Những đứa con trong gia đình

Anh em gọi Việt là “cậu Tư”. Mỗi lần nghe, Việt lại toét miệng ra cười. Cái tiếng “cậu”, nghe như có họ, lại vui nữa. Vậy mà trước đây, tiểu đội trưởng Tánh có hỏi, Việt chỉ nói cha bị Tây bắn chết hồi chín năm (cuộc kháng chiến chống Pháp), mẹ mới bị đại bác của giặc giết hồi năm ngoái, ở nhà chỉ còn thằng em nhỏ đang ở với chủ, còn người chị thứ hai thì đã đi lấy chồng xa, hiện đi công tác theo chồng, vậy thôi. Nhưng một hôm, thiệt là rầy rà, đại đội trưởng giao cho tiểu đội một bức thư đề tên “Quyết Chiến ở tỉnh Bến-tre thân gởi em tôi là Nguyễn Văn Việt ở đơn vị X… ). Việt giấu thiệt kỹ mà anh em cũng mò ra được. Hôm sau, tiểu đội trưởng Tánh tuyên bố ầm lên rằng Việt còn một người chị ruột thứ ba nữa, cái cô tên là Quyết Chiến ấy, mới hai mươi tuổi thôi, hơn Việt hai tuổi, hiện là tiểu đội trưởng của bộ đội nữ địa phương quân Bến-tre. Vậy là lộ bí mật rồi!

Việt giấu chị như giấu của riêng vậy. Cậu ta sợ mất chị mà! Cái miệng ống loa của Tánh không bịt lại được. Cho tới bữa nay, nằm trong bệnh viện, hai mắt còn băng kín mít, Việt lại nghe thấy hai tiếng “cậu Tư” anh em gọi mình:

– Cậu Tư viết thư cho chị Chiến chưa?

–  Anh em mình phải không cậu Tư?

“Cậu Tư” lại cười lớn lẻn. Dưới cái băng trắng, hai gò má căng mướt như da trái vú sữa hơi ửng lên.

Việt muốn viết thư cho chị Chiến lắm. Nhưng biết nói gì? Không lẽ báo tin mình bị thương? Đâu được, phải nói làm sao chớ? Mà có viết thì cũng phải nhờ người khác viết giùm, như vậy anh em sẽ lại ghẹo um lên. Thôi vậy.

Việt trùm chăn kín đầu. Gió chướng thôi lao rao trên mái nhà. Trời lạnh. Nhưng đừng tưởng Việt ngủ. Việt nằm đó, với cây viết chì mượn của chị hộ lý, một cuốn tập còn cất trong bồng, Việt mò mò viết thử. Nói cái gì, câu đầu đặt làm sao đây, nó mới gay go… Việt rờ rờ từng dòng.

Hồi ở nhà, Việt có “làm đuôi” cho các anh du kích đi bắn tàu một lần. Sông Định-thủy hẹp chỉ vài chục sải. Lần đầu tiên Việt nhìn thấy rõ một thằng Mỹ. Nó mập, ở trần, ngồi chồm hổm trên boong, đội cái nón có cái tai che gáy, lõ mắt trước cây súng máy, ria đạn vào bờ. Năm phát “bá đỏ” của du kích đã nổ một lượt. Trong đó có hai phát của chị Chiến và Việt. Khói đạn mù lên. Trực thăng nó nhào tới. Bắn xong có biết nó chết đâu. Mãi ba ngày sau, một buổi sớm, các bà đi chợ bỗng la lên chết khiếp vì thấy xác một thằng chỏng kê đầu vào mép xuồng. Người ta lôi lên mới rõ là thằng Mỹ. Nó vẫn ở trần, cái nón có tai bay mất, một lỗ đạn bằng cái khu tô nằm giữa thớt ngực trắng lốp, hai con mắt như hai cái trứng thối vẫn còn lõ ra, nhưng không phải trước cây súng máy, mà trước chị em Việt.

Lần đó Việt và chị Chiến không giành nhau, nhưng ai cũng nghĩ rằng phát đạn đó là của mình. Chị Chiến không còn ở tuổi giận lẫy nữa. Chị hất súng lên vai, kẹp một nhúm tóc mai vào miệng, nhìn Việt bằng con mắt hiền dịu đầu hơi nghiêng xuống, như muốn nói: Tạo nhường cho mày !

Bây giờ, xa chị, đi bộ đội, lên đây, cái gì cũng lạ đối với Việt. Những ngọn đồi, những con đường đất đỏ như gạch non, những vỏ trái cao-su nổ lách tách dưới trời trưa mở ra hình dáng những chiếc sừng trâu nhọn mà sắc. Những thân cây gõ dềnh dàng, chú Năm có thể xẻ hàng chục bộ ván. Những con đường sắt chỉ có hai cái ngoe thôi, coi thiệt ngộ, chân người bước lên còn tẻ, vậy mà xe chạy được. Rồi thì rừng, cây ông ngoại có, cây con nít có, mọc tới tới, không biết dứt ở chỗ trời nào đất nào. Cứ tới giờ nghỉ, nằm lên võng, Việt lại “Anh Tánh hời! Anh Tánh hả!, hỏi riết, làm Tánh cứ phải giơ cái cằm nhọn ra, nghĩ hoài câu trả lời.

Trận đánh hôm ấy diễn ra từ lúc trời còn tối, anh Tánh cứ luôn miệng kêu “Việt ơi, Việt à”, nhưng Việt lạc sao được. Bây giờ thì trời đã sáng. Ở mặt trận thường như vậy, cứ mải bám giặc, trời sáng lúc nào không hay. Đến khi nhận ra thì mọi vật bỗng trở nên sáng sủa, đậm nét, sự diễn biến và mức ác liệt của trận đánh dường như cũng rõ ràng hơn.

Miếng đất xảy ra cuộc đọ lê ấy nằm trong những lô cây cao-su và còn nguyên màu đất đỏ, loe loét trên mặt đất. Ngay bên cạnh những hình thù nham nhở đó là các thứ đậm hơi trông như những thân người bất động nằm ngổn ngang dưới những mái lều vải dã chiến. Súng, thùng đạn, vỏ đồ hộp, các thử giấy gói bẩn thỉu in đủ màu sắc và đủ các kiểu ngồi đứng của đàn bà, chen chúc trong mọi kẽ ngách.

Cuộc sống lúc nhúc ung mủ ấy kéo dài trên trăm công đất, ngột lên mùi súng đạn, mùi dầu xăng, mùi nước hoa của bọn “nữ cộng hòa”, và mùi nước đái.

Khi cuộc đọ lê bắt đầu thì miếng đất ấy đã bị phủ lên một lớp khói lựu đạn của chúng ta, mù mịt như một buổi đốt đồng ở Tháp-mười. Qua những cành cao-su trụi, Việt nhìn thấy rất rõ những cột khói màu núi đá cuồn cuộn ở trên trời, trong đó vẫn ầm ĩ tiếng máy bay nhưng không nhìn thấy chúng. Anh em ta thọc lê xuống từng lỗ công sự giặc. Những mái lều vải bị lựu đạn ta hất tung lên rồi úp xuống. Những khối đen thui không còn nhận ra hình dáng của những xe bọc thép đang bị bao tròn trong ngọn lửa xăng. Những thằng Mỹ khiếp đảm vì cuộc đọ lê đang chạy thành từng dây cao lêu nghêu, chúng mất hút đằng sau xa hoặc gục xuống ngay tại đó.

