Ngang trời mây đỏ

NGỌC BÁI

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ

 

 

NGANG TRỜI MÂY ĐỎ  

 

                                               Lịch sử đã qua

Như dấu mực nằm khô trên trang giấy

Không phải để khắc mối hận thù

Mà để đừng bao giờ lặp lại nỗi đau quá khứ

 

           Chỉ cách nơi thực dân Pháp đưa Nguyễn Thái Học và các đồng sự của ông từ nhà lao ra pháp trường, chừng nửa cây số, vào ngày 17 tháng 6 năm 1930, là đất của trại giám binh, đối diện nhà thờ thiên chúa Yên Bái. Tôi như thấy hiển hiện trước mắt những dòng máu đỏ thắm tuôn trào, vọt lên từng tia chói loá, những chiếc thủ cấp của các nghĩa sĩ văng ra dưới lưỡi máy chém, khi lời hô “Việt Nam vạn tuế” chưa dứt trong sớm mai.

 

            Thời khắc 5 giờ 5 phút sáng, giờ các vị tiên liệt đã bị lần lượt lên đoạn đầu đài, là lúc mở đầu một ngày, tôi ngồi vào bàn vi tính và khởi đầu trang viết. Cũng giờ này, 80 năm trước trên pháp trường, các quan công sứ, phó sứ, thanh tra giám binh và quan lục sự, bố chánh, tri huyện cùng quan văn võ và thân hào, cố đạo, mục sư… hồi ấy (1930), thở phào hả hê vì đã làm xong một “trọng sự”. Đám thường phạm thu dọn xác người đưa lên xe bò dưới sự kiểm soát của cảnh sát và lính khố xanh, chở xuống sau khu nghĩa địa thường dân, phía trong ga Yên Bái, chôn chung một huyệt. Các phóng viên của Le Petit Parisien, La Matin, Đông Pháp, Paris Soir, L’Avernir du Tonkin… lúc ấy tranh thủ ghi chép lại sự vụ cuối cùng trên pháp trường.

 

                                                           *

           Mấy ngày này nóng kinh khủng, dự báo thời tiết đưa tin rằng đây là đợt nóng nhất trong vòng 50 năm. Nhiệt ngoài trời hơn 40 độ. Không rõ ngày các vị nghĩa liệt bị hành hình có nắng nực cực kỳ như những ngày này không? Hay mưa? Báo chí thời ấy chỉ nói rất sơ lược về cuộc hành hình tàn khốc.

 

           Sự chết ấy không phải mất, mà trở thành sự nảy sinh. Hồn thiêng các nghĩa sĩ như nắng gió. Như trời mây, phiêu linh. Như sông suối, tuôn chảy. Như cỏ cây, lặng lẽ xanh tươi. Mãi mãi và mãi mãi.

 

           Mọi hình dung của tôi trên cái nền bi thương ấy, tư liệu lịch sử chỉ là tư liệu thuần túy, tư liệu chưa nói được những gì cần nói, còn hình ảnh và hồn người của một thời mới là bất tử, lịch sử không thể hàm chứa được điều đó.

 

Sáng 17 tháng 6 năm 2010

Bổ sung sửa chữa 2/2015

Ngọc Bái

    

Chương I

      NHỮNG NGƯỜI ĐỒNG SỰ

 

                                                                       Quất vào bóng đêm dày

                                                                       Những làn roi lịch sử

                                                                       Tỉnh thức những nhập nhòa mơ ngủ

                                                                       Những tháng năm chìm đắm mịt mờ

 

Đêm cuối năm, bầu trời không một đốm sao, gió thốc hơi lạnh bủa vây khắp các nẻo đường. Đèn điện chỉ đủ tạo nên những quầng sáng nhạt nhoà bên dưới các lùm cây. Rét đã khiến nhiều người thu mình trong chăn, không dám bước ra đường. Hà Nội trải qua một ngày thứ bảy ồn ào chợ búa, náo nhiệt tàu xe, đã dần im ắng. Vừa qua tiết đông chí, những cơn gió ghê người thổi xao xác trên các tán cây, thổi hun hút vào các lối ngõ, khiến không mấy ai ra đường vào lúc khuya khoắt. Trên đường phố chỉ còn thưa thớt mấy xích lô, đang cố nán chờ khách bước ra từ các tiệm nhảy hoặc nhà cô đầu, để kiếm lấy những đồng bạc lẻ cuối cùng trong ngày. Thấp thoáng trong các góc công viên, góc phố, trong các ngõ hẻm, lảng vảng bóng lính cẩm với con mắt dò xét xuyên thấu vào đêm tối. Lũ mèo không còn gào man dại trên các mái nhà, với bản năng đực cái hoang sinh. Chỉ có đám chim lợn suốt ngày nằm dí trong các hốc cây, giờ mới bay đi kiếm mồi chả kể gì giá lạnh. Chúng gọi nhau bằng những âm thanh quái dị kinh rợn của một loài thú lấy bóng đêm làm điều kiện duy trì sự sống. Lũ chuột lấm la lấm lét chui ra từ các xó tối, không biết rằng chúng đang là những miếng mồi ngon của lũ chim hám sát. Cuộc vật lộn tự nhiên kia diễn ra bên cạnh những lo toan của đời sống con người. Không mấy ai để ý. Người ta chỉ chợt thấy điều đó trong những khoảnh khắc vô tình, những khi không thể chìm đắm dễ dàng vào giấc ngủ.

Đêm ấy, ở cái làng Thể Giao phía nam Hà Nội đã diễn ra một sự kiện đặc biệt. Đặc biệt bởi những người đến đây gọi là để mở sòng bạc mà lại không thấy đánh bạc. Đặc biệt bởi mọi người đã chọn Thể Giao làm nơi họp bàn mở hội kín. Thể Giao là một mảnh làng sót lại cuối phố. Hình hài đô thị mới chớm đến cửa làng. Vẫn còn những ngôi nhà có vườn cau ao cá tĩnh mịch. Phố sá chưa lấn át những kiến trúc của làng xã. Vẫn còn có những ngôi nhà năm bảy gian bề thế, rộng rênh như thể hội trường. Điển hình cho những ngôi nhà ấy là của Lê Thành Vỵ, một người tâm phúc nhiệt huyết, sẵn sàng tạo điều kiện cho hoạt động của những người yêu nước bí mật. Ngôi nhà nằm rìa làng, rất tiện lợi cho việc tổ chức họp đông người.

Nguyễn Thái Học chưa bớt lo, bởi tuy đã khá đông các đồng sự, nhưng còn thiếu Phạm Tuấn Tài. Không biết anh đang gặp trở ngại gì? Một con người tràn đầy nhiệt huyết và luôn đúng hẹn. Cớ gì chưa thấy đến? Hẳn là có chuyện. Mọi người đương phân vân về sự vắng mặt của Phạm Tuấn Tài, nhưng đến giờ trọng đại, không thể hoãn được. Phạm Tuấn Tài đang làm phận sự giáo học tận Tuyên Quang, có hẹn về mà chưa thấy. Nguyễn Thái Học, thay mặt Ban tổ chức tuyên bố tiến hành hội nghị thống nhất các chi bộ đảng toàn quốc.

Tại tư gia của Lê Thành Vỵ, một ngôi nhà trại mười mét chiều dài, lợp lá rộng rãi khoáng đạt, hội nghị đại biểu lần thứ nhất của đảng được khởi sự. Yên tâm vì đã cắt đặt người canh phòng. Nhận nhau bằng ám hiệu. Không kẻ lạ nào lọt được vào nơi tổ chức lập đảng. Lá cờ nửa đỏ nửa vàng được treo lên. Lá cờ biểu hiện ý chí chiến đấu của mọi người. Không khí trang nghiêm dồn nén, nghe rõ từng hơi thở hồi hộp. Trang nghiêm bởi sự lựa chọn mà ai cũng thấy rất phù hợp với sở nguyện của người dân xứ sở đau thương này. Màu đỏ và màu vàng ấy là tượng trưng cho người Việt máu đỏ da vàng. Màu đỏ và màu vàng ấy còn là biểu hiện của tinh thần quyết bảo vệ non sông giống nòi. Màu đỏ và vàng ấy còn là tượng trưng cho Dân tộc và Dân chủ.

Chọn ngày lễ Giáng sinh để thành lập đảng là đã có tính toán. Nhân mọi người đi lễ nhà thờ mà hành sự. Bọn mật thám không biết đâu mà lần.

Qua phần khởi sự của Nguyễn Thái Học, đang thảo luận các sơ thảo cương lĩnh hoạt động của tổ chức, thì từ ngoài ngõ ánh đèn ám hiệu tắt phụt. Không ổn. Có tín hiệu khả nghi. Bọn mật thám rất có thể đã đánh hơi thấy dấu hiệu khác thường nên đã theo dõi chặt những người đến Thể Giao chăng? Nguyễn Thái Học dặn mọi người: theo phương án 2, yêu cầu lặng lẽ rút, không ai mang tài liệu gì, bình thản như ta vừa đi chơi đêm hay đi lễ lạt đình đám ở đâu đó. Mỗi người mỗi ngả, bình lặng chuyển tới trụ sở Nam Đồng thư xã, không để mật thám bám đuôi, thấy khả nghi phải đánh lạc hướng ngay. Tương kế tựu kế, chúng ta tiếp tục hội nghị ở nơi chúng không ngờ nhất. Chính cái địa điểm mà chúng gây khó dễ, bắt đóng cửa nhà sách. Nơi chúng cho rằng, ta không dám họp ở đó. Ta cần cao tay hơn, nhưng cũng không được chủ quan, phải có phương án đề phòng bất trắc.

Đã quá nửa đêm mọi người mới mò mẫm về đến địa điểm mới. Những gương mặt nhoà nhạt sương đêm, ánh lên trong lo toan với trọng trách. Phạm Tuấn Lâm, Hoàng Phạm Trân, Hồ Văn Mịch, Nguyễn Ngọc Sơn, Lê Văn Phúc, Phó Đức Chính, Nguyễn Triệu Luật, Trúc Khê …những người nòng cốt của Nam Đồng thư xã và các đại biểu đến từ khắp các vùng đã vượt qua mọi con mắt dò xét của mật thám. Vẫn chưa có mặt Phạm Tuấn Tài. Sao vậy nhỉ? Chàng trí thức mới ngoài tuổi hai mươi đầy nhiệt huyết, một sáng lập viên Nam Đồng thư xã, không lẽ nào sao nhãng lời hẹn. Mọi người vẫn đặt niềm tin ở con người thông minh quả quyết. Ở con người này không có điều gì có thể nghi ngờ. Chắc hẳn gặp sự cố nào rồi. Nhưng cảnh giác vẫn hơn. Mọi người cắt cử nhau gác. Mọi động tĩnh phải được kiểm soát. Nếu có động thì lặng lẽ rút. Mỗi người mỗi ngả, đề phòng mật thám túm gọn. Đã hoạt động bí mật là phải linh hoạt, đối phó kịp thời với mọi tình huống xấu. Đấy là bài học sơ đẳng nhất, khi dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng.

Mọi người mất hút vào các con phố nhỏ. Bóng đêm ôm trùm lên Hà Nội. Thỉnh thoảng trên đường mới thấy một vài bóng người vội vã như cố tránh cái rét. Tàu rú còi phía ga Hàng Cỏ. Đêm mông lung, cảnh vật chìm dần vào màn sương quánh đặc. Rét bám theo người đi.

Trong ngôi nhà số 6, đường 96 bờ hồ Trúc Bạch, ánh đèn thắp lên vừa đủ để nhận ra các khuôn mặt. Cuộc hội nghị của những chàng trai trẻ lại tiếp tục. Vẫn giọng điềm tĩnh của Nguyễn Thái Học:

– Chúng mình họp nhau là để thống nhất những ý tưởng đã nung nấu trong mỗi người từ đã lâu. Ngay từ cuối tháng mười, chúng ta được hậu thuẫn của Nam Đồng thư xã, đã nhóm họp bàn về việc thành lập một đảng cách mạng, tập hợp những nhà yêu nước khắp các địa phương. Đến nay, ngoài Nam Đồng thư xã, chúng ta đã lập thêm được mười tám chi bộ nữa ở mười bốn tỉnh thành, số lượng hội viên đã tới hơn hai trăm. Được sự hưởng ứng của mọi người, hôm nay chúng ta biến ý tưởng đó thành hiện thực. Đó là việc phải thành lập tổ chức đầu não, có tiếng nói chung, có ý chí chung, có mục tiêu chung, có kỷ luật chung để cùng nhau hành sự. Rất diễm phúc cho chúng ta là đã có Nam Đồng thư xã là hạt nhân đầu tiên rất sáng giá, xứng đáng là Đệ nhất chi bộ, khai mở cho chúng ta những bài học sơ đẳng về tư tưởng và tinh thần, là chỗ dựa tin cậy cho mọi hoạt động. Cũng là Bộ Tham mưu của chúng ta, đã hoàn tất một số nội dung cơ bản cho hội nghị lần thứ nhất của đảng. Thay mặt hội nghị, tôi xin đọc toàn văn soạn thảo các văn bản trình thưa với toàn thể đồng sự, rồi xin mọi người thảo luận chính yếu vào những nội dung thiết thực, phù hợp với hoàn cảnh thực tại, về tôn chỉ mục đích, về Điều lệ đảng, về phương kế hoạt động, cắt cử người phụ trách từng phần việc, làm sao mọi điều đều thông suốt mới có thể tiến hành những việc đại sự. Thời gian không nhiều, mọi người nói ngắn gọn, thẳng vào nội dung dự thảo cương lĩnh và chương trình hành động.

Như đã dồn nén từ trong sâu thẳm mỗi người, các ý kiến sôi động khúc chiết. Phó Đức Chính, người kỹ sư công chính, chớm hai mươi tuổi đời, phân tích tình hình quốc nội và liên hệ với chủ thuyết của Tôn Dật Tiên, cho rằng:

– Đã đến lúc dân ta phải tự cường, giới trí thức cùng với các giai tầng khác của ta không hề non kém. Người ta làm cách mạng được, cớ gì ta lại ngồi yên nhắm mắt để cho ngoại bang đè đầu cưỡi cổ cả dân tộc. Xét cho cùng kỳ lý, nước ta hơn đâu hết rất cần “dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Bởi đất nước đang lúc nhiễu loạn, quan lại thì tham nhũng đồi bại, vua chúa thì tham quyền bất lực, thực dân thì tham tàn vơ vét. Nên không thể chần chờ gì nữa, chúng ta phải có tổ chức, để chống lại mọi sự thối nát.

