Những văn nghệ sĩ ngày ấy bao năm qua đã lần lượt lãng du vào cõi vĩnh hằng. Nay nhà thơ Giang Nam là người cuối cùng ra đi trong số văn nhân thi sĩ ở Nha Trang đến Phú Yên dự ngày vui của tôi cách nay gần 40 năm. Tôi xin mạn phép thay đôi chỗ trong câu thơ ở cuối bài “Quê Hương” để tiễn ông, mong hương linh người tha thứ. “Nay tôi yêu quê hương vì trong nắm đất/ Có một phần xương thịt của Giang Nam”.
Đó là một đêm khá lạnh của năm 1970. Tôi ngồi trước máy chữ trên căn gác ngôi nhà số 42 đường Võ Tánh nay đổi thành Bùi Thị Xuân, thuộc Phường 2, thành phố Đà Lạt, lui cui sắp xếp bài vở chuẩn bị đánh lên giấy stencil để in ronéo tập tuyển thơ nhiều tác giả kịp phục vụ Đại hội Sinh viên Phật tử Đà Lạt nhiệm kỳ mới.
Anh Ngô Thế Lý (lúc này là Chủ tịch Sinh viên Phật tử) vội vã băng mình giữa tối giới nghiêm căng thẳng, từ giảng đường chùa Linh Sơn bí mật đem về bản chép tay bài thơ “Quê hương” của tác giả Giang Nam, anh bảo đây là nhà thơ kháng chiến phải đăng ngay vào tuyển thơ “Việt Nam dân tộc anh hùng” mình đang xuất bản mới được. Vậy là tôi có dịp tiếp cận sáng tác của nhà thơ Giang Nam từ đó.
Tâm trạng tôi lúc ấy vừa thích thú lại vừa hồi hộp. Thích thú là lần đầu được đọc tác phẩm của nhà thơ đi kháng chiến đã cho tôi những rung động rạo rực mới lạ mà trước giờ chưa gặp. Nhưng lòng hồi hộp lo trong lúc đang đánh máy thơ Giang Nam lên giấy in bất ngờ bị cớm chìm (mật vụ) đánh hơi phát hiện ập vào coi như nguy to, vì xung quanh khu vực tôi lúc ấy đa số là nhà trọ nhiều giới chức của chính quyền Sài Gòn nơi thành phố cao nguyên này. Nhằm đề phòng bất trắc, chúng tôi phải hãm thanh tối đa tiếng máy đánh chữ vọng ra, ngăn ánh điện làm việc không cho chiếu hắt qua cửa gương xuống phố đêm, bằng cách lấy chăn mền che kín bên trong tất cả các cửa và những ngóc ngách khả nghi rò rỉ ánh sáng và âm thanh của gác trọ trước khi làm việc.
“Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”, sự quyến rũ thơ kháng chiến Giang Nam như có ái lực thôi thúc anh em chúng tôi kỳ công chép bài “Nghe em vào đại học” từ chương trình thơ trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam để đăng vào tập san Tin tưởng của sinh viên Phật tử Đà Lạt số chủ đề “Đồng bào ta một lòng đuổi Mỹ” sau đó. Những sáng tác của Giang Nam cùng nhiều thơ nhạc các văn nghệ sĩ cách mạng hồi ấy lén nghe trong vùng địch tôi có cảm giác rất linh hiển. Thậm chí trong trí tưởng tượng có phần ngô nghê đáng yêu rằng, nghệ sĩ cách mạng như những hiệp sĩ thời xưa thoắt ẩn thoắt hiện, nay đây mai đó, diệt gian trừ bạo, cứu nhân độ thế…
Từ đó mỗi khi phát hiện thơ Giang Nam ở đâu tôi bằng mọi cách vồ đọc thưởng thức cho kỳ được, nhất là lén nghe các chương trình tiếng thơ trên Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Giải phóng. Do vậy những sáng tác của tôi thời kỳ này sớm bước sang lối rẽ dấn thân đối với cuộc chiến và bày tỏ thái độ trước thực trạng đất nước mà các báo chí đối lập chế độ cũ trước đây như: Đối diện, Tin sáng, Tin tưởng, Tự quyết, Trình bày… thường đăng tải.
Sau ngày đất nước thống nhất tôi mới gặp tác giả Giang Nam tại Nha Trang. Trước mắt tôi, nhà thơ có vóc người tầm thước trung bình nhưng ẩn chứa nét phong trần với gương mặt sáng, dễ thân thiện, dễ xúc cảm. Hôm ông nói chuyện với các giới công chúng tỉnh Phú Khánh sau chuyến đi thực tế mà Khmer Đỏ vừa tràn qua gây tội ác cho đồng bào ta dọc theo nhiều tỉnh biên giới Tây Nam. Trong khi nhà thơ kể lại những điều mắt thấy tai nghe về những bạo tàn, thương đau, tang tóc dân mình phải gánh chịu, thi thoảng giọng nói ông chùng xuống nghèn nghẹn, chập chập ông lại gỡ kính mắt ra lau vì nhòe lệ.