Một thằng Mỹ mắt dáo dác vừa lú đầu ra khỏi ụ súng như đầu con chuột, anh Tánh đã cho nó một phát. Anh lẹ tay thiệt ! Việt rượt theo thẳng thứ hai, lụi nó đến mấy cái mà lại không tới, tức như bò đá. Thằng thứ ba, Việt chỉ thấy có hai cái giò, còn người nó đã quấn kín, trốn trong một tấm tăng. Việt cứ mải đâm vào hai cái giò cho đến khi nó nhảy còng lên, sắp tung ra chạy được, Việt mới chợt nhớ phải cho nó một mũi vào ngay giữa ngực. Vừa rút lê ra thì Việt bỗng ngã chúi, một thằng trên đường chạy đã húc mũi súng vào người Việt. Thì ra cái thằng cởi truồng dồng dỗng, chạy như chó. Anh Tánh vọt theo nó. Việt chưa kịp ngồi dậy thì một thằng khác lại chạy tới, nó cao to như cây cao-su cụt, dang tay bỏ cây súng đen trũi xuống đầu Việt. Nó giết mình đây !… Việt chưa hề đánh lê, cũng chưa từng vật nhau với giặc. Nhưng khi cái chết giáng xuống đầu mình như vậy, Việt tính sao đây? Một giây kỳ lạ, chẳng kịp nghĩ gì cả, nhưng trong những giây không nghĩ gì ấy chúng ta lại vụt lớn khôn hơn, can đảm hơn, lòng căm thù giặc cùng với sức mạnh trong cơ thể được bật dậy một cách mãnh liệt hơn. Chính những giây kỳ lạ ấy đã làm cho chúng ta vượt qua ranh giới của tuổi thơ và tạo nên những chuyện bất ngờ nhất trong tuổi trưởng thành. Phút giây kỳ lạ này đã đến với Việt, đến một cách hoàn chỉnh và đẹp nhất trong tuổi mười tám của Việt.

Như một việc tự nhiên phải làm như vậy, Việt lăn xả vào chân thằng Mỹ. Cái thằng cao to như cây cao-su cụt bị rối giò, lỡ đà, té xuống một cái như trời giáng rồi cứ thế, nó bò hoảng lên, kéo theo cả Việt một tay đang cầm súng, một tay ghì cứng lấy chân nó. Đến khi Việt buông ra thì thằng Mỹ đã nằm ngay đơ, máu ứa ra miệng, hết thở, mặt vẫn còn xám ngoét. Không biết sao nó lại chết, Việt nghĩ vậy, rồi liếm mãi đôi môi mình đã khô cứng.

Anh Tánh đang quần nhau với giặc ở đằng kia. Xa xa, một cụm xe bọc thép đang bị vây trong đám lửa chói chang, thỉnh thoảng một cái lại bùng lên, rồi chỗ đó trống lỗng như chưa hề có mặt nó. Hông Việt đau lắm, nhưng cũng còn giết được nó chứ? Việt ngồi nép vào một gốc cao-su. Lưỡi lê của Việt lia ngang chân một thằng, nó té sấp. Sẵn tay Việt thêm cho nó một mũi vào sườn. Nó quẫy lên, hai tay đập đập xuống đất như đập kiến cho đến khi bật ngửa được ra, rồi nằm yên luôn như vậy. Ngực Việt bỗng dội lên, ruột đau điếng, hai tay vừa chụp được chân cái thằng nào vừa phóng vào người mình thì nó đã giằng ra, chạy mất. Thằng chạy chết mà còn láo! Việt thoáng nhìn thấy nó, đầu nó bự như cái lư, tức mà tiếc. Một chiếc xe bọc thép lao tới, vừa bắn vừa húc cây đồ rầm rầm. Việt mới kịp lăn ra thì nó đã đè nghiến thắng Mỹ đập kiến hồi nãy dẹp lép, rồi sẵn đà húc luôn vào gốc cao-su Việt vừa núp. Chà! Cả bọn Mỹ nhà mày! Mày cũng định xô lên người tao mà chạy nữa à? Việt xoa chỗ đau trên ngực, bò tới. Cái xe lớn như trái núi con ! Thân cây bị nó xô đã nghiêng về phía trước, chuyển răng rắc. Nó lại sắp vọt đi mất! Việt bật dậy, hông vừa cảm thấy đau nhói vì vết thương thì tay đã bám được vào thành sắt sau xe. Đáng công trái thủ pháo Việt vẫn để dành… Nhưng thủ pháo chưa kịp lấy ra, nó đã xô đổ gốc cao-su, lôi luôn Việt theo. Cái nón nan Việt đội đập tưng tưng vào thành xe. Thật là rầy! Buông à? Tết tao mới buông! Mày cũng chỉ là cải xe Mỹ chở cái cóc gì? Nỗi đau đớn, sinh mạng chông chênh, Việt quên hết. Chỉ nhớ người mình đang mát nhẹ như bay, giờ đây mình đang có một cánh tay phải rán bám chặt vào thành xe và một tay phải mở cho được trái thủ pháo. “Giặc còn thì còn chết…”», câu nói như một lời hứa thân thuộc từ một nơi nào đó rất xa dội lại… Cái xe vẫn chạy thục mạng. Giặc ném lựu đạn ra nổ ùng oàng đằng sau. Kệ cha mày ! Khói bụi lấp kín lấy Việt. Hai mắt bị thương tứa máu và tối lại lúc nào Việt cũng không biết.

Chiếc xe bọc thép cháy bùng lên, một ngọn lửa xanh liếm ngang ngọn cao-su. Trái thủ pháo của Việt đã nổ gọn trong lòng nó.

Theo như chị Chiến thì chết thật không biết nó làm sao chờ chết giấc cũng như ta đi ngủ vậy. Đó là lần đơn vị chị tiêu diệt bót Lương-hòa. Chị đang đứng chỉ huy và bỏ trái cho một chị bắn «tông-lông » thì một trái bom nổ gần hất chị té xuống. Thế là người chị nhẹ hơ, không kịp la ái ố gì hết, ngủ luôn. Chết giấc như chị thì cũng như nhõng nhẽo vậy thôi, hồi đó Việt nghĩ vậy, bởi ngày má còn sống chị cũng hay nhõng nhẽo. Hơn nữa, Việt dòm vào hình chị gởi lên không thấy thẹo gì hết, mà cái hơi bom không thì có ăn nhằm gì?