Hoàng Phạm Trân, nhà văn, nức tiếng với bút danh Nhượng Tống, con người nho nhã, vừa có cái uyên thâm của người từng qua Nho học, lại có cái tân kỳ của người thụ theo Tây học, điềm đạm phát biểu chính kiến:

– Dân ta đang lầm than, là những người hiểu biết thời thế, chúng ta phải có những hành vi hướng dẫn đồng bào, lập ra tổ chức, truyền bá lý tưởng trong dân chúng, mới có điều kiện để mở rộng hiểu biết của mọi người, đồng lòng chống thực dân, chống bọn vua quan ươn hèn, bọn làm tay sai hại dân mình. Vấn đề là phải cử được những người đứng mũi chịu sào từng việc, như con tàu, phải có đầu máy khoẻ mạnh mới dẫn dắt được cả đoàn tàu. Vậy cho nên ai đảm nhiệm công việc là gánh trọng trách…

Hồ Văn Mịch nhỏ nhắn thư sinh nhưng giọng nói sắc gọn quả quyết, tiếp lời Hoàng Pham Trân:

– Tôi rất đồng tình với ý kiến của mọi người, vấn đề cốt tử là chúng ta phải có kế hoạch hành động. Bước đầu có thể chưa thật chu toàn. Nhưng quá trình dấn thân vào công việc sẽ nảy ra những ý hay điều tốt, xoay chuyển ứng phó kịp thời với thế sự…

Phạm Tuấn Lâm, một yếu nhân sáng lập Nam Đồng thư xã, anh ruột Phạm Tuấn Tài, ngước đôi gọng kính trắng, nhìn khắp lượt mọi người, rồi thong thả nói:

– Chúng ta phải có chủ thuyết. Làm việc gì cũng phải có tư tưởng dẫn dắt. Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, việc vận dụng chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên vào công cuộc chỉ hướng cách mạng là phù hợp nhất. Đồng thời với việc chúng ta tiếp thu những điều hay lẽ đúng của tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái mà các học giả phương Tây như Monteskier, Voltairer, Diderot, Rousseau đã dày công hun đúc.

Ý kiến mỗi lúc một sôi động và cụ thể. Nguyễn Thái Học xúc động kín đáo lấy khăn lau mắt. Anh không ngờ ý chí quyết tâm của mọi người lớn hơn anh nghĩ. Ai cũng đóng góp những điều xác thực. Hàng loạt những vấn đề được đặt ra, không thể coi nhẹ điều gì. Tổ chức ra đời rồi sẽ hoạt động ra sao? Lấy nguồn tài chính ở đâu để bảo đảm cho các hoạt động? Lực lượng cách mạng và phát triển tổ chức thế nào?… Ai cũng hiến kế. Nguyễn Thái Học rất  mừng vì một mình không sao nghĩ xuể công việc. Có mọi người anh càng vững tin bởi những ý kiến đã nung nấu trong mỗi cá nhân được dịp bộc lộ, với tấm lòng yêu nước yêu dân không kể xiết.

Nguyễn Thế Nghiệp sôi nổi:

– Tôi cho rằng chúng ta phải mau chóng phát triển tổ chức. Tập hợp được càng nhiều đảng viên càng tốt. Ở phía Bắc Giang, Bắc Ninh, tuy phong trào Yên Thế bị thực dân Pháp đàn áp từ lâu, nhưng vẫn giữ được truyền thống bất khuất. Ai cũng muốn xứng đáng là con cháu của cụ Đề Thám, không chịu khuất phục trước cường quyền. Chỉ cần chúng ta phát động được tấm lòng ái quốc của người dân. Không để cho ngoại bang coi khinh mình là dân “An Nam mít” hạ đẳng.

Nguyến Thái Học càng phấn chấn bởi những điều đặt ra rất trúng với suy nghĩ của anh. Khi đã xác định được đúng mục tiêu tranh đấu, sẽ có phương lược chủ đạo và phương cách hoạt động cách mạng phù hợp. Anh đặc biệt quan tâm tới bộ máy lãnh đạo, việc tổ chức lực lượng, phần tài chính của đảng, kỷ luật của đảng và nguyên tắc giữ bí mật, hệ thống liên lạc truyền tin, chế độ hội họp và phân công phụ trách từng phần việc, từng địa phương. Anh lắng nghe ý kiến của Đặng Đình Điển, một điền chủ tuổi đã ngót bảy mươi, vừa từ đất Thái Bình vượt Tân Đệ sang Nam Định, đáp chuyến tàu chiều tới Hà Nội.

– Việc chúng ta hội nghị hôm nay, rất hợp ý nguyện của dân chúng. Thái Bình mang tiếng là xứ lúa mà nhiều năm chịu đói, khổ sở về nạn cường hào ác bá hoành hành, chúng chỉ lo vơ vét và bợ đỡ quan trên. Chẳng mảy may nghĩ tới dân chúng lầm than. Nay có tổ chức nhằm tranh đấu cho dân sẽ được dân nhiệt liệt hưởng ứng. Tôi thấy chủ trương làm cách mạng vì dân tộc độc lập như trong văn bản anh Nguyển Thái Học vừa nêu ra là đúng đắn lắm.

Lắng nghe những ý kiến của đại biểu các địa phương từ Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam, Bắc Giang, Kiến An, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang và Thanh Hoá, trình bày về tình hình cụ thể mỗi nơi, Nguyễn Thái Học rất hài lòng, vì thấy sự lớn mạnh trong nhận biết thời cuộc và những khó khăn không thể lường trước được của con đường cách mạng. Anh vô cùng cảm động khi thấy mọi người tự lo tài chính và vượt qua muôn trở lực để đến với hội  nghị với tinh thần vô tư và trách nhiệm.

Một cơn gió ùa vào phòng, cùng với cơn gió là Phạm Tuấn Tài. Tấm áo khoác ướt sũng sương đêm. Mọi con mắt đổ dồn về phía anh. Chiếc mũ phớt che kín một bên mặt. Tiếng hỏi như thốt lên cùng một lúc:

– Sao đến muộn vậy?

– Sắp tới Thể Giao thì phát hiện có kẻ theo dõi. Đành phải đánh lạc hướng. Đi vẩn vơ rồi nhảy tàu điện vào tận Hà Đông. Không thể quay lại bằng tàu điện. Vẫn thấy bóng mật thám lởn vởn ở bến xe. Đành phải cuốc bộ. Về Thể Giao thấy im quá. Đoán là các anh đã đổi phương án địa điểm họp. Nên đi thẳng về đây.

– Thế là vẫn kịp biểu quyết những nội dung trọng yếu.

Nguyễn Thái Học chỉ chỗ ngồi cho Phạm Tuấn Tài, rồi tiếp tục điều hành hội nghị.

– Rất nhiều ý kiến xác đáng góp vào dự thảo các văn bản của chúng ta. Riêng anh Phạm Tuấn Tài đến sau, không kịp thảo luận, tôi sẽ có trách nhiệm truyền đạt lại. Để đảm bảo thời gian, chúng ta chuyển sang nội dung khác.

– Tôi tuy không đến được từ đầu hội nghị, nhưng các văn bản dự thảo tôi đã được đọc nhiều lần. Chắc chắn những ý kiến đóng góp của mọi người cũng là sở nguyện chung. Tôi tin ở sự sáng suốt, thấu đáo của mọi người. Còn lực lượng chúng ta nên mở rộng mọi thành phần: trí thức, nông dân, địa chủ, thương gia, công chức, sinh viên, học sinh, công nhân, binh lính người Việt trong quân đội Pháp… đều có thể trở thành đảng viên, nếu tình nguyện và có lòng yêu nước thương dân thật sự.

Phạm Tuấn Tài, nhà thơ, bút danh Mộng Tiên, đã nhiều lần công khai chủ kiến trên các trang báo. Anh phát biểu chính kiến, tỏ một mối quan tâm mà anh cho rằng rất cần thiết để tập hợp thành lực lượng của cách mạng. Đấy là động lực con người, tài lực và phương thức hoạt động.

Lê Thành Vỵ sốt sắng nêu ý kiến về một điều đã có nhiều ý kiến quan tâm thảo luận ngay từ lúc bước vào hội nghị.

– Vấn đề tài chính đảm bảo cho các hoạt động của đảng đã được nhắc tới. Theo tôi vấn đề này khá quan trọng đấy. Có thực mới vực được đạo mà! Sinh ra đảng phải tự nuôi được đảng. Chúng ta phải làm kinh tế. Tự chủ kinh tế. Không dựa dẫm. Phải đi bằng chính đôi chân của chúng ta. Rất cụ thể, phải rất cụ thể mới nắm chắc được thành công. Còn làm thế nào chắc mọi người đều có trách nhiệm hiến kế.

Trong đêm khuya khoắt, tiếng Nguyễn Thái Học trầm ấm, như dồn hết nhiệt huyết vào những điều được hun đúc từ ý kiến của các đại biểu:

– Về Danh xưng từ nay chúng ta lấy tên là Việt Nam Quốc Dân đảng. Về chủ trương chung, chúng ta làm một cuộc cách mạng Quốc gia, dùng võ lực đánh đổ chế độ thực dân và phong kiến, để lập nên một nước Việt Nam Độc lập Cộng hoà. Đồng thời giúp đỡ các dân tộc bị áp bức trong công cuộc tranh đấu giành độc lập của họ, đặc biệt là các lân quốc Ai Lao, Cao Miên. Sở dĩ chúng ta đề cập tới các lân quốc, bởi chúng ta không thể làm cách mạng đơn độc, phải có sự hỗ trợ rộng rãi của toàn xứ Đông Dương. Làm kinh tế cho đảng, trước mắt ta phải chú trọng tới gây dựng tài chính bằng nhiều phương cách, kể cả kinh doanh khách sạn và tranh thủ sự tự nguyện quyên góp của những nhà ái quốc hữu sản có điều kiện ủng hộ cách mạng.  Phải có khả năng tài chính mới có thể mua và chế tạo vũ khí. Chúng ta còn phải liên lạc với các tổ chức yêu nước, cùng chí hướng tiến hành cách mạng, ví như Thanh Niên cách mạng, Tân Việt cách mạng. Bằng mọi cách gặp được cụ Sào Nam Phan Bội Châu để nghe những lời chỉ giáo. Việc liên lạc với ông Nguyễn Khắc Nhu ở Bắc Giang, ông Trần Huy Liệu và ông Nguyễn Phương Thảo ở Sài Gòn cũng là việc phải được tiến hành. Đồng thời ta còn cử người sang Tàu liên lạc với Chu Dưỡng Bình. Rất nhiều công việc đang bày ra trước mắt chúng ta, đòi hỏi khẩn trương và thận trọng. Kết quả hội nghị này là kết quả của bao ngày ta cùng nhau bàn thảo. Nội dung cuối, là chúng ta là cử ra những người giữ trọng trách thay mặt đảng hành sự.

Nguyễn Ngọc Sơn, người đã từng nhiều năm du học trên đất Pháp, thay mặt tiểu ban dự thảo chương trình hành động và Điều lệ nêu một số yêu cầu và đề nghị mọi người chọn lựa.

– Vấn đề này rất sát sườn, rất hệ trọng, chúng ta hành động kiểu gì cũng cần phải có phương hướng và quy phạm. Nên rất cần thảo luận thấu đáo. Có vậy ta mới lấy làm cẩm nang tiến hành các công việc của tổ chức được.

Nguyễn Triệu Luật nói:

– Tôi đã bàn kỹ với Phạm Tuấn Tài, muốn làm cuộc cách mạng chống chính sách thực dân, chúng ta vừa phải đồng lòng, vừa phải có sách lược mới đảm bảo được hoạt động nội tại và liên hệ với những người đồng chí hướng. Chúng ta phải hết sức khôn khéo. Lũ thực dân là lũ cáo già, lũ mật thám là lũ mèo mả gà đồng, cùng một giuộc cả, đừng để chúng đánh hơi tới tổ chức của chúng ta.

Nguyễn Thái Học nêu chính kiến:

– Ở đây chúng ta bình đẳng, không xác lập cấp trên cấp dưới, chỉ lo cùng nhau làm việc, cùng gánh trách nhiệm của tổ chức. Trước mắt chúng ta phải có được bộ máy điều hành thực hiện nhiệm vụ. Trong thời hạn nhất định sẽ bầu lại cho hợp với sở trường và điều kiện làm việc của mỗi người.

Phó Đức Chính nói thêm:

– Được tổ chức giao việc nghiên cứu nhân sự kỹ lưỡng, tôi đề xuất một danh sách có thể đảm đương công việc.

Việc thảo luận về nhân sự diễn ra chóng vánh, biểu quyết từng cá nhân, mọi chú ý đều dồn về phía Nguyễn Thái Học. Danh sách về nhân sự được ban Tổ chức hội nghị công bố:

– Nguyễn Thái Học, Chủ tịch Tổng bộ.

– Nguyễn Thế Nghiệp, Phó Chủ tịch.

– Phó Đức Chính, Trưởng ban Tổ chức. Lê Văn Phúc, phó ban.

– Hoàng Phạm Trân, Trưởng ban Tuyên truyền. Lê Xuân Hy, phó ban.

– Nguyễn Ngọc Sơn, Trưởng ban Ngoại giao. Hồ Văn Mịch, phó ban.

– Đặng Đình Điển, Trưởng ban Tài chính. Đoàn Mạnh Chế, phó ban.

– Nguyễn Hữu Đạt, Trưởng ban Giám sát. Hoàng Trác, phó ban.

– Tưởng Dân Bảo, Trưởng ban Trinh sát. Phạm Tiềm, phó ban.

– Hoàng Văn Tùng, Trưởng ban Ám sát.

– Còn ban Binh vụ sẽ cử sau.

Nguyễn Thái Học kết thúc hội nghị bằng việc tóm tắt chủ trương hành động của Việt Nam Quốc Dân đảng là xây dựng một nước Việt Nam theo hình thái xã hội dân chủ. Cách mạng chia làm 3 thời kỳ:

Một – Thời kỳ phôi thai bí mật.

Hai – Thời kỳ dự bị bán công khai.

Ba – Thời kỳ khởi nghĩa công khai.

Trong quá trình cách mạng luôn kết hợp hài hoà giữa bí mật và công khai. Bí mật về tổ chức và chủ trương. Công khai trên cơ sở đảm bảo hợp pháp với đương thời, nhằm tránh những phiền toái không đáng có.

Từ nay chúng ta đã có Tổ chức chính thức. Khổng Tử xưa có thuyết chính danh. Phải chính danh mới hành sự được. Ta hướng toàn bộ hoạt động của đảng viên vào thực hiện tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ và Điều lệ của đảng.