Sau này nhà thơ Giang Nam về làm Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Phú Khánh (gồm Phú Yên và Khánh Hòa) tôi thường có dịp tiếp xúc nhiều hơn với ông. Khi thì được nghe nhà thơ kể về đời sống gian lao, khó khăn, nguy hiểm của văn nghệ sĩ nơi chiến trường, lúc thì nói đến cách chọn đề tài để viết. Ông cho biết đôi khi mạch sáng tác bị nghẽn, nhà thơ tạm dừng bút quay sang làm việc khác cho đầu óc thư giãn, như sửa sang cây cảnh, làm chuồng chăm sóc vật nuôi… Hầu hết sáng tác của ông đều bắt nguồn từ hiện thực; có lúc như tự truyện (bài “Quê Hương“), có lúc như khát vọng (bài “Nghe em vào đại học”), nhiều khi thơ ông trở thành bản cáo trạng đanh thép đối với kẻ thù.
Hòa bình lập lại, mạch thơ Giang Nam thêm phần cảm thông, chia sẻ với bao hoàn cảnh thiệt thòi; thậm chí khoan dung với kẻ lạc đường, độ lượng với số phận những phụ nữ lỡ lầm như trong bài lục bát khi ông đến thăm Trại phục hồi nhân phẩm Đồng Găng. Rồi ông chia sẻ với chúng tôi việc giao lưu chuyển gửi tác phẩm đến tòa soạn, đến nhà xuất bản, cách giữ gìn bảo quản cẩn thận bản thảo trong mọi tình huống. Vậy mà có lần thời bao cấp cuối những năm 70 đầu những năm 80 thế kỷ trước, phương tiện đi lại còn khó khăn, cảnh tàu xe căng thẳng nhốn nháo. Nhà thơ Giang Nam đem tập bản thảo vào cho nhà in thành phố Hồ Chí Minh đựng trong cặp táp dày cộp. Kẻ cắp trên tàu hỏa tưởng ông cán bộ này mang nhiều tiền, nhân cơ hội xô đẩy chen lấn đã rạch xách nhà thơ lấy trộm. Khi xuống tàu mới biết cặp xách bị rạch và cuốn bản thảo bị mất, ông bần thần tiếc nuối tập bản thảo vô chừng!
Cả đời làm cách mạng, Giang Nam lúc nào cũng nghĩ đến chữ tâm, chữ đức. Ông chia sẻ: “Thi ca cũng cần phải có đạo đức, ngày xưa chúng tôi làm thơ cũng chỉ để phục vụ cho cái chân – thiện – mỹ, ngày nay cũng thế… Làm văn nghệ, lãnh đạo văn nghệ là phải phát hiện ra cái mới, phải đi tìm, nuôi dưỡng và bảo vệ những người sáng tạo đích thực, chứ không phải đến ngồi tán gẫu cho sung sướng rồi hưởng lương, rồi đấu đá, thế thì buồn lắm…”.
Hồi ấy hội viên Hội văn học nghệ thuật tỉnh Phú Khánh chưa nhiều, hội viên phía Bắc Phú Khánh (Phú Yên) lại càng quá ít. Nên khi tôi lập gia đình, Chủ tịch Hội Giang Nam cùng các văn nghệ sĩ nhiệt tình đánh xe ra Tuy Hòa dự cưới. Hôm ấy nhằm ngày Tết dương lịch năm 1984 tổ chức tại nhà 69 đường Nguyễn Huệ. Các khách đến dự ngồi vào số bàn băng học sinh được mượn từ một trường tiểu học gần đó đem về, dùng tiệc trà, chúc mừng, rồi hát ca, đọc thơ, kể chuyện vui… Nhà thơ Giang Nam xung phong lên trước đọc liền 3 bài thơ tặng tiệc cưới, xong quay sang bắt tay chúc mừng cô dâu chú rể. Lần lượt nhà thơ Đào Xuân Quý, nhà văn Nguyễn Gia Nùng, nhà thơ Triệu Phong cũng vậy. Riêng họa sĩ Thanh Hồ vẽ sẵn chân dung phác họa tôi tặng trong dịp này. Rất vui!
Những văn nghệ sĩ ngày ấy bao năm qua đã lần lượt lãng du vào cõi vĩnh hằng. Nay nhà thơ Giang Nam là người cuối cùng ra đi trong số văn nhân thi sĩ ở Nha Trang đến Phú Yên dự ngày vui của tôi cách nay gần 40 năm. Tôi xin mạn phép thay đôi chỗ trong câu thơ ở cuối bài “Quê Hương” để tiễn ông, mong hương linh người tha thứ. “Nay tôi yêu quê hương vì trong nắm đất/ Có một phần xương thịt của Giang Nam”.
NGUYỄN TƯỜNG VĂN
Theo nguồn: https://vanvn.vn/nho-ve-nha-tho-khang-chien-giang-nam/