Vậy mà hồi đó chị đã chết giấc thật. Như một buổi đi cấy về, lăn ra giường ngủ khỏe. Bây giờ Việt mới hiểu điều đó. Tỉnh dậy thấy trời đất tối đen, Việt đoán là ban đêm và cảm thấy mình vừa ngủ được một giấc dài. Đây là đâu? Việt lạc mặt trận quá xa rồi. Làm sao các anh tìm được Việt đây? Đến khi mò được cây súng và chùi sơ cho nó xong, Việt mới cảm thấy chân tay tê dại, khắp người, nước hay máu không biết, chỗ ướt sũng, chỗ dẻo quẹo, chỗ đã khô cứng. Việt bò đi. Hưởng nào đây? Anh Tánh ở đâu? Trừ tiếng máy bay, trận địa đều vắng lặng. Một hơi lạnh lùa xuống lưng Việt, luồn lên vai rồi tỏa ra thoang thoảng ở hai vành tai. Trời tối kỳ lạ, Việt cho mũi lê đi trước, rồi tới hai cùi tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi sau cùng. Cái nào không chịu đi thì bắt phải đi.

Vật đầu tiên là xác một thằng Mỹ, cái nón sắt của nó đụng phải tay Việt. Thằng thứ hai, Việt rờ phải đôi giày bó giò của nó. Rồi thằng thứ ba, thứ tư… Thằng nào cũng toát ra cái mùi Mỹ kỳ lạ, mùi tanh lạnh của xác chết. Trận địa đây rồi! Những hố bom, hố công sự giúi người Việt xuống. Những tấm tăng cháy dở còn nóng hổi, những thùng đạn ngập trong đất, những đống vỏ đạn còn tanh máu. Nhưng sao im lặng quá ! Anh Tánh đâu? Đơn vị của Việt đâu? Các anh ở gần hay ở xa? Không tìm thấy Việt sao? Việt đi đánh xe ở tuốt đằng kia, xa lắm, thủ pháo đã bỏ vào thùng nó, chắc nó cháy rồi, bây giờ Việt đi tìm các anh đây! Việt bò gấp, qua những cái gì nữa Việt không cần biết, quên cả khắp người đang rỉ máu, quên cả trận địa sắt thép ngỗn ngang mà một cành cây nhỏ đụng vào người Việt bây giờ cũng làm nặng thêm thương tích. Nhất định các anh đang đi tìm Việt ở gần đây thôi, qua hố bom này rồi sẽ tới. Việt muốn la lên nhưng miệng tê cứng. Hình như mắt Việt đã nhìn thấy các anh, giữa đám khói trắng của lựu đạn, các anh đang đâm bọn Mỹ và đang gọi Việt rối rít… Việt còn đây! Việt sẽ tới phụ với các anh! Việt chộp súng, lên đạn. Cả mười ngón tay không ngón nào còn lên nổi. Việt ghé răng, giựt mạnh cơ bầm. Một viên đạn lên nòng…

Việt tỉnh dậy lần thứ hai lúc trời lất phất mưa. Tiếng máy bay tắt hẳn, chỉ còn hơi gió lạnh đang lùa trên má. Ếch nhái kêu dậy lên. Việt lắng nghe, đúng là những con ếch nái bụng tròn vo, mắt thồi lồi, hay ngồi liếm mép kêu uôm uôm. Có ai đi soi ếch gần đây không? Ở quê Việt, những đêm như đêm nay, đèn soi nhấp nháng đầy đồng. Cứ trời vừa dứt hột, Việt đã cởi trần ra, hai chị em hai cái đèn soi, lóp ngóp đi. Cười từ lúc đi cho tới lúc về. Khi đổ ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang. Chú kiếm ít con trọng trọng về nhậu, đôi khi còn phải đứng ra phân xử vì chị Chiến và Việt ai cũng giành phần nhiều là của mình. Chị Chiến bao giờ cũng nhường Việt. Sau này lớn lên, vết đạn bắn thằng Mỹ trên sông Định-thủy, chị cũng nhường. Về việc này, muốn cho công bằng, chú Năm đã phải ghi cả chiến công của hai chị em vào cuốn sổ của gia đình.

Việt thương chú Năm vì hồi đó chú hay bênh Việt. Chú là người thân gần nhất và lớn nhất còn lại của gia đình. Trong bả vai chủ còn một đầu đạn của thằng Tây hồi chín năm. Chú chưa già, nhưng tóc đã đốm bạc. Chú ít nói, nhưng đã nhậu vào ba hột là chú nói tới. Chú nói Việt là một thằng nhỏ gan, chị Chiến là đứa con gái không khác mẹ một chút nào. Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện, thế nào chủ cũng hò lên mấy câu. Những câu hò chú thuộc từ hồi đi chèo ghe mướn ở Sài-gòn, lục tỉnh, những câu nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất này. Chú già rồi, giọng hò đã đục và tức như gà gáy. Lúc đó, gân cổ chú nổi đỏ lên, tay chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mắt Việt, đầu chú lắc lư, nhắn nhủ, làm như Việt chính là nơi cụ thể để chú gửi gấm những câu hò đó, hoặc chính Việt là những câu hò đó. Theo từng câu hò, khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò-công, hoặc ngôi sao sáng ở Tháp-mười. Chị Chiến bịt miệng cười, nhìn chú, Việt cũng vậy. Một lần chú bảo:

– Cười đi con, ráng cho mau lớn. Chừng nào bây trọng trọng tao giao cuốn sổ cho chị em bây.

Đó là cuốn sổ gia đình. Chị Chiến đã lôi ra tập đánh vần một lần. Việt cũng có ghé đầu vào học ké. Chữ chú viết lòng còng vì hồi đi đánh Tây, chú mới được học.

Mới hay, chú ghi đủ hết :… Thím Năm bơi xuồng đi rọc lá chuối bị cà-nông Mỏ-cày bắn bể xuồng, chết còn mặc cái quần mới, trong túi còn hai đồng bạc, giỗ nhằm ngày… Ông nội nghe súng nổ, sợ bò đứt dây ra nắm giàm bò, lính tổng Phòng vào nói: “Mày là du kích !”» rồi bắn vào giữa bụng ông nội, giỗ nhằm ngày… Ngày hăm chín tháng chạp âm, đại diện Tỏa cho lính đến cắt lúa của bác Hai, nói là ruộng Việt Minh cấp, có chửi “đù mẹ” rồi đập bể cái trã kháp rượu. Ngày… quận Sơn dắt lính Mỏ-cày về bao nhà, hỏi bà nội rằng chú Năm trốn đâu, bà nội nói không biết, quận Sơn bắt bà nội cúi xuống giữa sân đánh bà nội ba roi… Ngày ba mươi tháng sáu âm nhằm trời tối, tía của Việt ôm đệm đi ngủ ngoài bờ bị lính Tây bót Kinh-ngang bắt chặt đầu, má Việt ôm rổ đi đòi đầu, có lượm được số tiền hai ngàn đồng của chi bộ, tía Việt giấu ở đầu bờ ruộng…

Sau đó, chú Năm có ghi một số công tác của gia đình : …ông nội đi đóng đáy ở sông Bình khánh có mò được hai cây mút mát dưới tàu chìm… Thằng Hai, con chú Năm, đi về phép, lúc ngang lộ Giồng-trôm, thấy cốt Ngã-ba, liền bò vào đặt trái, lấy cốt xong, bó năm cây súng vác về xã nhà… Dưới câu này, chú Năm có ghi: Còn nhiều việc thỏn mỏn tôi ghi không hết, để rồi sắp nhỏ nó ghi thêm. Kế câu đó là chiến công của chị em Việt trên sông Định-thủy.