Nguyễn Thái Học nhiệt thành và cô đúc trong những lời được thốt ra từ gan ruột :

– Tôi xin được nhấn mạnh thêm, mọi người phải hết lòng tuân thủ kỷ luật của đảng đã được ghi trong Điều lệ. Tuyệt đối trung thành, tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của đảng và sẵn sàng hi sinh, đó là những điều tâm nguyện. Ai phản bội sẽ bị xử tội chết.

Vâng, tôi xin lấy tính mạng của mình dâng cho Tổ quốc.

Nguyễn Thái Học không nén được xúc động. Giây phút ấy thật thiêng liêng. Anh giơ nắm tay lên ngang thái dương, mắt nhìn đăm đăm về lá cờ.

Mọi người đứng dậy làm lễ Tuyên thệ. Ai cũng thấy rưng rưng nước mắt. Từ nay tính mệnh của mỗi người là của đảng. Xứ mệnh của đất nước đang đặt lên vai của mỗi người. Mọi người siết chặt tay nhau. Như thấy hồn sông núi bay phảng phất trên đầu mỗi người. Không ai nói nên lời. Con đường phía trước của cách mạng chưa ai dám chắc điều gì. Chỉ biết rằng họ đang làm phận sự cao cả trước vận mệnh của đất nước.

Họp tan. Chuông nhà thờ báo 5 giờ sáng.

Đó là ngày được lịch sử ghi là 25 tháng 12 năm 1927.

 

*

Định ngủ một giấc cho lại sức sau một đêm thức trắng, nhưng cả hai chàng trai không tài nào ngủ nổi. Sự kiện lớn lao như vậy, làm sao có thể ngủ dễ thế. Cả hội nghị chung một tiếng nói, chung một ý chí, hiếm thấy ở nơi nào đồng lòng cao như vậy. Cho nên, Nguyễn Thái Học cùng Hồ Văn Mịch phóng lên đường Yên Phụ ra Hồ Tây ngắm cảnh.

Sà vào vườn ổi ven hồ. Nguyễn Thái Học ngắt một nhánh lá ổi non, cho vào miệng nhấm nháp cái vị đăng đắng xin xít. Ở nơi này có thể nhìn sang nơi ngày xưa các cung nữ trồng dâu chăn tằm dệt lụa. Ngồi giữa đám cỏ xanh ngắm trời ngắm nước, vô cùng thơ mộng. Một làn sương mỏng là là sát mặt hồ. Hồ rộng mênh mông, lắm khi sương phủ dầy, nên xưa gọi nơi này là hồ Dâm Đàm. Tự dưng, Nguyễn Thái Học hỏi Hồ Văn Mịch:

– Anh còn nhớ chuyện dã sử về Tiến sĩ Lê Văn Thịnh thời Lý bị nghi là đội lốt cọp hãm hại vua Lý Nhân Tông trên hồ này không?

– Có chứ! Tôi cho đó là chuyện phịa. Vì một vị Thủ khoa tam trường, Tiến sĩ đầu tiên của thời Lý, lại là quan Thái sư đầu triều, theo nho giáo, ý thức trung quân ái quốc cao lắm, chẳng bao giờ lại có chuyện mưu hại vua được.

Nguyễn Thái Học giọng trầm hẳn xuống:

– Ông Tiến sĩ này khi còn là Thị lang Bộ binh, năm Giáp Tý 1084, được vua giao đến trại Vĩnh Bình cùng với người Tống thương thuyết về cương giới, chỉ dùng ba tấc lưỡi mà triều Tống phải trả nhà Lý 6 huyện và 3 động ở vùng đất Cao Bằng. Sức mạnh của lời nói đâu có nhỏ? Người Tống thời ấy đã phải thốt lên rằng: “Nhân tham Giao Chỉ tượng. Khước thất Quảng Nguyên kim”. Vì tham voi Giao Chỉ. Bỏ mất vàng Quảng Nguyên! Đấy, thời ông cha chúng ta đã bảo vệ đất nước như vậy. Làm sao ta lại để mất nước?

– Các bậc trí giả nước ta rất nên hóa giải nỗi oan tầy liếp ấy cho Tiến sĩ Lê Văn Thịnh!

Hai chàng nằm ngửa lên cỏ ngắm mây bay, mỗi người riêng một tâm trạng. Mặt trời đỏ ối chầm chậm loang trên mặt nước Tây Hồ.

 

 

 

 

 Chương II

                                               NGÀY TRĂNG CHƯA RẰM

 

                                                                       Ngoảnh lại con đường vết chân ngày cũ

                                                                       Ngoảnh lại bến xưa con thuyền bé nhỏ

                                                                       Chở trăng về nơi gió chưa kịp gió

                                                                       Neo lại dòng sông lãng đãng tuổi thơ

 

Bà Quỳnh chạy ngược chạy xuôi ơi ới gọi con:

– Học ơi! Học ơi!… Đi đâu để trâu phá ruộng dâu, người ta bắt thế hả?

– Học… ơ…ơi! Khổ thế! Không biết nó chạy đi đằng nào? Buộc trâu sơ sơ vào mấy cuỗng rạ thì làm sao trâu nó chả rứt phá đi. Thằng này hôm nay về thì chết đòn. Con với chả cái.

Gọi mãi chả thấy con, bà Quỳnh đến gặp chủ ruộng dâu khẩn khoản:

– Bác ơi, thiệt hại thế nào tôi xin được đền bù. Con dại cái mang, mong bác làm ơn làm phúc bỏ qua cho. Khổ quá! Mọi ngày đi chăn trâu nó có sao nhãng thế này đâu?

– Cũng may là tôi đang hái dâu ở đám ruộng bên kia, trông thấy ngay con trâu đang vặt lá dâu, tôi chạy sang kịp giữ nó lại, chứ không hôm nay nó phá hết bãi dâu thì khốn.

– Vậy thiệt hại thế nào, bác tính cho.

– Thôi, hàng xóm láng giềng, tính toán gì! Bảo cháu nó lần sau chớ có sao nhãng thế.

– Vâng vâng! Đa tạ bác! Tôi sẽ cho cháu sang nhà xin lỗi bác.

Bà Quỳnh xin trâu dắt về nhà.

Học quay trở lại không thấy trâu buộc gốc rạ, sợ tái mặt liền hớt hơ hớt hải đi tìm. Có người mách rằng mẹ cậu đã dắt trâu về rồi, cậu chưa hết lo. Phen này về nhà biết ăn nói thế nào. Chưa bao giờ Học đi chăn trâu lại dám bỏ đi xa thế. Quả là liều lĩnh, hôm nay để trâu phá hết bãi dâu của người ta thì biết lấy gì mà đền? Đúng, cũng chỉ vì muốn thoả chí tò mò mà Học đã chạy theo đám lính súng ống đằng đằng cùng với một ông Tây mắt xanh mũi lõ qua tận làng Vũ Di, đến nhà bà mẹ Đội Cấn. Học đã cùng lũ trẻ chạy theo sang đó, khi thấy người ta bảo đi xem lính bắt người.

Đến cổng làng Vũ Di, ông Tây chỉ chỏ, bắt lính canh gác các ngả đường. Một toán xông vào nhà bà mẹ Đội Cấn. Ông Tây nói xì xồ mấy câu, đám lính xộc vào nhà lục lọi, rồi lôi sềnh sệch bà mẹ Đội Cấn ra sân, quát tháo nạt nộ:

– Già rồi mà không dậy…dậy được con. Để nó đi…đi làm giặc. Nó có cất…cất giấu súng ống ở…ở nhà không?

– Súng ống là ở nơi đồn binh của nó, chứ nó đem về nhà làm gì?

– Mụ già còn giả vờ giả vịt à? Mụ có biết thằng Cấn…Cấn nổi loạn không? Chính phủ đã thăng cho nó lên chức Đội…Đội rồi mà nó còn làm phản. Nó từ Thái Nguyên chạy…chạy về chân núi Tam Đảo…cố cố thủ, có thấy nó lén…lén lút về nhà không?

– Các người còn chẳng biết, ta già cả rồi, suốt cả ngày ru rú ở nhà, làm sao biết được con ta làm gì? Nó có về hay không, nếu có biết ta cũng không thèm nói với lũ ác nhân ác bá như các ngươi.

– Mụ già này gàn dở lắm. Mẹ kiếp! Nói cho mụ khốn nạn biết, mẹ… kiếp, nếu thằng Cấn về đây mà mụ che dấu, mẹ kiếp…sẽ bắt mụ bỏ tù cho biết mặt!

Đám lính chỉ đáng con cháu bà mẹ Đội Cấn mà dám nói những lời hỗn hào, thô tục. Lục soát không thấy dấu vết gì của Đội Cấn, đám lính hất tung mọi thứ trong nhà. Tên Tây mắt xanh mũi lõ nói tiếng Việt, giọng lơ lớ:

           – Ba gia liêu hôn, khoông khai bao, la bo tu biệt khuông?!

Hắn ra lệnh:

           – Giat đo nha mu ta xuoông!

Đám lính tuân lệnh Tây, đã hè nhau kéo sập ngôi nhà tre của mẹ Đội Cấn. Chúng còn nhặt nốt mấy quả trứng gà và bắt con gà đang ấp. Mặc bà mẹ gào thét thế nào chúng cũng không dừng tay.

Bà mẹ Đội Cấn gào to cho cả dân làng nghe:

– Quân cướp ngày! Hỡi bà con ơi! Hỡi bà con ơi!

 

*

Người lớn vẫn thường nói câu “yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, Học đinh ninh rằng thể nào cũng dính trận đòn nhớ đời. Từ nhỏ, Học chưa bị trận đòn roi nào, nhưng trẻ con bạn bè hàng xóm nhiều đứa có lỗi là không thoát bị cha mẹ cho ăn roi. Cho nên, trở về nhà, biết là mình có lỗi, Học chủ động quỳ trước mặt ông Hách, xin nhận phạt:

– Thưa thầy mẹ, con trót dại, cho con xin lỗi…

Ông Hách nghiêm mặt:

– Con đứng lên! Không được quỳ! Quỳ là nhục lắm! Con biết lỗi rồi thì hãy vào nằm sấp trên phản, thầy sẽ cho mấy roi.

Học vào nằm sấp trên chiếc phản kê gian giữa nhà. Ông Hách ra ngoài hiên rút sợi roi mây gài trên mái lá, trở vào đặt ngang chiếc roi lên mông đít Học, rồi trở ra bờ hè ngồi rít hơi thuốc lào rõ dài, phả khói mờ mịt. Ông thong thả đứng dậy, trở vào mới hỏi:

– Bây giờ con định nhận mấy roi?

– Con xin nhận ba roi ạ!

– Sao nhận ít thế? Con có biết nếu hôm nay trâu phá nát ruộng dâu của người ta thì nhà mình phải đền bồi bao nhiêu không? Rồi lấy gì để ăn?

– Con biết lỗi rồi, lần sau con không thế nữa ạ!

– Lại còn lần sau nữa thì còn ra cái thể thống gì, hả? Chỉ một lần này thôi, nhớ chưa?

– Con nhớ ạ!

Ông Hách nguôi giận:

– Thôi, ngồi dậy! Lần này thầy cho nợ. Nếu mắc lỗi lần nữa thì cứ nhân lên với hai, cộng với lỗi mới, thầy đánh cả thể. Nhớ không?

– Con xin nhớ ạ!

– Lát nữa cơm nước xong, con phải sang nhà bác có ruộng dâu mà xin lỗi!

– Vâng ạ!

Mấy đứa em của Học sợ xanh mắt, ngồi rõ yên trong xó nhà, thấy anh Học được tha đánh đòn, sướng quá reo lên:

– Anh Học không bị thầy đánh! Anh Học không bị thầy cho roi nào!

Học ôm lấy các em, lại cười đùa ầm ĩ.

 

Đêm về, Học mới hỏi ông Hách:

– Thầy ơi, sao ông Tây mắt xanh mũi lõ, với những người lính, lại ác thế?

Ông Hách thở dài rồi nói:

– Dân mình mất nước khổ thế! Lớn lên rồi con khắc biết!

Tiếng thở dài của ông Hách và câu nói “lớn lên rồi con khắc biết” cứ đeo đuổi và ám ảnh Nguyễn Thái Học, sau này càng nghĩ càng thấm thía sâu xa.

 

*

Hàng ngày, Học sang nhà cậu Tú để học chữ nho.

Cái loại chữ vuông này, học chữ nào biết chữ ấy. Cậu Tú dạy tỉ mỉ từng chữ. Dạy viết, dạy đọc rồi cậu giảng nghĩa.

Cậu Tú dạy theo sách “Tam tự kinh”. Được khai tâm rằng: “nhân chi sơ, tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn”. Người ta lúc mới đầu vốn tốt lành, rồi do thói tật ở đời nhiễm dần mà xa với bản tính. Bắt học thuộc lòng bài hôm trước. Nhận mặt chữ hôm sau. Rồi thày giảng nghĩa từng chữ. Cứ hai hôm cậu Tú lại kiểm tra một lần. Cứ theo thứ tự, viết xong rồi đọc và giải nghĩa. Cậu Tú bảo đấy là học nhập tâm.

Cứ ba chữ một, học hết ba chữ này lại học sang ba chữ khác. Chẳng hạn ba chữ: “tam, tài, giả”. Cậu giảng, đó là ba bậc tài. Ba chữ: “thiên, địa, nhân”. Cậu giảng, đó là trời, đất và người. Ba chữ: “tam, quang, giả”. Cậu giảng, ba chất sáng. Ba chữ: “nhật, nguyệt, tinh”. Cậu giảng, mặt trời, mặt trăng và sao…

Thế nghĩa là: Ba bậc hiện thân của vũ trụ là trời, đất và người, thì người là ở giữa, trời với đất nối lại với nhau bởi con người. Ba chất tạo nên ánh sáng là mặt trời, mặt trăng và những ngôi sao. Có ba chất sáng ấy thì mới có sự sống.

Rồi cứ thế tiếp tục, học hết ba chữ này sang ba chữ khác:

           Tam cương giả

           Quân thần nghĩa

           Phụ tử thân

           Phu phụ thuận

Viết xuân hạ

Viết thu đông

Thử tứ thì

Vận bất cùng…

Cứ thế mà Học dần dần vỡ ra những điều hiểu biết về con người, về thời tiết vận hành, về cảnh vật diễn ra xung quanh mình.

Nhưng chả mấy chốc mà thầy dạy học hết vốn. Học xong “tam tự kinh”, mới chớm học “tứ thư”, “ngũ kinh”, vừa lúc phong trào học chữ quốc ngữ khắp nơi, Nguyễn Thái Học được sang trường Việt Trì rồi về trường Pháp – Việt ở Vĩnh Yên theo học Diplome.

