Nhà văn Kim Lân: Sự im lặng của nỗi buồn

Tôi nói với ông có hai loại người. Loại thứ nhất càng sống nhiều càng buồn. Loại thứ hai càng sống nhiều càng thanh thản. Cả hai loại người này đều là những người hiểu được lẽ đời. Loại thứ nhất buồn vì thấy đời sống này sao nhiều đau khổ và vô nghĩa thế mà mình thì bất lực. Loại thứ hai thấy cần thanh thản để quên đi những đau khổ và vô nghĩa kia. Ông bảo ông là loại người thứ nhất.

Nhà văn Kim Lân (1920-2007)

Đã quá lâu rồi ông không cầm bút viết văn nữa. Đôi khi ông có viết về một người bạn văn chương nào đó đã khuất. Với ông đó chỉ là những dòng của người còn sống trên dương gian nhớ người đã vắng bóng. Viết như một cuộc trò chuyện với hư vô. Cả những cuộc trò chuyện với hư vô ấy cũng không làm ông cạn hết nỗi buồn. Làm sao mà cạn hết nỗi buồn nhân thế khi người ta còn sống. Giờ đây, trong ngôi nhà nhỏ ở ngõ Hạ Hồi, một căn phòng với nhiều đồ cổ, gương mặt ông, tuổi tác ông, giọng nói ông và con người ông thật hợp với những cổ vật này. Một khoảng thời gian quá dài đã đi qua những cổ vật kia và thời gian của gần một thế kỷ đi qua ông. Tôi thấy ông như một cổ vật còn sống và đang cất giọng nói về thời gian đã làm nên ông.

Ông không viết văn lâu rồi, nhưng những gì ông viết của mấy chục năm về trước vẫn được không ít bạn đọc tìm đọc với những lý do khác nhau, vẫn được giảng dạy và vẫn được học sinh làm bài thi. Sao ông lại không viết văn nữa ? Sao ông lại im lặng từ mấy chục năm trước và sẽ im lặng hết cuộc đời. Ông nói với tôi lý do sự im lặng ấy. Và bởi sự im lặng ấy mà giờ đây tôi cũng im lặng không viết ra. Nhưng cái mốc ông ngừng viết văn là từ khi ông công bố cái chuyện Con chó xấu xí. Ông thở dài và nói rằng khi người ta đã nhận mình là con chó xấu xí rồi thì biết làm gì nữa đây.

Ông bắt đầu xuất hiện trên văn đàn khi mới ngoài hai mươi tuổi. Ông bảo lúc đó ông viết cứ bắt chước người này lại đến người khác. Viết như thế thì viết cả đời cũng không tả đúng cái mặt của mình. Nếu anh không là chính anh thì anh chẳng bao giờ là ai cả. Thế rồi, tờ báo Trung Bắc Chủ nhật làm một số chuyên đề về vợ lẽ. Thế là ông viết về Vợ lẽ và ngay lập tức truyện của ông thành công. Ông bảo vì ông là con của một người vợ lẽ. Cụ thân sinh ra ông lấy những ba vợ. Ngày ấy nhiều người đàn ông có vợ lẽ lắm. Xã hội lúc đó nó thế. Bây giờ đàn bà tự do quá và ghê gớm quá. Thời gian đã cho họ quá nhiều mặc dù chế độ một vợ một chồng là nhẽ đương nhiên trong xã hội văn minh.

Cũng từ ngày đó, ông chỉ viết những gì ông hiểu, những gì ông khổ đau và thương nhớ. Thế là gương mặt văn chương của Kim Lân hiện ra sống động và đầy ấn tượng mà ai đã nhìn thấy sẽ chẳng dễ quên. Rồi đến một ngày, ông thấy ông không thể cứ lấy gương mặt riêng biệt của mình mà đi đâu cũng được, làm gì cũng được. Bởi trong cuộc đời này, nhiều lúc miệng mình đấy mà cái cười lại của người khác. Mắt mình đấy mà lệ rơi vào lại từ đẩu từ đâu. Tay mình đấy lại cầm cái mình không muốn cầm. Chân mình đấy mà lại đi vào cái ngõ mình không định bước. Đúng là sống mới thực là khó. Trong khi đó nhiều người lại ngỡ chết khó hơn. Thế là ông chán viết. Rồi ông bỏ bút hẳn. Bỏ lâu thành thói quen. Có lúc trong đầu muốn viết một cái gì đó lại ngại. Ngại cái cụ thể và ngại cả những mơ hồ. Tôi hỏi ông cụ thân sinh khi còn sống thường dạy ông điều gì về cuộc đời. Ông bảo cụ cứ sống như cụ nghĩ và yêu thương ông nhưng chẳng dạy ông điều gì cả. Tất cả những gì ông học được là do làng ông dạy ông. Câu nói này sẽ không ít người nghe thấy sẽ chê ông sao lại nói về cha mình không dạy con. Cha mình sinh ra mình mà chẳng dạy mình điều gì sao (?). Nhưng ông nói vậy thì quả là uyên thâm. Làng chính là văn hoá. Văn hoá luôn luôn đúng và sẽ dạy con người phải làm gì. Lầm lỗi thì văn hoá dạy để mà đứng lên. Tuyệt vọng thì văn hoá dạy để mà hy vọng. Thô tục thì văn hoá dạy cho cái đẹp. Tăm tối thì văn hoá dạy cho mơ ước.