Có lúc Việt còn bỏ về nhà ăn cơm, nhưng chị Chiến cứ ngồi một góc ván, lông mày cau lại, chéo khăn hờ ngang miệng, đánh vần hoài. Chị đọc tiếng đặng tiếng mất, chữ mẹ đẻ chữ con, từ trưa tới xế, rồi từ xế tới chiều, bỏ ăn, quên cả trời chạng vạng.

Chị Chiến nói, tại chú Năm đi đây đi đó nhiều, nên bây giờ chú mới hay ghi như vậy. Chẳng là trước chú vốn đi bè, cũng ham sông ham bến, nên biết nhiều nơi. Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sống, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đồ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta.

Việt choàng dậy. Tiếng trực thăng phành phạch bay từng bầy trên đầu. Xa xa, súng nhỏ nổ từng loạt ngắn. Người Việt khô khốc, thèm tắm và rất thèm vào bếp lục cơm nguội. Vậy là ban ngày đã đến. Mùi nắng có thể ngửi thấy được. Hai mắt Việt bị thương thật rồi, nó đang sưng lên cho nên ban ngày rồi mà Việt không thấy gì hết. Nếu giặc tới, làm sao bắn? Rồi làm sao thấy đường mà tìm các anh? Sao không bị ở chân mà lại ở mắt? Nhưng ở chân cũng vậy, nó cũng đang đau điếng và rỏ máu. Hai tay, vai, đầu cũng vậy. Chỗ nào đụng tới, ruồi cũng bay lên như vãi trấu. Lê đi vài bước, Việt tìm được một chỗ mát, đám ruồi cũng vù vù bay theo. Gói cơm đã ăn từ lúc nằm chờ nổ súng rồi. Bình nước hãy còn, nhưng làm sao quẹo tay ra sau mà lấy được? Phải chờ anh Tánh vậy. Anh Tánh đang kiếm Việt ở đâu, phải anh tới đây là gặp Việt liền thôi. Ở đây hình như có cây thơm rừng. Việt rờ thấy gai. Bên cạnh lại có cây trang rừng, Việt đã nhai được một cái bông ngòn ngọt của nó. Anh Tánh cứ dòm nơi nào thấy cây thơm rừng và lùm trang bông đỏ chói là gặp Việt ngay.

Hơi xe bọc thép nghe chạy mỗi lúc mỗi gần. Pháo bầy nổ càng gần hơn, nghe rào rào cành cây đổ. Việt day họng súng về hướng đó. Nếu mày đổ quân thì súng tao còn đạn! Ba viên còn dưới hộp, một viên đã lên nòng. Việt lần tay vào bao đạn trước bụng, Các ngón tay đều tê nhức, không sao mở được. Lần này về, Việt sẽ mượn kim chỉ của anh Tánh may lại. Sẽ bỏ cái khóa sắt đi, thay hai cái dây vào, muốn mở thì chỉ việc kẹp một đầu dây mà lôi ra. Tiếng xe bọc thép ào ào chạy qua hướng trước mặt Việt. Nghe tiếng cũng biết chúng chạy như biến. Những loạt tiểu liên đâu đây nghe gần lắm, nghe nổ có thể nghĩ tới họng súng nó đang bốc khói. Chúng đến giết mình đây! Chết là gì nhỉ? Chắc là đau gấp mấy lần bị thương. Hay chết tức là người thật thì biến lên trên nóc nhà, còn người giả thì nằm tại đó? Việt chưa bao giờ nghĩ tới cái chết, mà cũng chưa nghe ai nói rõ nó ra sao, nhưng nếu chết mà không còn được ở chung với anh Tánh và không được đi bộ đội nữa thì buồn lắm. Việt không sợ chết, chỉ sợ cái đó thôi. Bọn giặc đạp cây chạy rầm rập. Tiếng xe bọc thép lại rú lên. Bò đi đâu? Việt nhướng đôi mắt tối thui lên dòm. Được, Việt cứ nằm đây! Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy. Hôm qua mày đã chạy trước mặt tao mà… Mặt Việt nóng như ngồi bếp. Lại ruồi, ruồi dày đặc bay dập vào mặt vào cổ Việt. Đói, nghe giặc đến gần sao bụng nó bắt đói kỳ lạ, Việt rờ rờ vào cỏ súng. Chín ngón tay đã bị thương, chỉ còn một ngón cái hơi nhúc nhích. Phải chi có chị Chiến ở đây chị sẽ bắn thế cho Việt. Chỗ này gác súng thiệt tốt, ngay dưới gốc bông trang, chị cứ đưa Việt giữ giùm cái kiếng trong túi, ngồi hẳn xuống, nhằm thẳng vào ngực nó mà nổ súng.

Việt nằm sấp, má áp vào bá súng như gối đầu trên tay chị, hai cánh mũi phập phồng, đôi mắt thỉnh thoảng lại nhướng lên. Có tiếng chim cu rừng gù gù đâu đây. Những con cu cô đeo những chấm xanh đỏ óng ánh như cườm, hay đậu trên rặng bần ở sông Định-thủy. Hồi ở nhà, có ngày nào Việt khỏi xách ná thun đi bắn nó. Đó là những buổi trưa, cái nắng ở quê cũng mát mẻ, Việt để đầu trần, mình mẩy tèm lem sình đất từ chỗ móc mương lên, lội tắt trong vườn, đi tìm chim. Chích chòe, hoành hoạch, cò ma, chuột chuyền dừa… không lỏi một con. Sáng đi làm mướn, chiều về một xâu chim treo ở cán cuốc. Cuốc vừa đặt xuống thì xâu chim cũng được thảy ra trước mặt chị Chiến. Lớn lên một chút, xâu chim lại được treo ở đầu cây súng tự tạo, cái ná thun cũng không còn lủng lẳng ở cổ nữa, mà được giắt gọn sau lưng quần. Bây giờ đi bộ đội, cầm súng tự động, bá súng còn thơm gỗ, đánh Mỹ bằng lê, cái ná thun vẫn còn nằm gọn trong túi áo. Dây thun đã mấy lần thay, nhưng cái nạng ổi của nó vẫn như cũ. Nó láng o, lên nước, chú Năm đã làm nó cho Việt nhân việc máy bay ném bom đào mất gốc ổi trong vườn chủ.

