“Nắm đất lửa khói” của “Người viết sử thi chiến tranh” – nhà văn Nam Hà là một trong số các hiện vật độc đáo của ông hiện đang được trưng bày, giới thiệu tại Bảo tàng Văn học Việt Nam.

Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vào giai đoạn ác liệt, các nhà văn Quân đội ở số nhà 4 Lý Nam Đế (Hà Nội) lần lượt vào chiến trường. Nhà văn Nam Hà cũng là một trong những nhà văn sớm đi B, sau nhà văn Nguyễn Thi (Nguyễn Ngọc Tấn). Suốt 10 năm (1964 – 1975), có mặt ở các chiến trường gian khổ, ác liệt nhất của vùng Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, ông đã có rất nhiều những kỷ niệm đáng nhớ.
Nhà văn Nam Hà kể rằng: “vào một đêm tháng 7 năm 1966 khi ông đang ở chiến đấu ở vùng sông Đồng Nai Thượng, nghe đài Hà Nội truyền đi trong bản tin tức tối là “Mỹ đã ném bom Hà Nội”, ngay đêm đó nhà văn đã viết bài thơ “Gửi Hà Nội”:
Đêm hành quân mải miết giữa rừng dày,
Chiến sĩ bỗng thấy tim mình ngừng đập
Những trái bom của quân thù xâm lược
Ném xuống rồi, Hà Nội đó. Trái tim ơi!
Tiếng thét vang vang lay chuyển đất trời
Hãy nghe đây, hỡi chúng mày
quân cướp nước
Trái tim ta đau và căm thù
đã bầm gan tím ruột
Chiến sĩ lại đi hăm hở dưới trời mây
Câu thơ xưa đã vọng lại rồi đây
Nghe thiết tha mỗi đường đi, nước bước
“Từ thuở mang gươm đi mở nước
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”
Hà Nội ơi! Có biết suốt đêm ngày
Chiến sĩ lắng nghe từng lời giục giã
Tiếng Tổ quốc! Tiếng ngày xưa,
Tiếng mai sau và tất cả
Tiếng mẹ hiền dìu dặt giữa trời quê
Tiếng nước non năm tháng đi về.
Tôi chưa một lần ra thăm Hà Nội
Nhưng tôi sinh một ngày. Và Hà Nội
Ngập Ba Đình nắng đỏ rợp cờ bay
Tóc Bác Hồ đẹp tựa áng mây
Nghe mẹ nói, mẹ cười,
Mẹ hướng tôi nhìn ra phía Bắc.
Mẹ nuôi tôi và bây giờ tôi đi giết giặc
Tôi chưa một lần ra thăm quê cha
Những câu thơ xưa đã thành máu chan hoà
Yêu Hà Nội như yêu mẹ hiền
nắng mưa tần tảo
Tôi biết sông Hồng
“thêu sóng đỏ dài trên áo”
Biết “Hồ Gươm như một lẵng hoa”
Đêm mơ dài rồng lượn nguy nga
Nghe tiếng hát dập dìu trên phố
Và những hàng cây bốn mùa hoa nở
Nghiêng mình soi bóng giữa công viên
Những lâu đài, nhà máy mới dựng lên
Trời Hà Nội trên đầu tôi, tôi gặp
Đất Hà Nội dưới chân tôi, tôi biết
Và người tôi đây cũng của Hà Nội đó,
Trái tim tôi!
Hà Nội anh hùng nối gót cha ông
vừa làm nên lịch sử
Hà Nội xông lên tiêu diệt Mỹ
Quân cướp trời cháy vụn thành than
Sóng sông Hồng vùi xác bọn xâm lăng
Nước Hồ Gươm lại soi bóng trời lồng lộng
Tin như bão gầm, bốn phương chuyển động
Chiến sĩ quay về phương Bắc lắng nghe
Hà Nội gọi ta rồi!
Các đồng chí, hãy giương lê!
Tôi chưa một lần ra thăm quê cha
Nhưng lòng vẫn mơ ngày về Hà Nội
Đem nắm đất đã ngập đầy khói lửa
Đặt bên Tháp Rùa trầm mặc uy nghiêm
“Đất này đây của Tổ quốc phía trời Nam
Tôi sẽ đi dưới hàng cây xanh mát
Đi những con đường
mang tên cha ông xưa, tôi hát
“Đây Thăng Long, đây Đông Đô,
đây Hà Nội, Hà Nội mến yêu!”…
Đến năm 1972, trong cuộc tấn công chiến lược xuân hè, nhà văn Nam Hà theo Trung đoàn 209, sư đoàn 7 chiến đấu trên đường số 13. Trung đoàn 207, trong đó có ông đã trực tiếp chiến đấu suốt 120 ngày đêm với 3 Sư đoàn địch, 2 Lữ đoàn dù và cuối cùng giữ vững trận địa ở cầu Tầu Ô.
Ngày 27-8-1972, sau 108 ngày đêm giữ vững vị trí chốt chặn chiến dịch, Trung đoàn 209 đã đánh bại Sư đoàn 25 của Ngụy. Đây được xem là một cuộc chiến đấu dài ngày, liên tục và ác liệt nhất. Ngay sau khi chiến thắng, ông đã theo xung kích ra cầu Tầu Ô nhặt “nắm đất khói lửa” để mang về Hà Nội làm kỷ niệm.

Sau chiến tranh, ông trở về và tiếp tục công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội. “Nắm đất lửa khói” luôn được ông mang bên mình, đặt trang trọng ở phòng làm việc suốt hơn 30 năm, năm 2006 trao tặng lại cho Bảo tàng Văn học Việt Nam.
Câu chuyện về “Nắm đất lửa khói” không chỉ phản ánh sự ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, mà còn giúp công chúng hiểu biết thêm về những đóng góp, cống hiến của nhà văn mang màu áo lính Nam Hà.
Bảo tàng Văn học Việt Nam