Nhà thơ NGUYỄN ĐỨC MẬU

Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu

1. TIỂU SỬ

Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, bút danh Nam Điển, Hương Hải Hưng, Hà Nam Ninh. Sinh ngày 14 tháng 1 năm 1948. Quê quán Nam Điền, Nam Trực, Nam Định. Hiện thường trú tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1977.

2. QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC

Ông nhập ngũ năm 1966, chiến đấu trong đội hình sư đoàn 312 ở chiến trường Lào và chiến trường B. Sau chiến tranh ông làm biên tập viên, rồi đi học lớp Bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn, học trường viết văn Nguyễn Du khóa I, sau đó làm Trưởng ban tại ban Thơ tạp chí Văn nghệ Quân đội, Phó chủ tịch Hội đồng Thơ – Hội nhà văn Việt Nam. Về hưu với quân hàm đại tá – Tạp chí Văn nghệ quân đội.

3. TÁC PHẨM

Thơ:

Thơ người ra trận (in chung, 1971)

Cây xanh đất lửa (1973)

Áo trận (1976)

Mưa trong rừng cháy (1976)

Trường ca sư đoàn (1980)

Hoa đỏ nguồn sông (1987)

Từ hạ vào thu (1992)

Bão và sau bão (1994)

Cánh rừng nhiều đom đóm bay (1998)

Bầy chim lá màu vàng (2004)

Mở bàn tay gặp núi (2008)…

Văn xuôi:

Con đường không quên (truyện ngắn, 1984)

Ở phía rừng Lào (truyện vừa, 1984)

Tướng và lính (tiểu thuyết, 1990)

Chí Phèo mất tích (tiểu thuyết, 1993)

Niềm say mê ban đầu (tiểu luận phê bình, 2010)

4. GIẢI THƯỞNG

Giải chính thức văn học 27-7 với bài thơ Nấm mộ cây trầm (1977).

Giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ (1972-1973).

Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn Văn nghệ quân đội (1981).

Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng (1989) với tác phẩm Hoa đỏ nguồn sông.

Giải thưởng văn học đề tài chiến tranh Hội Nhà văn Việt Nam (1994) với tác phẩm Từ hạ vào thu.

Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, đợt I, 2001.

Giải thưởng ASEAN 2001 với tác phẩm Cánh rừng nhiều đom đóm bay.

Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng (2004) với tập thơ Bầy chim lá màu vàng.