Việt đi tòng quân cũng chỉ có vậy, một cái võng, một bộ quân phục và cái ná thun. Ngày đó má vừa mới mất. Má đi đấu tranh ở Mỏ-cày về, cà-nông nó bắn đuổi theo. Một trái rơi bịch trên lộ, trước mặt má, không nổ, má đến dòm dòm rồi bỏ luôn vào rổ, cắp về. Một trái khác đã văng miếng trúng má lúc má về tới đầu xóm. Má nằm xuống, trái cà nông lép trong rổ vẫn còn nóng hổi. Má chết, Việt nhớ hoài câu chuyện má hay kể:

Tao dạn là nhờ ba mày. Ba mày bị Tây nó chặt đầu, tao cứ đi theo cái thằng nó xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong tới ấp ngoài, nó qua sông tao cũng qua, nó về quận tao cũng tới. Một tay tao bồng em mày, một tay tao cắp rổ. Chị Hai mày đang nấu cơm, cũng mang cả đũa bếp chạy theo, tóc tai xù xuống mặt, chỉ ló có một con mắt ra nước chảy ròng ròng, Mày với con Chiến thì chạy theo sau chị Hai mày mà la: Trả đầu ba ! Trả đầu ba!» Tao muốn la cho chị em bay ở nhà. Đi mình tao, tao chửi nó, nó có bắn tao thì cũng còn chị em bay để trả thù cho ba mày. Mỗi lần nó bắn đùng đùng trên đầu, chị em bay lại níu chân tao. Lòng dạ tao đâu còn rảnh để mà sợ, mà khóc, chỉ thương con thôi. Rõ là đầu ba mày đó, nó xách mắt trợn trắng đó, mà không sao đòi được. Về tới quận, nó đi rao khắp chợ rồi liệng đầu ba mày vào ngực tao. Quân bất nhân vậy đó, làm máu me văng cùng vào đầu em mày. Phải hồi đó tao không níu lại thì nó đã bắn mày rồi. Đầu ba ở dưới đất không lượm, cứ nhè cái thằng vừa liệng đầu mà đá.

Chiều hôm đó, về tới nhà, má mới khóc. Thím Năm vừa khóc vừa kể thôi là kể. Má chỉ nằm khóc chớ không kể gì hết. Bao nhiêu năm sau đó cũng vậy, lúc nào nói lại chuyện trên má cũng không khóc. Mà lúc nào khóc thì má không nói gì hết. Ban ngày, má đi làm, miệng vừa nói: “Việt à, coi chừng nhà nghe con!”, chân má đã đẩy xuồng ra tuốt giữa sông. Má bơi xuồng thiệt khỏe, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách mướp để lộ cái gáy đo đỏ và đôi vai lực lưỡng. Chiều về, xuồng còn giữa sông, má đã gọi: “Việt à, ra phụ má nghe con!”. Xuồng cặp bến, mặt má vẫn đỏ rực, cái nón rách được ngả ra làm quạt, lưng áo bà ba đẫm mồ hôi đã đen lại không còn thấy bạc nữa. Việt phụ với chị Chiến rinh thúng lúa công gặt mướn của má lên bờ. Rồi má lại bơi đi. Canh hai má mới về. Nghe tiếng xuồng cặp bến khua lọc cọc, rồi tiếng chân má đi bịch bịch vào nhà. Lần này, má rinh thúng lúa lên một mình và đặt ngay trên giường ngủ. Việt nằm đó, ngửi thấy mùi lúa gạo và mùi mồ hôi của má ngay trên đầu mình.

Nhưng cái xuồng rồi cũng không còn. Bọn lính đã đập bể nó trong một buổi má chở bà con lên đấu tranh ở chợ quận. Má trở về, ngày ngày, đôi mắt má mở to như lúc nào cũng phải suy nghĩ, đôi bắp chân má tròn vo lúc nào cũng dính sình đất, má lội hết đồng này sang bưng khác, con mắt tìm việc, bàn chân dọ đường. Má đi xin làm công cấy, công gặt, đi dọ tình thế bọn làng lính, ôm về khi mở củi, khi mớ tép. Chị Hai theo má, chị Chiến coi em, Việt xách ná thun đi gác, có lính thì bắn “chóc…bịch!, báo tin cho các cô, các chú cán bộ ở trong nhà xuống hầm. Lâu lắm, mới thấy má khóc. Đó là lúc chị em Việt đã ngủ cả, chỉ còn tiếng chuột chạy trên nóc nhà, tiếng chó sủa ở đầu xóm và tiếng mõ của dân canh trên đồn dân vệ. Má hay nghĩ ngợi lặng lẽ như vậy. Ý nghĩ thường bắt đầu từ cuộc đời còn con gái của má, lúc đó bà ngoại lảng tai còn sống, chiều chiều má đi làm mướn về, vì không tiền đi đò nên vẫn lấy nón làm phao mà lội qua sông. Ba hồi đó còn là trai, cầm tầm vông gác bến đò. Một buổi má xin giang xuồng, ba nhứt định không cho, má liền phóng xuống sông, lội. Xuồng ba cặp bến thì má cũng lội tới bờ. Hai bên giáp mặt, ba cười hề hề, nhưng má chẳng thèm dòm, hai mắt hứ một cái “cóc”!, rồi đi thẳng. Vậy mà nên vợ nên chồng. Bởi vì chiều hôm đó má gánh cơm đi tặng bộ đội “tầm vông” thì lại gặp ba trong hàng ngũ đó. Lấy chồng rồi, má lại lặn lội thăm chồng. Lên rừng xuống biển má cũng đi, vai gánh chục dừa, một đầu thêm nải chuối, một đầu thêm vài rê thuốc. Sau đó ba bị thương, được chuyển về xã công tác, ở chưa ấm chỗ, đầu còn xanh, ngờ đâu lại chết tức như vậy?

Mỗi lần nghe tiếng ná thun của Việt bắn chim trong vườn, má lại nói:

– Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi ! Để má ráng nuôi bay lớn coi bay có làm được gì cho cha mày vui không?

Việt nghĩ ba chết rồi, biết gì mà vui. Nhưng mà tin rằng người chết có cái vui của người chết, nếu không, người ta sanh con ra làm gì?

Bọn lính tới bao nhà, hỏi: “Vợ Tư Năng đâu” ? Má ra trước cửa, trả lời:

– Vợ Tư Năng đây !

Hai bàn tay to bản của má phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân. Bọn lính bắn vọt qua đầu má, má dùa đàn con lại đằng sau tránh đạn. Má trông ngày trông đêm cho con mau lớn. Dường như cả cuộc đời vất vả của má, mọi ý nghĩ lặng lẽ trong đêm của má, cả những nguy hiềm gian lao mà má đã trải qua một cách không hề sợ hãi đó, tất cả đều được gom lại và dồn vào trong ý nghĩ cuối cùng này. Vì mong cho con mau lớn mà má trông từ cách con làm tới miếng cơm con ăn trong miệng. Mỗi lần bọn lính bắn dọa mẹ con như vậy, mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển.