 

Nhưng dù đi đâu Học vẫn không thể nào quên những ngày được học cậu Tú. Ở đấy là những ngày thơ ấu trong sáng. Cứ mỗi lần nhớ lại những hình ảnh thuở bé ấy lại hiện lên từng chi tiết. Mỗi lời cậu dậy bảo, khắc thật sâu trong trí não ngây thơ của cậu bé Học. Có lần, cậu Tú bảo Học kẻ dòng trên giấy để viết chữ cho thẳng hàng. Cốt cho xong, Học đã bẻ que nứa để thay thước kẻ. Dòng kẻ vì thế ngoằn ngoèo như rắn lội. Cậu xem xong thì bảo:

– Muốn học được chữ, con phải học ngay ngắn, ngay thẳng đã! Dòng kẻ cũng vậy, phải thẳng ngay. Chớ cẩu thả. Học ngay ngắn, ngay thẳng là học tử tế. Có tử tế thì mới thành người có ích, con ạ!

Cậu nói ít mà thấm thía quá. Trong trí nhớ non nớt của Học, mọi câu nói cứ hằn sâu. Càng lớn lên càng thấy sáng dần ra.

 

*

Nhiều lần mẹ Quỳnh cho Học theo đi chợ. Học rất thích được mẹ cho gánh hàng một đoạn. Đôi quang gánh nhiều khi trệt xuống đất, Học vẫn cố kiễng chân gổng lên. Bà Quỳnh bảo: “Làm cho nó quen, kẻo lớn rồi ngại việc”. Gọi là gánh nhưng cũng chỉ lồng phồng mấy cân tằm dâu nhẹ tênh, nào có đáng gì. Ấy thế mà Học cũng tỏ vẻ giỏi giang hơn hẳn các em. Học khoe:

– Hôm nay đi chợ, mẹ cho anh Học cầm cân bán tằm dâu cho bao nhiêu người mua nhé! Anh cân tằm cho mọi người, còn mẹ thu tiền nhé! Người ta thích mua tằm do anh cân bán, vì người ta bảo anh không cân điêu. Mẹ dặn anh đấy! Làm gì cũng phải đầy đặn. Bớt xén một chút cũng không no béo giàu sang lên được, nó làm cho người ta bần tiện nhỏ nhen xấu thói, con ạ!

Có lần mẹ cho đi chợ tận bên Sơn Tây.

Học nhớ là phải qua cánh đồng lúa, đến Cầu Hương, đi mỏi cả chân, qua mấy cây đa, cây đề, cây trôi cổ thụ, lại qua nơi trồng hàng vườn trầu cau, đến điếm canh đê, ra vườn đò, rồi qua đò Ghềnh bằng thuyền mới tới được Chợ Nghệ. Nhớ lần đi đò đầu tiên, Học sợ không dám bước xuống thuyền vì cứ thấy  tròng trành, sợ nó lật. Mẹ phải bế lên đò mà tim cứ đập thon thót. Đến giữa sông lại thấy những chiếc bè nứa to lù lù bằng cả gian nhà theo dòng nước trôi xuống, chỉ lo nó đâm vào đò thì chết.

Mẹ đi chợ bán ít sấp vải tơ tằm. Khách quen, việc mua bán rất chóng vánh, để còn về kịp bữa trưa cho cả nhà. Mẹ chỉ mua khi thì ít kẹo vừng, khi thì mấy khoanh bánh đúc, toàn những thứ quà quê cho các con. Nhiều lần, Học thấy đầu chợ có mấy ăn mày ngửa nón rách xin tiền. Mẹ bao giờ cũng cho họ chút tiền lẻ, rồi thở dài: “Đã ăn mày lại phải cho kẻ ăn xin”! Học hỏi mẹ:

– Mình có phải ăn mày đâu mà mẹ bảo rằng ăn mày?

Bà Quỳnh bảo:

– Đã nhờ vả người khác là ăn mày thiên hạ rồi con ạ! Mình có vải bán ra, cũng phải có người mua, người mua là người giúp mình, mình phải ăn mày họ. Thế đấy, con biết không?

– Thế có hai loại ăn mày hả mẹ?

– Nhiều loại ăn mày lắm con ạ. Có loại ăn mày vì bần cùng phải đi ăn mày. Có loại ăn mày vì không muốn làm chỉ muốn hưởng. Có loại ăn mày biết ơn người cho. Nhưng cũng có loại ăn mày vô ơn…

Gặp gì Học cũng hỏi mẹ. Mà hỏi gì cũng truy đến cùng. Lắm lúc bà Quỳnh không biết trả lời sao cho thỏa đáng thì xuê xoa: “cứ đi hỏi nó thì biết”!

– Mẹ ơi, tại sao gà lại chín cựa, ngựa chín hồng mao?

Bà Quỳnh bảo: “cứ đi hỏi nó thì biết”!

Có lần Học đố mẹ: “Con đố mẹ, con gì khổ nhất trên đời?”. Bà Quỳnh biết thừa rằng Học hỏi mẹo, nên trả lời vòng vo cốt để Học phải bật ra câu trả lời của chính Học:

– Đấy là “con đường” mẹ ạ! Con đường dãi nắng dầm mưa. Con đường ai cũng dẫm chân lên. Trâu bò xe cộ đều cưỡi lên con đường.

Bà Quỳnh cười vui vì thấy con mình càng ngày càng ngộ nghĩnh.

 

Lắm hôm, Học rất thích đi tát vét bắt cua bắt tép cùng với các em. Thời ấy, rất nhiều con lạch chảy dồn về đồng. Mùa nước cạn tạo nên từng cái vũng. Ở đó, khối cua cá có thể kiếm về, phần thì để ăn, phần thì đem ra chợ làng bán. Kiếm được nhiều, mẹ lại làm mắm để ăn phòng khi mùa màng cấy gặt. Mẹ rang thính thơm lừng, cho cá tép vào hũ sành ủ muối. Mắm để càng ngấu càng thơm ngon. Mùa thu mở hũ mắm là mọi người muốn ăn cơm đến “thủng nồi trôi dế”. Cơm ít thì ăn với sắn khoai cũng dễ nuốt.

Chuyện bắt cua cá này say sưa lắm. Chỉ cần một chiếc gầu sòng, mấy chiếc rổ thưa, cái giỏ, cái cuốc, cái mai là tha hồ be bờ tát cá. Có khi cũng chả cần đến gầu sòng, vũng nước nhỏ chỉ cần cái chậu đồng là tha hồ tát. Đã đi tát cá là chẳng mấy khi về tay không. Bởi trước khi đi tát cá, thể nào Học cũng phải thăm dò đã. Biết chắc chắn có cá mới huy động các em vào cuộc. Mỗi đứa một dụng cụ tát cá. Cái Bình, cái Ưu, rồi cu Nho, cu Lâm, đứa nào cũng thạo bắt tôm cua cá. Tát cạn nước rồi, bọn cá diếc và cua là dễ bắt nhất, chỉ cần sặc bùn là chúng nổi lên liền. Còn cá rô thì khó bắt hơn, bởi chúng rạch ngược, không khéo là vây ở lưng nó xước cho đứt tay. Cá quả thì nằm yên, nhưng động vào nó là nó phóng rất mạnh, bùn tung tóe, túm được không dễ dàng. Khó nhất là đám cá trê cá trạch, chúng lẩn sâu xuống bùn, phải sục kỹ lắm chúng mới không thoát. Ghê nhất là dính ngạnh cá trê, nó đánh phải tay mà buốt lên tận óc.

Nắng nôi cũng mặc kệ. Mồ hôi mồ kê đứa nào cũng nhễ nhượi. Đầu tóc mặt mũi quần áo lấm lem bùn đất. Tóc đứa nào cũng đỏ hoe như râu ngô vì phơi nắng. Ấy thế mà chẳng mấy khi ốm đau.

Được cá, mấy anh em lại rủ nhau về giếng làng tắm táp. Đấy là giếng đá được lát chắc chắn, chả biết được dân làng làm từ khi nào. Chỉ thấy mọi người gọi là giếng cổ. Đi làng nào cũng thấy có loại giếng như thế này. Nhưng giếng đá của làng Thổ Tang rất to, cạnh chiếc ao sen, mùa hè ngát hương.

Một lần, đi tát cá về, mấy anh em đang tắm, thì thấy lý trưởng làng đi qua. Ông ta dừng lại ngắm nghía rồi quát nạt:

– Chúng mày bắt cua bắt cá ở đâu?

– Dạ, chúng cháu đi tát vét ở mấy vũng nước ngoài gần đê ạ!

– Ai cho phép chúng mày?

Các em sợ lý trưởng quá, đứng dẹp bên giếng. Chỉ mình Học đối đáp.

– Thưa ông lý trưởng đấy là mấy vũng nước, ai tát chả được, sao lại cấm?

– Cấm hết!

– Làng có bảo cấm đâu?

– Làng không bằng lý! Quốc gia công thổ, đất chỗ nào cũng là đất công. Tát cá vào đất công. Chỉ có tịch thu.

– Ông không được vô lý thế!

– A thằng này lại cãi lý với ông lý. Nể công chúng mày, ta chia cho một nửa. Thế là tốt lắm rồi!

Học biết rằng lý trưởng gây khó dễ định chiếm không phần cá, nên bảo ông lý đứng chờ để mang cá xuống ao rửa. Ông lý chưa kịp nói gì thì Học đã bưng rổ cá đến bờ ao, giả vờ ngã, hất tung cả rổ cá xuống nước.

 

*

Có lần, Học được mẹ cho ra nghĩa địa thắp hương cho tổ tiên nhân ngày rằm tháng bảy. Vào ban đêm, nhìn ra nghĩa địa chỉ thấy đom đóm bay loạn xạ. Lắm lúc tưởng có ánh lửa bập bùng như ma trơi. Mấy đứa dọa nhau sợ chết khiếp. Vậy mà ban ngày đến chả thấy sợ là gì. Bước chân bập bà bập bỗng trên gò đất. Những ngôi mộ nấm nhỏ nấm to ngổn ngang, cỏ dầy mọc trùm lấp. Cảnh tượng thật hoang lương. Phải lần qua mấy ngôi mộ chả biết từ thời nào, nấm thấp lè sè. Chỉ có vài ngôi mộ mới, đất còn đỏ quạch.

Thắp hương cho mộ tổ xong, mẹ bảo Học đi thắp hương cho các mộ xung quanh. Ở dưới đó cũng có làng có xóm. Nhưng chả phải rào rậu cách biệt gì như ở chốn trần thế. Có mùi hương là các linh hồn sẽ nhận ra nhau. Những ngôi mộ lặng thầm trong cõi u u minh minh, mỗi ngôi mang một số phận người. Mẹ bảo, phải thắp hương đều cho các ngôi mộ xung quanh để những ai không có người thân hương khói sẽ đỡ tủi thân.

Nghĩa địa chỉ có ngôi mộ của ông chánh hội là to nhất. Mẹ bảo thế. Nhưng đã sang thế giới bên kia cũng chả ai biết là ai. Có bao giờ người ta bảo ông mả to đâu? Mà người ta hay nhắc tới người đó lúc sống tử tế hay không tử tế, nhân từ hay ác độc. Về bên kia là bằng nhau hết. Cũng chẳng còn có suy nạnh, hằn thù hay đảo điên, gian xảo.

Mẹ kể rằng:

Vào cái năm đói kém, nhà mình đến nhà ông chánh hội vay thóc. Vì nhiều người cầu cạnh vay mượn nên ông chánh cậy thế làm cao, chẳng những không cho vay mà còn xua chó đuổi cắn rách cả váy. Khổ nỗi, ông chánh vợ lớn vợ bé, lúc gần chết người nọ dưa người kia, bỏ ông lay lắt. Tiếng là giầu có, nhưng khi chết rồi, bao nhiêu của nả vợ con xâu xé, cắn rứt nhau, chết mà không yên. Còn kia là mộ ông Vệ đi lính sang Tây, phục dịch xứ người nên được chức vệ sĩ gì đó, nghe nói Tây đưa đến oánh nhau tận cái nước gì toàn người da đen, chả biết tên thật của ông là gì, người ta gọi là ông Vệ, lúc về quê chả vợ con gì, làm thuê làm mướn khuân vác hàng cho người đi chợ. Người ta bảo trước khi giải ngũ, Tây tiêm thuốc gì cho ông ấy mà trở nên lú lẫn, lúc nhớ lúc quên, lúc chết chỉ bó manh chiếu rách, chôn nông chôn tạm, chả ai hương khói. Còn mộ này là cô Huệ, bạn thời chăn trâu cắt cỏ của mẹ, lúc còn con gái được tiếng là xinh đẹp, bị cha mẹ ép gả cho nhà giàu, dính thằng chồng vũ phu đánh đập tàn nhẫn, đã tự lấy dây siết cổ mà chết. Còn đó là mộ cô Xiêm, bỏ quê lên phố lang bạt kỳ hồ khắp nơi, mang bệnh giang mai về làng, không thuốc thang, ai cũng ngại không dám gần, rồi chết lúc nào không ai biết, bốc mùi lên trong ngôi nhà ọp ẹp bên góc chợ. Ngôi mộ này là của bà hai Chuột, người nhỏ thó mà có thể chửi nhau với bất cứ ai trong làng nếu bà muốn gây chuyện. Bà đã từng đánh chồng, ngồi như con chẫu chuộc lên bụng chồng, tay giật tóc để hỏi tội, vì ông chồng hiền lành quá. Còn đó, ngôi mộ của ông cả Sầm, là một lực điền, thuở trai tráng ông có thể chấp hai trai làng vào xới vật một lúc. Đến khi già yếu trông hom hem, không đủ ăn, nghe nói lúc lâm chung, ông chỉ mơ có một bát cơm vào bụng mà không có. Còn kia nữa, cụ đồ Lê, người nho nhã, là thày dậy chữ cho cả làng, sống hiền lành đức độ, cả đời không to tiếng với ai, là người có chữ, cụ lại còn học nghề thuốc bắc chữa bệnh cho thiên hạ, được cả làng kính trọng. Con cái lại nối dòng cha làm nghề giáo học, đấy là cậu Tú của con. Cụ chính là ông ngoại đấy. Còn đây là mộ cụ Hương, cụ quê dưới Vĩnh Yên, học hành đỗ đạt chữ nho cao lắm, suốt ngày đọc chữ thánh hiền, được triều đình mời ra làm quan, cụ không nhận, khi Tây đến lập tòa Công sứ, cụ đã bỏ Vĩnh Yên lên đất này. Cụ không thèm dùng bất cứ thứ gì do Tây chế ra. Cụ tiễn nứa làm chén uống nước, cụ lấy thân tre làm bát ăn cơm, lấy mo cau làm dép. Trông thấy Tây, cụ không nhìn mặt. Lúc cụ chết gầy như thể ve sầu…

Được sống với “người âm phủ” qua màn hương khói mà Học đã hình dung ra biết bao điều về đời người. Ở dưới vài mét đất kia, trước là những người đã từng hiện diện trên cõi trần này. Người phúc hậu, kẻ làm mưa làm gió, người để tiếng thơm, nhưng cũng bao người tai quái, người sống giàu sang phú quý, kẻ bèo bọt nghèo hèn. Giờ đây đều yên lặng. Chìm đắm trong mưa trong nắng ở giữa đồng hoang.

