều quyết định.

Thật ra, không khó để thấy được sự khác nhau của anh bộ đội trong Thư nhà của Hồ Phương, của các nhân vật người lính trong những truyện ngắn hồi đầu chiến tranh của Đỗ Chu, của Lê Minh Khuê… và sau này trong các sáng tác của Chu Lai, Bảo Ninh cùng các nhà văn thế hệ chống Mĩ… Không cần phải phân tích cụ thể qua từng giai đoạn chúng ta cũng thấy được sự trưởng thành của các thế hệ nhà văn mà đặt trong lộ trình vận động của văn chương, tôi coi đó là một phát triển trong tiến trình vận động. Các thế hệ nhà văn đã dần lách sâu vào tâm lí nhân vật để giải mã những suy nghĩ, hành động; con người được nhìn nhận ngày càng ở nhiều góc nhìn khác nhau nên tính cách và lối sống kể cả quan niệm về đạo đức của họ cũng mang tính lịch sử. Khác với người bộ đội thời kháng chiến chống Pháp phần lớn là những người nông dân mặc áo lính, đến giai đoạn chống Mĩ những người lính đã kinh qua mái trường xã hội chủ nghĩa, còn người lính thời nay là người có học vấn, có ngoại ngữ, rất nhiều người có trình độ chuyên môn cao, có năng lực và còn tham gia vào đời sống cộng đồng ở tư cách người quản lí, lãnh đạo. Họ có đời sống cá nhân nên trong một môi trường mà giao lưu càng rộng thì con người cá nhân càng dễ cho thấy trình độ, bản lĩnh của mình. Tuy nhiên, có một điều tôi cứ băn khoăn là trong văn học hiện nay, khi viết về những con người tốt thường các nhà văn viết nhiều về những cái mà nhân vật làm được cho cộng đồng, trong khi đó rất ít khi nhà văn, cũng như xã hội, quan tâm đến điều ngược lại. Người tốt dường như có phần đơn độc và chưa được đào sâu vào nội tâm để thể hiện bản lĩnh, nhân cách trước một quyết định, trong khi hội nhập về phương diện nào đó là “nền văn minh khủng khiếp” vì ở đó lợi nhuận có thể bóp méo, nhào nặn lại con người. Trong hoàn cảnh như vậy, làm thế nào để nhân vật giữ gìn bản sắc văn hóa mà không trở thành thủ cựu, hội nhập nhưng không trở thành ngoại lai? Và có phải vì khó thế nên loại nhân vật này trong đời sống văn học chưa có nhiều, nếu có thì ít có sức sống? Ở một khía cạnh khác, tôi cho rằng viết về cái ác, cái xấu cũng là một cách giáo dục lòng nhân cho độc giả: để người đọc kinh hãi cái ác, cái xấu. Trong văn học thế giới và Việt Nam, những nhân vật như Don Quixote của Cervantes, AQ của Lỗ Tấn, Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo của Nam Cao… gợi cho chúng ta những suy nghĩ gì? Trong đại dịch Covid, chúng ta có dịp chứng kiến biết bao nhiêu chiến sĩ quân đội đã lầm lụi cứu dân, giúp đỡ nhân dân vượt qua những khó khăn khắc nghiệt kéo dài. Tôi nghĩ rồi đây văn học sẽ tiếp tục phần việc của mình bởi hình tượng con người ngoài đời bước vào trang sách để thành một nhân vật văn học cần phải có thời gian… Sự thoái hóa, biến chất của con người là do đâu: do thiếu bản lĩnh hay do không có nhân cách, nhất là một khi sự thoái hóa được che giấu kĩ, nếu có thêm ít nhiều quyền lực thì tính nguy hại của loại người này càng là khôn lường. Trong tình trạng những viên đạn bọc đường đang làm tử thương nhiều người kể cả một số cán bộ cao cấp, văn học tham gia vào cuộc đấu tranh đó một cách hiệu quả chỉ có thể là bằng tác phẩm và thể hiện qua hình tượng nghệ thuật.

Trên đây là mấy suy nghĩ nhỏ về một vấn đề lớn. Là người theo dõi về đề tài chiến tranh và dành cho người lính những tình cảm đặc biệt, tôi rất muốn được đọc tác phẩm hay về chiến tranh, nhất là các tác phẩm viết về cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục của những người trở về trong cơ chế mới, muốn có được hình tượng nghệ thuật về người lính sinh ra và lớn lên sau chiến tranh trong thời cơ chế thị trường và hội nhập vì thực tế cho thấy không ai hiểu người lính như chính họ và văn phẩm của những người lính viết về người lính thường có chiều sâu của thực tiễn, của sự đồng cảm, chia sẻ. Vì thế tôi cũng mạo muội mong muốn Tổng cục Chính trị đầu tư cho loại đề tài này cũng như khuyến khích các nhà văn quân đội chuyên tâm cho đề tài này nhiều hơn bằng những chuyến đi thực tế đến các đơn vị như thế hệ các nhà văn ngày trước đã vào tuyến lửa, đi chiến trường. Đi là để lấy cảm hứng, để hiểu thêm những đồng ngũ của mình.