Chiều mùa đông chóng tối. Tôi thích nhìn ông trong căn phòng tranh tối tranh sáng như thế. Khi ông đứng dậy lấy phích nước cho thêm vào bình trà tôi thấy những cổ vật trong nhà ông cũng chuyển động như ông. Tất cả mọi chuyển động của ông, của những cổ vật là sự chuyển động của thời gian. Tôi hỏi ông đã viết hồi ký chưa. Ông im lặng một lát rồi nói ông không viết hồi ký bởi viết hồi ký thì nhiều chuyện quá. Hồi ký là sự thật. Mà sự thật lại thường đau đớn. Những gì ông đã quyết im lặng mấy chục năm rồi thì nay cứ để cho mãi mãi nằm trong im lặng. Là một nhà văn, không sáng tác trong mấy chục năm giờ lại không viết cả hồi ký nữa thì ông sống thế nào ? Cái gì sẽ làm cho ông vui, cho ông khuây khoả tuổi già ? Ông bảo ông cứ chơi nhung nhăng để cho vui, cho đỡ buồn. Nhiều năm trước ông có đóng phim. Mấy năm trước người ta thấy ông trên tivi bàn về văn hoá trà. Tất cả cũng là chơi thôi mà. Với ông, chơi là cách tốt nhất để ông chạy trốn. Mà chạy trốn ai ? Ai đuổi ông ? Ai truy lùng ông ? Chẳng ai cả. Tôi chạy trốn chính tôi. Chạy trốn chính mình là cuộc chạy trốn khó khăn nhất, lâu dài nhất và cuộc chạy trốn ấy chỉ kết thúc khi người ta bước vào giữa lâu đài của cái chết.

Tôi nói với ông có hai loại người : loại thứ nhất càng sống nhiều càng buồn. Loại thứ hai càng sống nhiều càng thanh thản. Cả hai loại người này đều là những người hiểu được lẽ đời. Loại thứ nhất buồn vì thấy đời sống này sao nhiều đau khổ và vô nghĩa thế mà mình thì bất lực. Loại thứ hai thấy cần thanh thản để quên đi những đau khổ và vô nghĩa kia. Ông bảo ông là loại người thứ nhất. Cái truyện ngắn cuối cùng trong đời ông đã chuẩn bị đầy đủ nhưng rồi ông không viết. Tôi nghe ông kể truỵện ngắn ấy mà thấy tiếc. Truyện ngắn ấy dài lắm nhưng tôi nhớ đại khái kể về một người đàn ông câm. Người đàn ông câm này nuôi một con chó. Tất cả những người sống quanh anh ta nhưng chẳng ai hiểu anh ta nói gì, nghĩ gì kể cả người mẹ đẻ ra anh ta. Duy chỉ có con chó là hiểu được anh. Cả hai đều không nói được cái tiếng mà những người quanh họ vẫn nói. Nhưng họ lại vô cùng hiểu nhau bởi cả hai có chung một ngôn ngữ khác. Khi người ta mở chiến dịch giết chó. Con chó của người đàn ông câm kia bị người ta đuổi bắt. Nó chạy tới mép rừng. Chỉ dăm bước chân nữa là nó thoát chết. Đúng lúc đó người đàn ông câm cất tiếng kêu như một tiếng tru. Con chó dừng lại. Nó chạy quay về và bị giết chết. Nó thừa biết những người đang hò hét tiếng người kia sẽ giết nó. Nhưng nó không thể bỏ đi trước tiếng kêu đau khổ của người bạn, người duy nhất đã thấu hiểu nó. Tôi hỏi ông sao ông lại không viết cái truyện ấy ? Ông bảo ông đã nói nhiều lý do vì sao không viết nhưng lý do thật ông lại chẳng muốn nói ra. Đã không nói rồi thì đến chết cũng không nói nữa. Nhưng không nói ấy cũng là nói rồi.