 

Những đêm nóng nực, kê chõng nằm giữa sân, với chiếc quạt mo cau, tay ông Hách liên hồi phẩy đập xua muỗi cho các con. Sao nở rộ đầy trời, ông Hách giảng giải cho các con, đâu là Sông Ngân với con vịt lội, đâu là chùm sao Bắc Đẩu, đâu là chùm sao Bội Tinh, đâu là sao Thần Nông với chiếc gầu tát nước, cả chị Hằng, cả chú Cuội vốn xưa ở chốn trần gian. “Chú Cuội ngồi gốc cây đa, để trâu ăn lúa gọi cha ời ời, cha còn cắt cỏ trên giời, mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên”. Học và các em đồng thanh hát xướng rân ran, đứa nào cũng gân cổ lên mà hát. Át cả tiếng ếch nhái ao chuôm. Giọng ông Hách trầm trầm kể cho các con nghe sự tích của làng. Chẳng lần nào khác lần nào. Nhưng các con vẫn thích nghe ông kể. Chuyện bà Dong gặp đám mây đỏ giữa chiều. Chuyện về Đô thống Lân Hổ đánh đuổi quân Nguyên cứu nước cứu làng. Nhìn lên những vì tinh tú, Học và các em mặc sức tưởng tượng về những gì đã và sẽ xảy ra, tưởng như kho cổ tích còn đang cất giấu giữa trời.

Rồi lại những khi đánh khăng, đánh đáo, đánh bi, đánh chắt, đánh chuyền, làm đình, làm chùa, chơi trận giả khua gươm dáo gỗ, chơi cướp cờ, chơi rồng rắn lên mây, có cây núc nác… với những người bạn đồng lứa ở ngay sân đình, đã khắc sâu vào tâm trí tuổi thơ của Học.

Hôm chia tay đám trẻ làng để lên trường tỉnh, Học đã cho tập hợp hết bạn bè thời thơ ấu để chơi trò rồng rắn. Cuộc đối đáp của rồng rắn với thày thuốc thật là lạ, dù Học với bạn bè đã thuộc từng câu từng chữ.

– Xin khúc đầu?

– Những xương cùng xẩu!

– Xin khúc giữa?

– Những máu cùng me!

– Xin khúc đuôi?

– Tha hồ thày đuổi.

Cuộc đuổi bắt cứ theo mãi đời người. Không dừng không nghỉ. Học càng ngẫm càng thấy câu đồng dao ngày bé cứ hiển hiện ám ảnh trước mắt. Thật không sao giải thích nổi.

 

 

 

 

 

 

 

Chương III

                                   CUỘC GẶP KHÔNG ĐỊNH TRƯỚC

 

                                                                       Hãy tự biết trả lời

                                                                       Những câu hỏi từ đắng cay gai góc

                                                                       Dẫu chân trời kia

                                                                       Những đám mây chưa báo trước điều gì

 

Lâu lắm, Nguyễn Thái Học mới có một ngày được ngủ đẫy mắt. Cùng trọ học với Hồ Văn Mịch, chàng giáo viên tiểu học quê Ninh Giang – Hải Dương, vì ham muốn hiểu biết và cũng không chịu cảnh sống hạn hẹp quẩn quanh ở một vùng đất nên đã rời quê lên Hà Nội học Cao đẳng Sư phạm. Nguyễn Thái Học kết thân với Mịch, bởi cùng trọ học và sự cảm thông tự nhiên đối với con người đầy quả quyết, tư chất thông minh, giàu ý tưởng mới mẻ. Mịch rất hiểu tính tình Nguyễn Thái Học, cương trực, say mê học hỏi, ưa hành động và lúc nào cũng như thèm ngủ. Đặt mình nằm là ngáy. Mươi phút gục lên mặt bàn cũng được một giấc. Dăm phút co chân lên ghế cũng có thể khò khò. Thế mà hôm nay được ngủ cả buổi sáng, không cần biết trời đất là gì.

Nguyễn Thái Học như thấy người khoẻ hẳn ra. Anh thầm cảm ơn Mịch đã tôn trọng giấc ngủ ngàn vàng, không làm ảnh hưởng tới những giây phút quên đời của anh. Vươn vai mấy lần, Học mới thật sự tỉnh táo.

Nhớ trước lúc chìm vào giấc ngủ, Mịch đã nói điều gì với Học nhỉ? À, Mịch đọc những vần thơ trong bài “Chiêu hồn nước” của Phạm Tất Đắc. Những câu thơ cảm động đã làm cho Học lén lau nước mắt.

Ngọn gió lọt đèn tàn hiu hắt

Tiếng cuốc kêu đầy mặt anh hùng

Nghiến răng nuốt cái thẹn thùng

Mà chiêu hồn cũ lại cùng non sông…

Học thấy Mịch vẫn ngồi đọc sách thì hỏi:

– Mình ngủ được mấy tiếng rồi hả Mịch?

– Chừng hơn ba tiếng thôi!

– Thế cơ à? Sao không đánh thức mình?

– Đêm qua cậu thức gần trắng đêm còn gì?

– Đúng là thức gần trắng đêm. “Thượng đế ban cho chúng ta hi vọng và giấc ngủ để đền bù cho những nỗi lo lắng của cuộc đời”! Voltaire đã nói thế mà! Chỉ vì mấy cuốn sách của Phạm Tuấn Tài đưa cho đọc. Nó hấp dẫn bằng vạn lần những bài học nhạt nhẽo mà trường Bảo hộ nhồi nhét cho chúng mình.

– Kết thân với Nam Đồng thư xã thật là tuyệt vời. Chừng như duyên trời cho chúng mình được gặp cánh họ. Bao nhiêu sách hay. Càng đọc càng mở mang đầu óc. Không có Nam Đồng thư xã thì tìm đâu ra “Lettres persanes” (Những lá thư của người Ba Tư);  “De I’Esprit des Lois” (Tinh thần pháp luật) của Montesquieu;  La promenade du sceptique (Bước đi hoài nghi) của Denis Diderot. Le Contrat Social (Hợp đồng xã hội), Émile ou de l’education (Êmile hay vấn đề giáo dục) của Jean Jacques Rousseau. Rồi “Lettres philosophiques” (Những lá thư triết học về nước Anh), “Encyclopédie” (Bách khoa thư), “Dictionnaire philosophique” (Từ điển triết học) của Voltaire… mà đọc?

– Thật đáng nể phục những dịch giả Hoàng Phạm Trân, Nguyễn Ngọc Sơn, cùng anh Lâm, anh Tài đã cung cấp cho chúng ta những cuốn sách quý.

– Không có những cuốn sách khai sáng chẳng khác nào chúng ta đi trong rừng rậm. Đối với người dân mất nước càng thấm thía thế nào là mất Tự do, mất quyền Bình đẳng và thiếu vắng tinh thần Bác ái. Điều này các học giả phương Tây nói tới quá lâu. Giờ chúng mình mới được đọc.

– Cũng phải nói là dịp may chúng mình được sống ở Hà Nội, được giao du, được tiếp xúc với các trí thức, được mở rộng tầm mắt. Chứ cứ loay hoay ở nhà quê thì đâu biết được những điều thật là lớn lao ấy.

– Thế có nghĩa là cậu tự khen sự lựa chọn đến Hà Nội để học hành của chúng ta là sáng suốt?

– Chứ còn sao nữa! Gần gũi với mình nhất vẫn là tư tưởng cách mạng của Tôn Dật Tiên. Mình nghiền ngẫm “Kiến quốc phương lược” của ông ấy thấy sát hợp với hoàn cảnh thực tế và ý tưởng của chúng ta.

– Ông ấy từng sang Việt Nam năm lần. Ở số nhà 22 Hàng Buồm. Từng từ Việt Nam chỉ đạo cách mạng trong nước Tầu.

– Thế ra Việt Nam mình cũng có công, qua Tôn Dật Tiên chỉ đạo đối với cách mạng Trung Hoa đấy chứ nhỉ!

– Đáng để chúng ta ngưỡng mộ và không thể không vận dụng, đó là chủ thuyết Tam dân. Muốn có Tự do, Bình đẳng, Bác ái, không thể không bảo đảm các quyền Dân tộc, Dân quyền, Dân sinh. Phải thiết lập được thể chế dân chủ cộng hoà, mới mong thoát khỏi vòng nô lệ.

– Chủ thuyết ấy phải trải qua thực tiễn đấu tranh của người Trung Hoa mới có thể rút ra được. Trước tiên là nó đúng với người Trung Hoa.

– Đúng thế! Nhưng đối với Việt Nam, ta chỉ có thể vận dụng những gì phù hợp. Còn những gì không phù hợp cũng phải tránh. Người Tàu dù sao cũng khác ta…

– Chà chà, say sưa quá! Suýt quên quyền lợi của cái dạ dày!  Có cái gì ăn không nhỉ?

– Làm gì có? Hết gạo từ chiều qua rồi. Chỉ còn bịch khoai lang…

– Thế thì ra phố làm bát phở. Mới được mẹ gửi cho ít tiền tiếp sức!

Hai chàng trai khoác vai nhau ra phố.

Loanh quanh chưa biết vào quán phở nào, thì chợt nhớ, có lẽ cánh Nam Đồng thư xã cũng chưa ăn gì, tới mời họ cùng đi.

 

*

Phố Trúc Bạch khá quen thuộc với hai chàng trẻ. Gió cuốn từ phía Hồ Tây thổi lồng lộng qua con đường đê, thổi dọc theo Cổ Ngư, len lỏi vào từng ngõ ngách ven hồ Trúc Bạch. Phố nhỏ có cái vẻ thơ thới, không quá ồn ã, những ngôi nhà ven phố còn nhiều dấu tích của thôn ổ làng quê. Ở đây có thể phóng tầm mắt xa xăm về phía Hồ Tây mờ mờ trong làn sương đục. Dấu tích của làng Trúc Yên xưa có nghề dệt lụa nổi tiếng, với câu ca: “Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng. May áo chàng cùng sóng áo em” . Câu ca ấy chỉ còn tiềm vọng trong trí nhớ. Bước chân hai chàng trai như thể mộng du.

Khói đúc đồng làng Ngũ Xã quẩn theo gió mang theo mùi khét than lửa. Họ vốn dân Kinh Bắc tài hoa, do nhu cầu đồ đồng thờ phụng của dân Hà Nội mà về đây mở mang làng nghề. Hai chàng trai vừa đi vừa nhắc về vùng đất xưa với một chút hoài niệm. Họ không sinh ra ở đây, nhưng từng con phố Hà Nội đều gợi trong tâm trí họ những điều bí ẩn không thể nào không khám phá.

Nơi đây cách trường Sư phạm, nơi Nguyễn Thái Học và Hồ Văn Mịch tu nghiệp không xa. Đấy là ngôi trường nằm trên phía Cửa Bắc, có hàng cây sấu bốn mùa xanh tốt.

Cũng vẫn con đường này mà mỗi lần đi qua Nguyễn Thái Học lại như thấy thân thiết hơn. Bởi nơi đây có những người bạn chí cốt.

Chủ nhân Nam Đồng thư xã cũng vừa ngủ dậy.

Chẳng mấy khi được cùng nhau hưởng những khoảnh khắc thư thái như thế này. Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài chỉnh tề trong áo quần sơ mi lịch lãm, chân xỏ giầy tây bóng lộn. Họ rủ nhau ra tàu điện rồi rông tuốt lên Quan Thánh, tới Hàng Đậu, tìm một quán phở ngon, chỗ ngồi thật yên tĩnh, để tận hưởng hương vị được coi là đệ nhất của đất Hà Thành.

Quán phở nhỏ nằm gọn góc phố, thu hút nhiều khách ăn sành điệu. Những bát phở tái, phở chín, phở sốt vang, phở gà, nóng hôi hổi, tỏa khói bay nghi ngút. Hương phở thơm nức mũi. Nước phở có vị ngọt sâu, vô cùng hấp dẫn. Có thể nói đây là món ăn thanh lịch và thích khẩu của nhiều đẳng cấp xã hội, đã tốn không ít giấy mực tán dương của các bậc tao nhân mặc khách.

Chủ quán phở là một người ăn nói từ tốn dễ gần, có cô vợ trông đậm đà, má lúc nào cũng ửng hồng, đi đứng nhanh nhẹn, rất có duyên chiều khách.

Ăn xong, Nguyễn Thái Học trả tiền chủ quán. Phạm Tuấn Lâm bảo, để bọn này trả, sinh viên các cậu tiền bạc đâu có nhiều? Học cười lớn:

– Các bác cứ xem thường. Để Học đóng vai chủ nhà băng một lần chứ!

– Chao ôi, được mẹ cho mấy đồng mà dám nhận chủ nhà băng!

Mọi người cùng cười vì câu đối đáp thân tình chí lý của hai chàng kẻ sĩ nghèo rớt.

– Bây giờ ta đi đâu? – Phạm Tuấn Tài hỏi.

– Vẫn phải về nơi cần đến. Thời gian đối với chúng mình không nhiều. Tranh thủ đọc. Tranh thủ học. Tranh thủ trau dồi tri thức là cần thiết nhất lúc này.

Hồ Văn Mịch đồng tình:

– Đúng đấy! Đã đọc xong “Trưng nữ vương diễn nghĩa” và cuốn “Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn” của các anh soạn thảo. Rất thiết thực và bổ ích với người dân xứ sở Việt Nam của chúng mình. Các anh cho mượn tiếp cuốn “Gương thành bại” và hẳn nhiên cuốn nào đọc có giá trị thì mượn tất.

– Tham lam quá!

– Những cuốn sách này rất cần thiết cho việc truyền bá những tư tưởng mới mẻ và cách mạng cho dân chúng rộng rãi vốn còn mờ mịt trong chính sách ngu dân của những kẻ cai trị.