Việt tỉnh dậy lần thứ tư, trong đầu còn thoáng qua hình ảnh của người mẹ. Đêm nữa lại đến. Đêm sâu thăm thẳm, bắt đầu từ tiếng dế gáy u u cao vút mãi lên. Người Việt như đang tan ra nhè nhẹ. Ước gì bây giờ được gặp má. Phải, ví như lúc má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dạy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn… Nhưng mấy giọt mưa lất phất trên cổ làm Việt choàng tỉnh hẳn. Một sự vắng lặng như từ trên trời lao xuống chạy từ cồ Việt, lan dài cho tới ngón chân. Việt có một mình ở đây thôi ư? Câu hỏi bật ra trong đầu Việt rồi dội lại trong từng chân lông kẽ tóc. Cái cảm giác một mình bật lên một cách rõ ràng nhất, mênh mông nhất, trong đêm thứ hai này, khi Việt cảm thấy không còn bò đi được nữa, khi những hình ảnh thân yêu thường kéo đến rất nhanh rồi cũng vụt tan biến đi rất nhanh chỉ vì một cành cây gãy, một giọt mưa rơi trên mặt, hoặc một tiếng động rất nhỏ của ban đêm. Việt muốn chạy thật nhanh, thoát khỏi sự vắng lặng này, về với ánh sáng ban ngày, gặp lại anh Tánh, níu chặt lấy các anh mà khóc như thằng Út em vẫn níu chân chị Chiến, nhưng chân tay không nhắc lên được. Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc…

Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai… Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nhỏ nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hồi đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! Đó, lại tiếng hụp hùm… chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ. Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra… Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên… Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nở rộ…

Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đồ lên đầu giặc Mỹ những đám lửa dữ dội, và những mũi lê nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong…

Ngày má chết rồi, ý nghĩ đi bộ đội cũng thôi thúc Việt như vậy. Nhưng hồi đó rắc rối hơn đêm nay bò tới mặt trận nhiều. Việt vừa ngỏ lời ra, chị Chiến đã giành đi trước. Hai đứa lớn đòi đi hết, còn thằng Út em mới mười tuổi, làm sao ? Việt đi đâu chị Chiến cũng dòm chừng, coi Việt có bọc quần áo theo không. Chị nói:

Tao lớn tao mới đi, mày còn nhỏ, ở nhà phụ làm với chú Năm, qua năm hãy đi.

Việt đá trái dừa rụng dưới chân xuống mương cái đùng: Bộ mình chị biết đi trả thù à?

– Hồi đó má nói cho tao đi, mày ở nhà làm ruộng với má, trọng trọng rồi đi sau.

– Má nói hồi nào ?

Má chết rồi, không biết ai mà phân chứng. Nhưng chị Chiến vẫn không chịu, việc này đâu có nhường được, chị sang vận động chú Năm.

Trong đêm mit-tinh để ghi tên thanh niên tòng quân, trước mặt bà con cả xã, đèn sáng rực, anh cán bộ của huyện đội vừa dứt lời, cả hai chị em Việt giành nhau chạy lên.

– Tôi tên là Việt, anh cho tôi đi bộ đội với.

Chị Chiến đứng sau Việt, thở:

– Đề nghị mấy anh xét cho. Nó là em tôi mà cái gì nó cũng giành..

Đôi chân mày rộng của anh cán bộ cứ nhướng lên giữa trán, không hiểu chuyện gì. Bà con cô bác ở dưới bàn tán lao xao. Anh cán bộ hỏi Việt:

– Hai em là chị em ruột?

– Dạ, nhà em ở ấp Một, em mười tám, chị Chiến em mười chín.

Việt dòm chị, mình đứng đầu có thua chị, tuy tóc chị có cao hơn mình một chút thật.

Chị Chiến nói:

– Đến Tết này nó mới được mười tám anh à! Em nói để em đi trước, nó ở nhà, thủng thẳng để chú Năm em thu xếp rồi hãy đi, mà nó không chịu.

Anh cán bộ nhìn hai bộ mặt bầu bầu cùng một khuôn có hai cái chót mũi hơi hớt lên của chị em Việt, rồi cười:

– Ba má có đi đây không em?

– Dạ không.

– Ba má em chết rồi

Chị Chiến nói thêm cho rõ. Anh cán bộ đã cầm viết rồi lại đặt xuống. Từ dưới sân, chú Năm bước lên. Chú nheo mắt nhìn chị em Việt, rồi nói với anh cán bộ:

– Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong.

Đêm ấy thanh niên ghi tên tòng quân đông lắm.

Cũng ngay đêm ấy, về tới nhà, trước khi ngủ chị Chiến từ trong buồng nói với ra với Việt:

– Chủ Năm nói mầy với tao đi kỳ này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu.

Việt lăn kềnh ra ván, cười khì khì:

– Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị.

– Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à! Chà, chị Chiến bữa nay nói in như má vậy! Cũng ở trong buồng mà nói vói ra, cũng nằm với thằng Út em, ở trên cái giường đó. Việt nói:

– Chị biết vậy sao hồi nãy chị ngăn tôi? Người ta mười tám rồi mà nói chưa…

– Hồi đó má tính tuổi cho mày chớ bộ tao tính ha?

Nhà day cửa ra sông, trong đêm vui náo nức này, đom đóm từ ngoài rặng bần cũng kéo vào đầy nhà. Chúng bay chớp chớp như dò trên nóc rồi sà xuống trước mặt Việt. Chị Chiến cũng không ngủ được. Sắp tới đây biết bao nhiêu chuyện phải lo, ngay bây giờ cũng bao nhiêu chuyện phải nhớ. Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thủng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt, mà cũng phải về dòm ngó coi chị em Việt tinh toán việc nhà làm sao chớ?

Chị Chiến lại nói với ra, đúng là cái giọng rành rọt tiếng nào ra tiếng nấy:

– Mai mầy viết thư cho chị Hai biết nghen?

– Sắp đi tới nơi mà còn bắt viết thư.

– Thôi tao viết.

Chị Hai là con nuôi của má. Cha mẹ chị cũng vì một tay thằng Tây mà chết. Hồi ba dắt về trao cho má, chị mới chín tuổi, ốm nhom, một mảng tóc bị bom xăng làm cháy còn sém như đuôi bò. Chị lớn tuổi hơn chị Chiến nên má đặt chị là thứ hai. Sống với gia đình được mấy năm thì một người chú bà con của chị xuống xin chị về dưới biển. Rồi chị lớn lên, lấy chồng, công tác luôn dưới đó. Sau này, mỗi năm đôi ba lần, chị lại vượt cánh đồng mấy chục cây số, lội qua mấy chục đồn bốt giặc về thăm má, thăm em. Trừ mắc công tác thì thôi, còn thì trời sập chị cũng về, cứ một mình một nón mà đi. Có bữa về, dầm mưa trắng hết mặt mũi, chơi với em được một buổi chiều, ăn bữa cơm, ngủ với má một đêm, hừng đông lại tất tưởi đi sớm.