Tôi nghe câu chuyện người đàn ông câm và con chó mà lòng buồn vô hạn. Ông bảo con người đáng trọng là con người không thay đổi tình bạn kể cả khi anh ta rơi vào hoàn cảnh bi đát. Thế mà có những người là bạn ông khi có tí quyền chức thì trở nên lạnh nhạt và hống hách với cả bạn bè. Từ đó, ông không bao giờ đến thăm và trò chuyện như xưa với người ấy nữa. Nhưng khi người ấy nghỉ hưu không mấy ai đến nữa thì ông lại đến. Ông đến và gọi tên người ấy như thủa hàn vi, như chưa bao giờ nghĩ khác về người ấy. Bởi người ấy cũng chỉ là một nhân vật bé nhỏ trong một cảnh ngắn của vở kịch bi hài vô tận của cuộc đời này. Người ấy đã hiểu ra thói đời và nghĩa đời dẫu rằng đã muộn. Người ấy nhìn ông mà nước mắt giàn dụa. Nhưng người ấy lại nói : Mắt mình hồi này cứ hay chảy nước mắt vô cớ. Thực ra là người ấy khóc vì xúc động và khóc cả vì đắng cay. Nhưng để nói thật ra là mình đang khóc và khóc vì sao đâu phải lúc nào và đối với ai cũng dễ.

Năm nay ông đã tám mươi tư tuổi. Ông bảo bao nhiêu thứ ông quên và cố tình quên giờ ông muốn tìm lại. Nhiều truyện ngắn ông viết bởi cái nhất thời, bởi sự ấu trĩ ông đã quyết quên đi từ lâu lắm rồi. Nhưng giờ đây ông lại muốn tìm lại những cái cũ ấy. Bởi theo ông, dù thế nào đi chăng nữa thì những cái đó cũng là của ông. Đã là cái mình viết ra dù không hay, dù viết chỉ để mà viết hoặc viết cho một ai đấy chứ chẳng phải cho mình thì vẫn cứ là của mình. Cái đúng là của mình và cái sai cũng là của mình. Đã có lúc ông chẳng hề nghĩ ông sẽ làm tuyển tập, mà có nghĩ đến ông cũng không muốn làm. Giờ thì ông muốn làm tuyển tập. Làm chẳng phải là để cho hậu thế đọc đâu. Làm để cho chính ông có dịp đọc lại toàn bộ những gì mình viết. Để từ đó mà suy ngẫm về mình hơn nữa. Đọc để một Kim Lân tám mươi tư tuổi được đối thoại với một Kim Lân năm mươi tuổi, một Kim Lân bốn mươi tuổi…Đọc để vò đầu mà than : Kim Lân, người quả có một thời không phải chính người. Đọc để vỗ đùi kêu lên : Kim Lân, ông thực không hổ danh. Làm được như vậy trong một cuộc đời hỏi còn gì phải ân hận nữa.

Bây giờ tôi thực sự tin rằng : ông là kẻ biết rong chơi trên trần thế này. Cái danh đối với người nước Nam ta thật ghê gớm. Cái danh nhàvăn đối với nhiều người còn ghê gớm hơn. Bảo mình là chủ tịch huyện, chủ tịch tỉnh có khi chẳng oai bằng bảo mình là nhà văn. Ông là nhà văn đích thực nhưng dám đùa bỡn với cái danh ấy. Ông trọng đời hơn trọng văn. Ông là người sống kỹ hơn là viết. Bởi như ông nói có trang viết của ông không phải là ông, Nhưng ai cũng nói ông luôn luôn sống đúng ông. Trong khi nhiều nhà văn viết thì ra vẻ là kỹ nhưng sống lại ẩu. Sống kỹ thì mới viết kỹ được chứ. Sống kỹ theo tôi là dám sống đúng mình nhất. Nếu ai đó nói ông không viết vì lười thì hoàn toàn sai. Bởi cái động tác cầm bút nhiều hay ít đâu phải là chăm hay lười. Cái công việc của nhà văn khó khăn nhất vẫn là sự quan sát và suy ngẫm không ngừng cuộc sống này. Ông là người cho đến lúc này vẫn quan sát cuộc sống một cách sắc sảo và suy ngẫm hết sức sâu xa. Những suy ngẫm ấy đã không ngừng dày vò ông và bắt ông phải trả lời những câu hỏi về cuộc sống. Càng suy ngẫm nhiều thì dày vò càng lớn. Nhưng phẩm cách của một nhà nho có quá nhiều trong con người ông. Phẩm cách ấy có lúc làm ông trở nên yếm thế. Ông là kẻ ở ẩn mấy chục năm nay ở ngay nơi mà người ta không tin con người có thể ở ẩn được. Bởi nơi ấy quá ồn ào và nhiều cám dỗ. Ông không về quê như Nguyên Hồng. Ông cũng không lên rừng như Sao Mai. Ông ở ẩn ngay trong chính sự im lặng của ông, sự im lặng của nỗi buồn muôn thuở.

NGUYỄN QUANG THIỀU

Theo nguồn: https://vanvn.vn/nha-van-kim-lan-su-im-lang-cua-noi-buon-2/