 

Học và Mịch mới quen Phạm Tuấn Tài, nhưng tiếng tăm của anh đã được mọi người biết từ lâu qua mấy bài thơ in trên tạp chí Nam Phong, với bút danh Mộng Tiên, từ những năm1923. Bài “Đông dạ lữ hoài” thấm đẫm nỗi buồn da diết của người dân mất nước:

           Lạnh lẽo canh tàn khách ngẩn ngơ

           Đường kia nỗi nọ rối vơ tơ

           Trông về quê quán sương che khắp

           Ngảnh lại non sông tuyết phủ mờ…

Lúc này, Mịch có thể đọc thuộc làu mấy bài thơ đó của Phạm Tuấn Tài.

Về đến Nam Đồng thư xã đã thấy Nguyễn Ngọc Sơn đứng chờ. Rõ là cuộc hội ngộ như tạo hoá sắp đặt. Sơn chỉnh tề trong complet cravatte. Trông dáng vẻ đã toát lên hình ảnh của người từng du học, tiếp cận nhiều với văn minh hải ngoại. Đấy là vẻ ngoài, còn khi giao tiếp mới thấy Nguyễn Ngọc Sơn nói năng lịch thiệp nhã nhặn, cốt cách gần gũi, nho nhã. Gặp nhau là thân tình hồ hởi. Được biết Nguyễn Thái Học và Hồ Văn Mịch là sinh viên Cao đẳng sư phạm, Nguyễn Ngọc Sơn càng tỏ ra ân cần.

Họ kết thân nhau rất chóng. Họ gặp nhau ở sức trai trẻ. Và có lẽ hơn hết đó là tấm lòng với những lớp người lầm than, với đất nước còn quá nhiều khổ đau, của cảnh dân nô lệ.

Nguyễn Thái Học hỏi:

– Ngọc Sơn đã ăn uống gì chưa?

– Bánh mì, bánh mì! Xong bữa đơn giản. Thức ăn quá quen thuộc những ngày bên tây.

– Thế thì yên tâm. Không phải áy náy gì.

– Gặp nhau hàn huyên là tuyệt rồi.

Cả mấy người kéo nhau lên gác hai, nơi có căn phòng khách kín đáo, có bộ bàn ghế mây cũ, được xếp gọn gàng. Từ đây có thể phóng tầm mắt nhìn xuống đường và nhìn ra tận ngoài hồ Trúc Bạch. Nguyễn Thái Học tiếp tục câu chuyện với Nguyễn Ngọc Sơn.

– Rất may cho tôi, gặp Ngọc Sơn ở đây. Chứ tôi đã định đi tìm Ngọc Sơn để xin thỉnh giáo về lá đơn tôi soạn gửi cho Toàn quyền Đông Dương, yêu cầu mở mang kinh tế, giúp đỡ dân nghèo. Tôi đã tham khảo ý kiến anh Hoàng Phạm Trân, anh Tuấn Lâm, anh Tuấn Tài… Định gặp nghe ý kiến của anh nữa. Bởi anh am hiểu về Luật, ý tứ sẽ chặt chẽ hơn.

– Cảm ơn anh đã tin tôi.

– Đây, anh xem đi, rồi cho tôi thêm ý kiến.

– Năm ngoái anh đã từng gửi kiến nghị cho Toàn quyền Đông Dương rồi cơ mà?

– Phải rồi! Năm ngoái tôi đã đệ đơn yêu cầu mở mang nền công nghệ và lập trường Cao đẳng công nghệ Bắc Kỳ cho con em bản xứ, cải cách nền công thương vốn dĩ lạc hậu què quặt. Nhưng không được phúc đáp. Tôi cũng đã trực tiếp gặp viên Toàn quyền Varenne, nhưng thái độ của ông ta rất lừng chừng… Các anh thấy đấy, cả nước ta số người được đi học chưa đến một phần trăm. Học sinh cao đẳng và học nghề cả miền nam có 465 người, miền bắc thì chưa đầy bốn trăm. Muốn chống nghèo nàn dốt nát bắt buộc phải mở trường không lấy tiền cho dân hạ cấp đến học, nhất là thợ thuyền và nông dân. Những vấn đề đó không thể không lên tiếng.

Nguyễn Ngọc Sơn thở dài:

– Nước Pháp vẫn nhận mình là nước văn minh, vậy mà có lá thư kiến nghị của người dân cũng không trả lời thì thật không sao hiểu nổi.

Nguyễn Thái Học trao cho Nguyễn Ngọc Sơn bản giấy viết tay sạch sẽ trang trọng. Ngọc Sơn cầm lấy tờ giấy kiến nghị mới viết của Học, và nói:

– Mới về nước, am hiểu tình hình còn hạn chế lắm. Nhưng anh đã tin tưởng, tôi xin lĩnh ý. Nhưng anh cần trao đổi thêm với anh Trúc Khê, anh Nguyễn Triệu Luật. Các anh ấy đều là trí thức am hiểu tình hình.

– Tôi đã trao đổi với các anh ấy. Họ nói bận dậy học, không có điều kiện đọc ký. Tất cả trông vào sự sáng suốt của anh.

– Tôi cho rằng đây cũng là thời cơ mà ta tỏ rõ ý chí và tâm nguyện của người dân Việt Nam và ý nguyện của tuổi trẻ đối với vận mệnh của đất nước.

– Tình thế có thể đưa yêu sách cho Toàn quyền Đông Dương lúc này là hợp lý. Bởi tinh thần dân chủ ở Pháp đang được đề cao.

– Tôi nghĩ thế. Bởi, Toàn quyền Varenne là đảng viên Đảng xã hội Pháp, mới nhậm chức đã quyết định ân xá cụ Phan Bội Châu và có nhiều hứa hẹn cải cách xứ thuộc địa.

– Đấy là động thái ban đầu, cũng còn phải xem hành vi cụ thể. Biết đâu, đó chỉ là cách lấy lòng mà bất cứ tên thực dân nào cũng áp dụng.

Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài và Hồ Văn Mịch ngồi nghe chăm chú. Đến lúc này thì Phạm Tuấn Tài mới nói xen vào.

– Nhiệt huyết của chúng ta có thừa. Làm lay chuyển thái độ của bọn thống trị không dễ dàng. Nhưng không thể không lên tiếng. Tôi và anh Phạm Tuấn Lâm, anh Hoàng Phạm Trân rất ủng hộ cách suy nghĩ và những đề xuất của anh Nguyễn Thái Học.

Trong thâm tâm Nguyễn Ngọc Sơn rất quý trọng Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài. Họ là nhân vật khởi xướng ra Nam Đồng thư xã. Nhưng cái lớn lao là biết cách tuyên truyền tinh thần yêu nước đến dân chúng. Những mẩu chuyện về Trưng Trắc, Trưng Nhị, chuyện Tôn Dật Tiên… được biên soạn rất dễ hiểu, lại được in thành những cuốn nhỏ, dễ truyền bá rộng rãi. Đấy là cách làm thông minh, khi dân chúng còn nhiều người chưa thạo chữ, không thể đem những cuốn sách dày cộp và những mớ lý thuyết rườm rà cho họ. Giờ lại được giao du cùng với Hồ Văn Mịch, Nguyễn Thái Học, những chàng sinh viên mà đã có chí lớn, được Tuấn Lâm, Tuấn Tài nể trọng, hẳn là những người sẽ làm nên chuyện cao cả cho đất nước. Nguyễn Ngọc Sơn thầm cảm phục.

Đã từng sống trong lòng nước Pháp nên Ngọc Sơn rất hiểu về những gì thực tại của nước Pháp. Giống như kiểu bày hàng, văn minh tiến bộ được trưng phô ra phía trước, còn những thứ rác rưởi xấu xí được che đậy sắp đặt đằng sau những vẻ hào nhoáng. Đó là sự đói nghèo bần cùng của dân lao động, của thất nghiệp khuất lấp sau những phố sá sầm uất. Đó là sự phân biệt đối xử có thể gặp bất cứ ở đâu.

Được Nguyễn Thái Học hỏi ý kiến về bản kiến nghị gửi Toàn quyền Đông Dương, Nguyễn Ngọc Sơn đọc kỹ lưỡng từng đoạn. Đây là ý kiến cá nhân của Nguyễn Thái Học, đầy tinh thần trách nhiệm với đất nước, lời lẽ khúc chiết, có tính mục đích rõ ràng. Đáng nể ở lòng dũng cảm. Còn đáng nể ở văn phong chặt chẽ, thấu đáo về lý lẽ. Tuy Nguyễn Thái Học không được học luật, nhưng một cử nhân như Sơn, được học tận Paris, cũng phải nể trọng về tính thuyết phục của văn bản.

– Tôi chỉ muốn anh nhấn mạnh thêm  “đây là ý chí của toàn dân tộc Việt Nam, đòi Chính phủ Pháp phải cam kết thực hiện quyền tự do, dân chủ, bác ái tại Việt Nam, thực hiện quyền bình đẳng đối với các dân tộc”.

– Tôi xin bổ xung vào văn bản.

– Tôi thấy rằng anh đã cân nhắc kỹ khi đặt bút viết.

– Tôi muốn anh bổ khuyết cho tôi về văn luật.

– Thế là ổn rồi anh ạ. Vấn đề là nội dung cần thiết phải nói thì anh đã nói khá rành mạch.

– Cảm ơn anh. Như vậy tôi yên tâm để gửi văn bản này đi.

Nguyễn Thái Học rất cảm kích trước nhận xét của Ngọc Sơn. Anh thầm nghĩ, có được những người tâm giao cùng chí hướng như rừng thêm cây, như nước thêm nguồn. Thật là an tâm khi bên cạnh mình có những người có khả năng chỉ dẫn cho mình những điều còn khiếm khuyết. Đã có người nói, trước mặt anh có ba người thì thể nào cũng có một người là bậc thầy. Anh coi bạn bè như thầy. Nguyễn Ngọc Sơn cũng như Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài, Hồ Văn Mịch xứng đáng bậc thầy.

Còn một người nữa, anh chưa hỏi ý kiến, đó là Phó Đức Chính. Chàng trai trẻ nhất trong số bạn bè, đang làm bổn phận tham tá công chính tận bên Lào. Nguyễn Thái Học thốt nhiên hỏi:

– Anh Tài này, có phải Phó Đức Chính đang ở đây?

– Phải rồi! Mới ở Xavanakhet về. Anh ấy đang cùng Hoàng Phạm Trân đi thư viện từ sáng sớm. Gớm hai cái ông mọt sách. Hở ra thời gian nào là đến thư viện. Kìa, hai chàng đang về kia.

Hoàng Phạm Trân và Phó Đức Chính mỗi người ôm một chồng sách nặng. Phạm Tuấn Lâm đỡ mấy cuốn sách Phó Đức Chính đưa.

– Thiêng thật! Vừa mới nhắc tới Chính thì Chính đã có mặt.

– Đi cùng anh Hoàng Phạm Trân, nhân thể mua tờ nhật báo. Chào tất cả các anh. Vui quá, không hẹn mà gặp. Toàn bậc hiền nhân.

– Khác gì người hiền tụ nghĩa. Đúng rồi, không phải tụ nghĩa bàn đào mà là tụ nghĩa bàn trà!

Phó Đức Chính và Hoàng Phạm Trân bắt tay mọi người trong phòng.

– Đi với Chính, mình thua thiệt đủ đường. Các nàng ở thư viện cứ bâu lấy chàng khen trẻ thế mà đã kỹ sư công chính.

– Thì anh có lép gì đâu? Cái cô hàng xén ở Hàng Đào chả ríu rít, anh viết báo có nhuận bút là phải đãi chúng em một bữa liên hoan đấy! Viết báo mà chơi với các cô hàng xén thì đâu có thiệt thòi?

– Ôi dào, các cô không bám các chàng mới là chuyện lạ!

Nguyễn Thái Học bảo:

– Phó Đức Chính này, đây là bản kiến nghị gửi Toàn quyền Đông Dương, mọi người đã xem và cho ý kiến. Còn Chính xem nữa, rồi góp ý cho mình.

– Thôi, khỏi xem, mọi người góp ý là đủ rồi. Cứ gửi tới đi!

– Nào, xem nhật báo hôm nay có tin tức gì mới không?

– Tin tuyển mộ phu đi đồn điền cao su Nam Kỳ. Lại tin bắt bớ, tình nghi chống chính quyền bảo hộ. Tin không có tiền đóng thuế, một nông dân đã dùng bả chuột đầu độc vợ con rồi thắt cổ tự tử.

– Lại tin bắt đám thợ nổi dậy đánh chủ mỏ bị bắt vào tù..

– Nhục nhã! Còn nô lệ còn nhục nhã. Người Pháp lại có quyền bắt người Việt bỏ tù ngay trên đất Việt. Là sao?

– Một xã hội bế tắc! Bế tắc!

– Làm gì để cứu dân tộc, cứu đồng bào mình trong lúc này?

Mỗi người một câu. Không khí trong phòng bỗng trở nên sôi sục và nghiêm trang.

– Đất nước tang thương. Vua quan thối nát. Dân tình khổ đau. Đấy là bức tranh xám xịt hằng ngày ta phải chứng kiến.

– Bọn Pháp thì vơ vét tài nguyên. Quan lại thì khom lưng uốn gối. Vinh thân phì gia. Trăm nỗi khổ đau đè nặng lên tấm thân người nghèo khổ.

Sôi nổi nhất là ý kiến của Phó Đức Chính:

– Chúng mình không thể khoanh tay đứng nhìn cảnh đất nước tủi nhục. Phải chứng tỏ người Việt Nam không hèn, không chịu nhục. Không thể để cho người Pháp muốn làm gì thì làm đối với dân ta. Tôi cho rằng chúng ta phải hành sự. Điều này trông chờ ở anh Nguyễn Thái Học, với ý chí và sự thông tuệ, đứng ra tập hợp anh em. Tôi sẽ là người tình nguyện.

– Không có cách gì khác, chúng ta phải chứng tỏ con dân nòi giống Lạc Hồng bằng hành động

– Đúng rồi! Chúng ta cần phải dấn thân cứu nước.

– Việc này phải làm sớm. Không thể chần chờ được.

Nguyễn Thái Học thấy những điều bàn luận của mọi người thật xác đáng. Nói về lòng yêu nước bất khuất, dân ta có thừa. Từ những trang sử của cha ông chống phong kiến phương bắc bao nhiêu triều đại, đến những cuộc nổi dậy chống thực dân Pháp vô cùng oanh liệt. Những tấm gương của Đề Thám, của Đội Cấn còn đó. Tất cả bị dìm trong máu. Rồi Phạm Hồng Thái mưu sát Henri Merlin Toàn quyền Đông Dương ở Sa Diện bên Tàu. Rồi cụ Phan Chu Trinh, cụ Phan Bội Châu với trí năng uyên thâm mong tìm con đường cứu lấy nước nhà, hết Duy Tân đến Đông Du, nhưng đều bất lực trước cường quyền.