Chị Chiến lại nói, giọng còn rành rọt hơn cả hồi nãy:

– Bây giờ chị Hai ở xa. Chị em mình đi thì thằng Út sang ở với chú Năm, chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở trường học. Chú Năm nói có con nít học ê a có gì nó quét dọn cho. Thằng Út cũng học ở đây. Mày chịu không?

Việt chụp một con đom đóm úp trong lòng tay:

–  Sao không chịu?

– Giường ván cũng cho xã mượn làm ghế học, nghen? – Hồi đó má dặn chị làm sao, giờ chị cứ làm y vậy, tôi chịu hết. .

– Má dặn tao hồi nào? Giờ còn có tao với mày thôi. Nếu đồng ý thì nồi, lu, chén, đĩa, cuốc, vá, đèn soi với nơm đề gởi chú Năm. Chừng nào chị Hai ở dưới biển về làm giỗ má, chị có muốn lấy gì thì chị chở về dưới, nghen?

– Tôi nói chị tính sao cứ tính mà…

Chị Chiến cựa mình, làm như chị nghĩ ngợi lung lắm. Phải chị thở dài rồi kêu thằng Út dậy đi đái nữa thì giống hệt như má vậy. Chị lại nói, lần này không gọi Việt bằng mày, mà bằng em và xưng chị:

Còn năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má, giờ mình đi mình trao lại chi bộ đặng chia cho cô bác khác mần, nghen? Hai công mía thì chừng nào tới mùa, nhờ chú Năm đón, để dành đó làm đám giỗ ba má. Em cũng ừ nghen?

– Ừ

– Còn bàn thờ má em tính gởi đâu? Gởi sang chú Năm cho thằng Út nó coi chừng hay là để chị Hai về đem đi?

Việt khẽ ngóc đầu lên dòm bàn thờ. Từ nãy giờ đang mải với ý nghĩ má đã về, nghe chị hỏi, Việt lại càng tin má đã về ngồi đâu đó thật. Việt nói:

– Mình đi đâu thì má đi theo đó chớ gì mà lo?

– Vậy chớ ba má không theo con thì theo ai, nhưng mà cũng phải tính cho đâu ra đó chớ. Đem bàn thờ sang gởi chú Năm, em có ừ không?

– Ừ !… mà hồi đó má dặn chị vậy hả?

– Má có biết má chết đâu mà dặn.

Việt sải chân ra giường;

– Vậy mà nói nghe in như má vậy.

Chị Chiến hử một cái “cóc” rồi trở mình. May mà chị không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi.

Chị nói:

– Tao cũng lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy.

Đúng rồi, hèn chi chị nói nghe thiệt gọn. Vậy mà hồi nãy còn giành đi với mình. Việt nghĩ vậy, rồi ngủ quên lúc nào không biết.

Sáng hôm sau, nghe chị Chiến nói, chú Năm cứ ngồi y trên ván nhìn hai cháu thiệt lâu. Một lát, chú nói:

– Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kỳ đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước – Chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi mắt – Đây rồi tao giao cuốn sổ gia đình cho chị em bây. Gọi là giao vậy chớ đưa cho bây rồi bây lội đùng đùng qua sông là hư hết. Gọi vậy chớ tao vẫn giữ, tao sẽ ghi cho hai đứa bây từng ngày.

Trong lúc chị Chiến xuống bếp nấu cơm, Việt đi câu ít con cá về làm bữa cùng má trước khi dời bàn thờ sang nhà chú, còn một mình ở nhà trên, chú Năm lại cất tiếng hò. Không phải giọng hò trong trẻo trong đêm bay ra hai bên bờ sông, rồi dội lại trên cái ghe heo chèo mướn của chú. Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội.

Cúng mẹ và cơm nước xong, mấy chị em, chú cháu thu xếp đồ đạc dời nhà. Chị Chiến ra đứng giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mỹ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai.

Hai chị em khiêng má băng tắt qua dảy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi đề lội hết đồng này sang bung khác.

***

Tánh dẫn tiểu đội đi tìm suốt ba ngày, mấy lần đụng địch, lục suốt mặt trận dài dặc mới gặp được “cậu Tư” trong một lùm cây rậm. Và nếu không nhanh miệng lên tiếng trước thì đã bị ăn đạn của cậu rồi. Bởi vì một ngón tay của cậu vẫn còn nhúc nhích, một viên đạn đã lên nòng và chung quanh cậu, dấu xe bọc thép còn hằn ngang dọc. Trong đám ruồi bay rối mù ấy, một cơ thể vẫn sống, vẫn hỏi Tánh bằng cái giọng ngây thơ chưa vỡ tiếng, giống hệt hồi ở nhà:

– Anh Tánh hả? Thiệt anh hả anh Tánh?

– Tánh đây! Tao đây! Chà, cái thằ..

Tánh vừa trả lời, vừa chùi đất dính trên đôi má bầu bầu của Việt, giọng lạc hẳn đi:

– Mình diệt nó hết rồi hả anh?.

– Ờ, diệt hết rồi, trận đánh xong rồi, xong rồi…

Đôi môi nho nhỏ của Việt khẽ động đậy, hai bên mép hơi nhích lên, đôi mắt nhưởng nhưởng dòm hoài. Việt cười, tất cả nụ cười đó, tấm lòng của Việt đó, đều gửi cho anh Tánh. Rõ ràng bàn tay của anh đang rờ trên mặt Việt, bàn tay âm ấm và chai sần đụng tới đâu Việt biết tới đó, vậy mà còn tưởng chiêm bao. Khi nghe thấy tiếng động, Việt cứ đinh ninh là giặc, đang chuẩn bị bắn nó và chờ phút quyết liệt nhất của đời mình coi cái chết nó ra sao, thì lại té ra gặp anh Tánh. Việt khóc thật, hay là cảm thấy mình đang khóc thì đúng hơn, ngực Việt nghẹn lại, mắt bị thương nên không có nước mắt, chỉ có hai giòng nước mũi chảy ra, ướt cả đôi môi nho nhỏ đang cười. Việt cũng giống hệt như thằng Út em ở nhà, khóc đó rồi cười đó, mỗi lần níu chân chị Chiến đòi đi bộ đội.

Có lẽ từ ngày ra vùng biển Ba-tri đi tòng quân tới giờ, chưa bao giờ Tánh để cho nước mắt mình chảy ra mà không kềm được. Có một lần anh đã tiễn cô gái người yêu của anh, ngày cô đuổi theo để thăm anh lúc anh đang hành quân cùng bộ đội tới Tháp-mười. Hôm đó, cô ta đã ngồi nhờ cái xe bò chở rơm cao nghệu để trở về Ba-tri. Đứng nhìn theo cái bóng nón lá trắng trắng của cô xa dần dưới ánh nắng chói chang, in hình trên nền khói mênh mông của buổi đốt đồng, Tánh không bao giờ quên được. Bởi vì, dưới cái bóng nón trắng trắng ấy không phải chỉ có một mối tình, mà còn có một người đồng chí của anh. Trở về, cô ta sẽ là người thay thế anh, ngày ngày lăn xả vào cái vùng địch đầy nguy hiểm mà anh vừa từ giã ra đi. Công việc ở đó cũng đơn giản thôi, nhưng sao nó lại đòi hỏi sức người và lòng người đến thế, công việc giúp đỡ những đội tự vệ mật chiến đấu ở trong lòng địch. Cô gái lặn lội đuổi theo để thăm anh lần này, cũng chính là để hỏi thêm anh thêm một số việc đang làm dở dang ở đó.

Cuộc sống chiến đấu bận rộn ở bộ đội đã tạo cho Tánh có đôi mắt rất nhanh và sáng nhìn sâu vào sự việc nhưng không chìm vào một chỗ. Còn cái cằm nhọn lại làm cho nụ cười của anh thêm cởi mở và miệng anh nói càng tươi tắn, trẻ trung.

Cô gái về tới quê đã lâu, cô đã lập được nhiều chiến công và có viết thư báo tin cho anh. Nỗi mừng và lòng thương cô đã mấy lần làm cho anh xao xuyến. Bây giờ nhìn Việt, anh cũng có cảm giác như vậy. Thằng Việt nhỏ của anh vừa qua một thử thách lớn mà sau ba ngày tìm kiếm, bây giờ cũng đang dậy lên trong lòng anh một nỗi mừng và một lòng thương kỳ lạ. Nước mắt đọng trên mắt anh lúc nào anh cũng không hay. Cây súng sẵn sàng nhả đạn của nó không những báo hiệu nó vẫn còn sống, mà lại sống mãnh liệt hơn bao giờ hết, cũng như người con gái kia đã sống một cách xứng đáng, sống bằng hai, sống bằng cả phần anh nữa trong cuộc chiến đấu ác liệt ở quê anh. Tánh nói, mặt anh đỏ ké và cái cổ cao hẳn lên vì khiêng nặng:

– Về kỳ này viết thư cho chị Chiến biết, nghen Việt. Việt rờ rờ mép võng, toét miệng ra cười. Mấy hôm rồi Việt mới lại nghe thấy tiếng anh Tánh. Mắt tối thui, nghe anh nói, thấy vui vui, tưởng như anh em nói chuyện với nhau trong những đêm đèn tiểu đội hết dầu vậy. Tánh hỏi:

– Nằm một mình vậy có lo không Việt?

Việt lại toét miệng ra cười. Có gì mà lo. Chết Việt cũng không sợ. Chỉ lo không được ở bộ đội nữa thôi. Nếu có chết thiệt thì Việt cũng chỉ ở dưới đó một chút, rồi lại lên đầu thai đi bộ đội nữa, điều đó dứt khoát như vậy rồi.

Tánh rờ rờ đầu võng, hỏi:

–  Tao khiêng nhanh như vậy có đau không Việt? Việt lắc đầu, mò mò tay anh Tánh, cười.

– Lạc ba ngày có sợ không Việt?

– Không… Việt đáp nho nhỏ. Chỉ sợ ma thôi.

– Có gặp con ma nào không?

Việt lại toét miệng ra cười. Tánh hiểu rằng thằng này bây giờ có bỏ một mình lên trời nó cũng không sợ, qua keo này cũng lớn lên khá rồi. Bất giác, anh nói:

– Nè, cái ná thun mầy làm rớt ra ngoài tao để ở trên đầu võng đó nghen Việt.

Nằm viện đến ngày thứ mười, Việt ngồi dậy được. Lần đầu thay băng, mắt Việt đã có thể nhận ra dáng người. Ánh sáng bừng đến trong mắt Việt, làm cho mọi vật bỗng trở nên mới lạ, thân thuộc, như vừa đi xa về. Đối với Việt, sự mới lạ đó thêm vui biết mấy. Từ cái võng, cái ná thun, đến đôi dép cao-su, cái bồng, khuôn mặt anh Tánh, tất cả đều làm cho Việt nhớ đến bộ đội, cái gia đình yêu dấu nhứt đó của Việt, không thể rời xa đó của Việt, nó vừa rộng mênh mông như biển, lại vừa nho nhỏ thân thiết như cái ná thun, Việt có thể ôm lấy được, giấu trong ngực áo mình.

Câu chuyện đánh lê của Việt được anh Tánh kể thêm. Những thằng mà Việt tưởng nó chạy thoát đó đều bị anh Tánh và tiểu đội đón đầu lụi hết ráo. Thì ra chúng chạy đâu cho thoát khỏi trời này, đất này. Nếu chúng có thoát ở đây thì về dưới kia cũng gặp tay súng của bộ đội chị Chiến thôi.

Việt hay nhớ chị như vậy nhưng lại làm như không nhớ. Lúc Tánh vào thăm lần thứ hai, đó là một buổi sáng, Việt đang trùm đầu kín mít. Tánh nói lô la từ ngoài sân:

– Viết thư cho chị Chiến chưa “cậu Tư”?

Việt cười khúc khích trong chăn. Tánh giật ra thì mới hay “cậu Tư” đang viết thư thật. Con mắt còn băng, bàn tay mới lên da non đỏ mọng, hai chân và ngực cũng băng trắng lốp. Nằm không có việc, nghe các anh nói đùa, Việt cũng viết chơi cho vui vậy thôi. Gọi là thư nhưng chỉ có một câu “Chị Chiến à…”, nét viết chì nguệch ngoạc chồng lên nhau trên trang giấy của một cuốn tập nhỏ lem nhem vết máu. Đó là cuốn tập học Việt vẫn bỏ trong cái bồng nhỏ xíu và đã đeo nó trên lưng suốt mấy ngày lạc ở mặt trận. Tánh nói, giọng nghiêm trang, miệng tròn vo:

– Ô, cái thằng !… Để tao viết cho mày.

Cũng chẳng chờ Việt đồng ý hay không, Tánh ngồi xuống viết liền, ngay trên tờ giấy đó.

Việt nghĩ bụng, thư này gởi cho chị Chiến, rồi chị sẽ gởi cho chú Năm ở quê. Được thư, chắc chú mừng lắm. Chân trời mặt biển gởi về mà. Anh Tánh cứ đặt sao cũng được, Việt không biết đặt. Muốn nhắc chị Chiến đánh giặc cho hăng, cứ nhắc câu “Giặc còn thì tao mất…” là chị biết ngay.

Tánh nói:

– Tao viết mầy diệt được một xe đầy Mỹ với sáu thằng Mỹ lẻ, nghen?

Việt nghĩ, các anh tiêu diệt cả chiến đoàn những hơn hai ngàn thằng, mà mình thì diệt có bao nhiêu. Việt nói:

– Vài thằng mà viết chi anh?

– Ủa, viết chớ, sao không?

– Có một chút cũng viết à?

– Ô, cái thằng !…

Tánh lại cúi xuống trang giấy, Việt ngẫm nghĩ, nói:

– Để mai mốt ra viện, đánh nữa rồi viết.

– Không được.

– Đây rồi chị Chiến viết thư cho chị Hai nói tôi thương má ít à…

– Ô, cái thằng

Tháng 2 -1966

Nguyễn Thi