Nguyễn Thái Học càng thấy vững tin ở tuổi trẻ. Nhiệt huyết, chân tình, sẵn sàng xả thân vì nước. Mỗi khi gặp nhau là bao ý tưởng nảy nở. Đấy là những người bạn cùng chí hướng. Dám lấy nghĩa lớn để phụng sự. Anh nói quả quyết:

– Phải hành động! Ngay ngày mai chúng ta đều có trách nhiệm vận động thêm người tham gia cách mạng. Không chỉ Hà Nội, mà phải như vết dầu, loang ra khắp bản đồ toàn quốc.

Cuộc đàm đạo kéo dài cho tới đêm mà không ai để tâm. Ý tưởng làm cách mạng để giải phóng đất nước càng nung nấu. Mỗi người một ý kiến xoay quanh việc phải thành lập một tổ chức để tập hợp mọi người cùng đứng lên đánh đuổi ngoại xâm giành Độc lập Tự do cho đất nước.

Quá khuya. Nguyễn Ngọc Sơn rủ mọi người ra phố Sinh Từ ăn tào phớ.

Vừa tới đầu phố, thấy phía trước huyên náo. Mọi người dừng lại, hỏi thì ra đang có cảnh bắt bớ của bọn mật thám nằm vùng với người chúng nghi là có hoạt động chống đối nhà cầm quyền. Phạm Tuấn Tài không kìm được:

– Thời buổi thật nhiễu nhương!

– Khốn nạn!

– Không nơi nào được yên ổn!

– Thôi hẹn khi khác gặp nhau vậy nhé!

Mọi người tản theo các ngả phố, mất hút vào đêm Hà Nội.

Phó Đức Chính không quên nhắc Nguyễn Thái Học:

– Thể nào anh Học cũng nhớ cho chúng tôi về thăm quê hương Thổ Tang của anh đấy nhé.

– Nhớ, nhớ! Thổ Tang quê mình ngoài nghề tằm tang nổi tiếng, buôn bán tần tảo, con gái tài sắc đảm đang lắm. Và, mình còn có ông bố bà mẹ, cùng các em rất tuyệt vời.

 

 

 

 

 

 

Chương IV

NGẢ ĐƯỜNG DANG DỞ

 

                                                                       Sương nắng âm thầm tóc mẹ

                                                                       Nuôi dưỡng đức tin con

                                                                       Vị ngọt chắt ra từ mật đắng

                                                                       Có thể chữa lành vết cứa thời gian

 

Được coi là sâu ngủ mà từ lúc chia tay với mọi người trở về nơi trọ, Nguyễn Thái Học đặt mình nằm rồi vẫn không sao chợp được mắt. Những điều bạn bè nói đã khiến cho tâm trạng của anh không yên. Đó là những điều hệ trọng liên quan đến vận mệnh đất nước và tính mệnh từng người. Anh có thể đứng ra cùng với mọi người lập nên một tổ chức với mục đích làm cách mạng để cứu quốc gia, cứu dân tộc. Nhưng gánh vác vai trò đứng đầu tổ chức đó thì anh còn phải cân nhắc thật kỹ. Trọng trách ấy khiến anh càng lo lắng. Anh phải bắt đầu như thế nào? Điều đó thật không dễ dàng.

Không thể phụ lòng tin của mọi người, anh vạch ra trong đầu một kế hoạch vận động tuyên truyền rộng khắp những người có thiện chí, lập ra tổ chức đấu tranh với thực dân và những kẻ quan lại đồi bại. Nhưng con đường phía trước còn dài và biết bao khó khăn chưa thể lường được.

Trời nóng như nung. Chiếc quạt nan không đủ sức xua mồ hôi túa ra dưới tấm lưng dính vào tấm phản mộc. Muỗi được dịp khuấy động không gian bằng một thứ âm thanh nhấm nhẳng cực kỳ khó chịu. Nguyễn Thái Học bật dậy chạy ra vòi nước công chảy ri rỉ góc phố. Anh mở khóa vòi nước cho chảy thấm vào chiếc khăn, rồi thấm lên khắp người. Nước xoa dịu bớt cái nóng. Nước làm cho anh thêm tỉnh táo.

Những ngày học trường sư phạm cùng với Hồ Văn Mịch hiện về như một cuốn phim câm. Rời khỏi trường tỉnh về đất kinh kỳ học, tưởng rằng có gì thật sự mở mang. Nào ngờ, vẫn tiếp tục nhai cái mớ lý thuyết nô dịch. Chỉ những giờ được giảng về cách mạng 1789 ở Pháp là thu hút sự chú ý của Nguyễn Thái Học. Anh chăm chú nghe về đội quân cách mạng đã lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế của Louis XVI, đánh đòn chí mạng vào bọn quí tộc tăng lữ độc đoán và khắc nghiệt, quan liêu và tham nhũng.

Lại nhớ, hồi Nguyễn Thái Học còn học Diplome trường tỉnh, khi làm bài thi với đề “Hãy nói rõ sự nghiệp của Jules Ferry”. Nguyễn Thái Học cảm thấy xót xa như bị xúc phạm. Chỉ biết đó là nhân vật nổi tiếng trong lịch sử dân tộc Pháp. Thế cũng đủ rồi. Cớ làm sao lại phải làm bài về sự nghiệp của một người xa lạ với dân tộc, Tổ quốc mình. Sao không nói tới sự nghiệp các anh hùng khai quốc cứu quốc: Hùng Vương, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Quang Trung…đã bao đời làm vẻ vang cho đất nước? Mọi người cắm cúi làm bài. Còn Nguyễn Thái Học thản nhiên ghi vào bài làm: “Người Việt Nam không hề biết người này”! Nguyễn Thái Học bị đánh trượt ngay tức khắc. Khi giám hiệu cho gọi Nguyễn Thái Học tới để khiển trách, đã hỏi: “Tại sao học trò lại có hành động thiếu suy nghĩ như thế?”. Nguyễn Thái Học đã trả lời: “Tôi không thiếu suy nghĩ mà tôi nghĩ thế nào thì tôi viết ra như thế!”. Chuyện ấy có lần Nguyễn Thái Học đã kể cho Hồ Văn Mịch nghe. Hồ Văn Mịch bảo:

– Anh thật cương trực. Tôi cũng nghe quá nhiều những điều truyền giảng về lịch sử Pháp, cũng thấy chán ngấy về sự gò ép. Tại sao người Việt không được học sử Việt? Bao nhiêu trang chống các triều đại phong kiến phương bắc chói chang của dân tộc mình, không được mảy may nhắc tới.

– Đấy là một nền giáo dục nô dịch. Đào tạo nên lớp người làm tay sai hơn là người được hành nghề chân chính.

– Ta phải làm đảo lộn lại. Chí ít là phải lên tiếng phản kháng với chính quyền bảo hộ. Chúng tôi đặt niềm tin vào Học.

– Mình chỉ sợ quá sức. Nhưng mình sẽ cố gắng.

– Trước mắt phải bắt đầu từ học đường.

– Đúng là cần phải cải thiện ngay luật lệ học đường. Không để bọn me tây xúc xiểm hà hiếp những người dân lành.

Ở trường Cao đẳng sư phạm, Nguyễn Thái Học và Hồ Văn Mịch từng chứng kiến bao cảnh trớ trêu, phân biệt giữa con cái đám me tây và con cái người bản xứ. Không ai dám đứng ra bênh vực người yếu thế.

Trường có giám thị Thược, trước là lính tẩy, nên cử chỉ rất lố lăng, hống hách, hay đặt chuyện tâng công với chủ, xử phạt học trò vô cớ, gây oan ức cho nhiều người, thường bị học trò ngấm ngầm phản kháng.

Một lần, giám thị Thược vào lớp, theo thói quen, vừa mở ngăn kéo bàn để cất tài liệu sách vở, chỉ kịp kêu ối một tiếng, đã bị đám ong bầu vẽ do mấy học trò lấy tổ bí mật nhốt vào đó, được dịp bay túa ra, cứ mặt giám thị Thược mà đốt. Giám thị Thược nhẩy câng câng la hét toáng giời đất. Đám ong thấy hơi lạ trong miệng giám thị phả ra, càng đốt hăng. Mặt giám thị sưng như nồi đất úp. Những thứ trò tinh nghịch ấy của đám nhất quỷ nhì ma không thiếu gì. Cả lớp được trận cười đã đời.

Hình như sau lần bị ong vò vẽ đốt, giám thị Thược cũng thấy chờn đám học trò vô sừng vô sẹo!

 

*

Nhìn lên bầu trời chi chít những sao, báo hiệu nắng nóng còn tiếp tục trong những ngày tới. Tự dưng Nguyễn Thái Học thấy nhớ nhà. Lúc này nếu ở quê, anh chỉ việc ra giếng làng vục thoả sức những gầu nước trong mát, dội vô tư lên cơ thể, cái mát thấm vào tận gan ruột. Rồi anh vác chiếc chõng tre ra sân hưởng gió trời, chắc hẳn sẽ có một giấc ngủ quên thiên địa.

Nóng làm cho anh như muốn chạy ngay về quê, không đợi đến sớm mai. Lâu lắm anh mới có cảm giác nhớ quê đến vậy. Hình ảnh người mẹ tần tảo nắng sương, đòn gánh trĩu vai, lần hồi khắp chợ huyện sang chợ tỉnh, hết chợ tỉnh về chợ làng, luôn day trở trong tâm trí anh. Dấu chân mẹ in khắp mấy tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Việt Trì, Chợ Nỷ sang Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên… Đôi vai quang gánh lúc nông tang, lúc quẩy hàng vải góp nuôi sống cả nhà. Anh biết nói sao với mẹ về chuyện học xong Cao đẳng sư phạm, đã thi đậu được bổ dụng thừa phái, không đi làm mà lại xin đi học Cao đẳng thương mại.

Còn một việc nữa, liên quan tới riêng tư, anh không muốn ràng buộc đến người mà cha mẹ anh đã chọn cho anh. Lý do, anh còn có những việc ở phía trước. Những việc liên quan đến tính mạng, liên quan tới cuộc sống, không phải chỉ cho riêng anh, mà là cho cả mọi người. Anh không muốn để cho người vợ chỉ là mang danh nghĩa phải khổ vì anh, phải khổ vì sự mỏi mòn trông đợi. Mà không thể trông đợi khi lý trí anh, tình cảm anh đã dành cho những chuyện đại sự. Anh sẽ không thể chỉ bó mình ở làng quê. Trí làm trai, không gì kím hãm được anh. Chỉ mong sao mọi chuyện êm thấm, để anh tiếp tục ý tưởng của mình. Anh còn phải học, còn phải học rất nhiều.

Anh thầm nghĩ, không thể bằng lòng với vốn hiểu biết quá nhỏ nhoi của mình, muốn làm được việc lớn, không đâu khác là phải học. Những kiến thức anh thu lượm được trong trường sư phạm chưa thấm tháp gì. Hơn nữa, nhà trường mới chỉ dậy cho mỗi người làm cái máy nói, làm cái công cụ truyền bá tư tưởng nước lớn của thực dân. Anh cũng sẽ như tất thảy mọi người phải cam phận phụng sự cho ngoại bang. Nô lệ và tiếp tục nô lệ. Điều đó anh không thể.

Anh chọn học Cao đẳng thương mại là để mở mang tầm nhìn. Muốn làm cách mạng phải biết giao thương. Phi thương bất hoạt. Phi công bất phú. Phi trí bất hưng. Phi nông bất ổn…Các cụ xưa dạy thế. Phải biết cách làm giàu. Phải biết đưa dân tộc thoát khỏi thân phận nghèo hèn. Những suy nghĩ nung nấu liên tục ập tới, làm cho Nguyễn Thái Học bước về tận lối rẽ mới chợt nhận ra là mình suýt nữa đi quá độ đường.

Làng Thổ Tang trù phú hiện ra bên cánh đồng lúa. Con đường lát gạch, chạy hút vào trong cổng làng, chạy qua ngôi đền Thổ Tang thờ Lân Hổ. Tương truyền Lân Hổ sức mạnh phi phàm. Khi quân Nguyên Mông đóng quân dọc Sơn Vi – Bạch Hạc, quấy phá dân ta. Lân Hổ đã xin vua Trần ngựa và đúc truỳ sắt, cùng nhân dân phá tan quân giặc, được Vua ban tặng tám chữ: “Nam thiên tráng khí, Bắc khấu hàn tâm”. Trời Nam khí mạnh, giặc Bắc lòng run. Khi Lân Hổ mất, dân lập đền thờ, gọi là đền Đô Thống đại vương, ngay bên đình Thổ Tang.

Nguyễn Thái Học nhớ như in lời các cụ già vẫn kể lại sự tích về Lân Hổ với mầu sắc thần bí. Người này có mẹ là Phùng Thị Dong, còn gọi là Bà Trúc, ra đồng cấy lúa, chợt có đám mây đỏ từ trời phủ xuống, đám mây đỏ toả ánh hào quang sáng rực, rồi cuốn chặt lấy bà. Từ đó bà có thai. Không chồng mà chửa, bị đuổi ra khỏi làng. Bà vào đồi trúc làm lán ở và sinh con trai ở đó. Người con khôi ngô tuấn tú, ăn nong, uống chậu, ba tuổi biết bổ củi, bảy tuổi biết dắt trâu đi cày, lớn lên có sức mạnh đặc biệt. Dân làng bảo người này “phi lân tắc hổ”. Không phải kỳ lân cũng là mãnh hổ, nên gọi tên là Lân Hổ. Khi quân Nguyên Mông tới, Lân Hổ đã chiêu mộ dân binh nhất tề chống giặc. Trận chiến nổ ra ngay tại đất Thổ Tang. Giặc tháo chạy, Lân Hổ đuổi sang tận đất Phong Châu. Bị tướng giặc chém ngang cổ, vẫn lấy đai áo rồng buộc lại, tiếp tục tấn công địch. Đến tận Cao Xá mới chịu ngã xuống. Đô Thống Lân Hổ được thờ ở Miếu Trúc, nơi mẹ Lân Hổ làm lán sinh con và được thờ ở đền làng Thổ Tang để ghi dấu công tích của người tuẫn nạn vì dân vì nước.

Cũng từ mảnh đất đầy kỷ niệm tuổi thơ sâu sắc này, Nguyễn Thái Học đã bước ra khỏi làng, tới Vĩnh Yên, tới Việt Trì để học hành, rồi tới Hà Nội, mỗi cấp một học một xa thêm. Trở về làng, anh không khỏi rưng rưng trước những hình ảnh quá chừng thân thuộc.

 

*

Nhớ tới chuyện cần thưa với cậu Tú, người đã có công dạy dỗ Nguyễn Thái Học chữ nho suốt những năm thơ ấu, anh tạt qua cuối ngõ đến nhà thày dạy học trước khi về nhà.

Cậu Tú vừa dạy học cho đám trẻ xong, đang cho thu dọn bàn ghế thì Nguyễn Thái Học đến cung kính chào:

– Dạ thưa, con chào thày!

– A, Nguyễn Thái Học, thày chào con. Con về bao giờ vậy?

– Con mới về, con đến thẳng đây thày ạ!

– Anh vẫn giữ cái phép trọng thày, đúng, nhưng mà không câu nệ. Cứ về bên nhà trước, rồi sang thày sau cũng được.

– Con về lần này có việc thưa với thày.

– Con cứ nói.

– Trước khi nói, cho phép con được lễ thày ba lễ.

– Con không phải thế. Có gì cứ nói!

– Xin phép thày, con biết chuyện này thất lễ cùng thày, chuyện thày và thầy mẹ con gây dựng chị Cửu cho con, nhưng vì điều kiện đời con phiêu bạt, chẳng biết khi nào mới trở về quê, để chị Cửu chịu khổ vì con, con không nỡ. Con thật có lỗi với chị ấy. Lại có lỗi với cả hai gia tộc.

– Cửu là cháu bên vợ thày. Đúng là nó cũng khó xử. Có chồng mà chưa được gần chồng. Gả Cửu là do giao ước ngày xưa của hai gia đình. Bây giờ, ý con đã thế, thày biết nói sao?

– Quả thật là con rất khó nghĩ. Nhưng mà trí con chưa thỏa, cuộc đời con còn đi xa, chưa biết điều gì bất trắc sẽ xảy ra. Thuyền chưa định đậu bến nào. Con muốn chị Cửu được tự do, được hưởng hạnh phúc. Mấy năm giời chị ấy đã hi sinh tuổi xuân vì con. Để chị ấy được có cuộc sống lâu dài, con không thể bắt chị ấy tù túng vì con.

– Trí trai đã vậy. Thày nào dám ngăn.

Câụ Tú pha trà mời cậu học trò cưng thời thơ bé. Giờ cậu đã chững chạc, nói năng rành mạch, lễ độ. Hai thày trò còn ngồi đàm đạo về thế sự khá lâu. Cậu Tú không ngờ cậu học trò nhút nhát ngày nào, giờ am hiểu thời thế đến vậy, lại có trí anh hùng tái thế táo bạo vậy. Chỉ là thày giáo làng, thày chẳng mấy khi được mở rộng tầm mắt ra cả nước. Nghe Nguyễn Thái Học nói về những ý tưởng lớn lao, cậu Tú trầm ngâm một lát rồi nói:

– Đúng là không gì hơn trí làm trai. Làm trai cho đáng nên trai mà. Chuyện vận nước là việc cần đến trí lớn. Thày chỉ khuyên con phải hết sức thận trọng. Việc gì cũng phải tính toán cho kỹ, không để những điều khinh xuất xảy ra. Quê mình, bên Vũ Di có tấm gương ông Đội Cấn đó. Cũng là người ưu thời mẫn thế. Thất bại, nhưng lòng trung để lại muôn đời. Lòng yêu nước của dân làng mình thật đáng trọng, đáng trọng.

– Lần trước về làng, con gặp mẹ ông Đội Cấn ở Cầu Hương. Cụ ấy cứ níu lấy tay con bảo rằng, hãy trả thù cho con cụ. Bà cụ gày yếu xác xơ quá. Nhưng trái tim của bà mẹ thì rực lửa.

– Làm sao mà nguôi được? Thương nhớ con đến héo hắt. Đã thế đám chức dịch có để yên đâu. Nay chúng lôi lên hạch sách, mai chúng lôi lên tra vấn.

– Con đã đi nhiều nơi thấy đám chức dịch luôn ỷ thế, đục khoét dân đen, tiêu lạm của công, bợ đỡ quan trên.

– Chuyện thời thế còn đau lắm con ạ!

– Kính thày, bây giờ con phải về!

– Chúc con mọi sự an lành, con nhé!

Nguyễn Thái Học không ngờ câụ Tú lại có cách ứng xử bao dung độ lượng như vậy. Cứ tưởng cậu phản đối quyết định chia tay của anh với Cửu. Nhưng cậu lại còn nói, ai buộc cánh được chim hồng hạc. Cửu là cháu bên vợ cậu. Cửu được tự do sớm ngày nào là được hạnh phúc ngày đó. Không phải trói buộc vào lễ giáo cổ xưa. Tiếng là cha mẹ lấy vợ cho, nhưng Nguyễn Thái Học chưa có dịp gần gụi với vợ. Cửu hơn anh hai tuổi, đã mấy năm chợ búa giúp bà Quỳnh nuôi anh ăn học. Không thể lợi dụng để Cửu lỡ dở tuổi thanh xuân. Nhưng bây giờ gặp Cửu sẽ nói như thế nào? Sẽ nói như thế nào để Cửu cảm thông và chấp nhận yêu cầu của Học?

 

*

Nguyễn Thái Học trở về nhà vừa lúc bà Quỳnh và Cửu đi chợ về. Anh đỡ gánh cho mẹ, xuýt xoa:

– Mẹ tham việc vừa thôi. Cũng cần phải nghỉ ngơi lấy sức mẹ ạ.

– Gớm, con trai lo cho mẹ vậy. Lo mà cứ đi biền biệt? Lần này về nhà có lâu không?

Nguyễn Thái Học xuê xoa:

– Cũng không lâu đâu mẹ ơi. Con của mẹ còn phải học hành mất nhiều thời gian lắm.

– Học hành hay còn chuyện gì khác?

– Mẹ yên tâm đi! Không có chuyện gì khác đâu. Con của mẹ lúc nào cũng chỉ mong xứng đáng với mẹ!

– Chỉ khéo lấy lòng mẹ thôi.

– Thầy con và các em con đâu, hả mẹ?

– Thầy con đi cày. Bình, Ưu đi giúp cha ngoài đồng. Nho đi học. Lâm cõng em Nỉ đi chơi đâu đó bên hàng xóm.

Nguyễn Thái Học quay sang nói với Cửu, vừa cất quang gánh vào trong nhà ra.

– Cửu vất vả quá, thông cảm với tôi nhé.

– Không có gì đâu. Học không phải lo cho tôi.

– Tranh thủ, tôi với Cửu nói chuyện riêng một chút !

– Chuyện cần lắm không?

– Chuyện cần lắm!

Cửu tự nghĩ trong lòng, từ ngày về làm vợ Nguyễn Thái Học đã bao giờ hai người ngồi nói chuyện với nhau đâu. Học cứ đi biền biệt, chuyên lo sách vở. Cửu ở nhà lo cắm cúi làm việc. Thì phụ nữ từ xưa đến giờ vẫn thế. Vò võ chờ chồng hình như là bổn phận. Về nhà chồng chỉ biết cúc cung tận tụy với giang sơn nhà chồng. Muốn tự giải phóng có dễ đâu. Tập tục xưa là vậy. Đã ai dám phá vỡ? Giờ Học chủ động nói chuyện, sẽ là thời cơ để Cửu bộc bạch suy nghĩ của mình.

 

Trời chiều, cái nắng còn sót lại chiếu hắt lên ngọn cau một vệt sáng yếu ớt. Hoa cau thả từng hạt li ti trắng lên mảnh sân nhỏ. Hương cau thoang thoảng trong gió. Hai người ngồi bên gốc cây khế nói chuyện. Bà Quỳnh ngó thấy hai đứa nói gì có vẻ thầm thì quan trọng thì lánh vào trong nhà để hai đứa tự nhiên. Nguyễn Thái Học bắt đầu câu chuyện một cách dè dặt:

– Về tuổi đời, đáng lẽ tôi phải gọi Cửu là chị. Nhưng gia đình đã sắp đặt. Nay tôi liên tục đi xa, chẳng biết lành dữ thế nào. Tôi biết, tôi không làm được gì có ích cho Cửu. Tôi rất có lỗi với Cửu. Tôi muốn rằng không để Cửu phải khổ vì tôi. Tôi cũng đã thưa chuyện với cậu Tú. Chắc Cửu hiểu nỗi lòng của tôi.

Cửu lặng đi giây lát, rồi nhẹ nhàng nói với Nguyễn Thái Học:

– Tôi cảm ơn suy nghĩ và lời nói của Học. Chúng ta lấy nhau là do cha mẹ đã gá ước từ trước. Về nhà bên này tôi được cha mẹ và các em rất quý mến. Như vậy là đã làm tròn bổn phận khi Học xa nhà.

– Tôi còn tiếp tục đi xa nữa, còn phải phụng sự cho lý tưởng, cống hiến cho Tổ quốc, tính mạng tôi đã thuộc về tổ chức. Nếu được Cửu bằng lòng, chúng ta có thể thoái hôn, để Cửu còn đi xây hạnh phúc. Tôi không có quyền giữ Cửu, không có quyền làm lỡ cuộc đời của Cửu. Không có quyền…

– Tôi cũng phần nào nghĩ như Học, nhưng chưa có dịp thuận tiện nói ra. Tôi bằng lòng theo ý Học. Chỉ có điều làm sao êm thấm cả hai họ tộc.

– Con đường phía trước còn quá nhiều sóng gió gian truân, còn nhiều bất trắc, không thể để liên luỵ tới Cửu. Mong Cửu thuận tình.

– Tôi đã nói, Học cứ yên tâm, vì sự nghiệp, tôi không thể cản đường…

– Tuổi xuân phụ nữ có thì, không thể vì tôi mà để lỡ…

– Cắt đứt nhau, tôi cũng đau lòng lắm, như thế là Học đã vì tôi, xin ghi lòng tạc dạ.

Mỗi một câu nói đều đẫm nước mắt.

Nguyễn Thái Học quì xuống bên chân Cửu, hai tay nắm lấy tay Cửu nâng lên và đặt cái hôn dài lên bàn tay đang lạnh toát. Học nói với Cửu trong niềm cảm thương sâu xa:

– Từ ngày lấy nhau tới giờ, lần đầu xin được hôn Cửu, được hôn bàn tay tảo tần mưa nắng của Cửu, hôn bàn tay đã góp phần cùng mẹ tôi đồng áng gió sương chợ búa, nuôi nấng chăm sóc cả nhà. Cái hôn này của sự ngưỡng vọng. Cái hôn này là lời nhận lỗi với Cửu. Từ nay cho Học được gọi chị Cửu với niềm quí mến, trân trọng.

Cửu ôm chặt mái đầu Học vào ngực mình trong thổn thức. Nước mắt Cửu từ từ chảy xuống gương mặt cũng đầy nước mắt của Học. Cứ thế, cứ thế hai người lặng đi trong thương cảm, để rồi họ chia tay nhau mãi mãi.

Hai người cùng ra giếng đá làng, múc đầy chậu nước mát, cùng vã nước lên lau mặt mình. Mỗi người một nỗi niềm thương cảm mung lung. Mặt trời thong thả khuất xuống bên kia rặng tre cuối bãi dâu tằm.

 

*

Bữa cơm tối, đầy đủ cả nhà, Cửu xin phép thưa lại chuyện với cha mẹ và các em:

– Thưa thầy mẹ. Con với Thái Học rất quí trọng nhau. Nhưng duyên trời không cho được gần gũi. Từ ngày chúng con lấy nhau, Học đi xa biền biệt. Nay Học dũng cao chí cả, muốn bay xa thỏa sức vẫy vùng, muốn phụng sự trí trai cho non sông đất nước, con phận liễu yếu quẩn quanh, không nỡ nào cầm chân Học. Nay cho chúng con được phép cắt mối lương duyên.

Ông Hách chống đũa, nhìn Học rồi nhìn Cửu:

– Các con đã tính toán kỹ chưa? Làm thầy mẹ, chỉ muốn vun vén cho các con. Từ ngày Cửu làm dâu thầy mẹ, chưa hề có điều tiếng gì. Cơm ngon canh ngọt. Thức khuya dậy sớm. Tần tảo làm lụng. Kính trọng thầy mẹ, nhường nhịn các em. Xứng đáng là chị dâu cả trong gia đình. Thầy mẹ thật khó xử.

Nguyễn Thị Cửu vội nói thêm:

– Đây là lời nói chân tình của con, con không trách thầy mẹ, con cũng không trách Học. Chỉ vì không muốn cản bước đường của Học mà con nói như vậy. Con mong thầy mẹ tha thứ.

Bà Quỳnh nước mắt ngắn dài:

– Từ ngày con về với thầy mẹ, chịu thương chịu khó, không việc gì phải phàn nàn. Bây giờ sự thể lại như thế này. Mẹ rối ruột quá. Không biết khuyên can ra làm sao. Mẹ chỉ biết cầu trời khấn phật dẫn đường chỉ hướng sao cho mọi sự an lành. Việc quyết định như thế nào, bây giờ là quyền các con.

– Con vẫn là con mẹ. Con mong mẹ cũng coi con như vậy.

Nguyễn Thái Học từ tốn thưa:

– Con đường đi của con còn tiếp tục xa quê. Không có điều kiện gần bên Cửu. Con biết, quyết định của chúng con sẽ làm thầy mẹ và họ hàng băn khoăn. Chúng con đã bàn bạc kỹ lưỡng. Kính mong thầy mẹ chấp thuận.

Ông Hách trầm ngâm:

– Thầy chỉ sợ thất lễ với bên gia đình cậu Tú.

– Con đã thưa với cậu Tú. Cậu đã tha thứ cho con.

Ông Hách bỏ cơm đứng dậy:

– Dù sao thì thầy mẹ vẫn phải có nhời với cậu Tú cho có trước có sau.

Nguyễn Thị Cửu nói với bà Quỳnh:

– Về lại bên nhà, con chỉ thương mẹ vất vả khuya sớm. Mấy năm trời ngược xuôi gánh gồng cùng mẹ, con không thể nào quên hình ảnh gầy mòn của mẹ lặn lội suốt chợ này đến chợ khác.

– Mẹ rất thương con. Nhưng các con đã nói nhời với nhau như thế, mẹ chẳng thể níu kéo con ở lại. Thầy mẹ chỉ một nhời với con rằng, sẽ coi con như con gái trong nhà. Dù con đi đâu thì vẫn về với thầy mẹ.

– Vâng, xin thầy mẹ cứ coi con như đứa con gái của thầy mẹ.

Các em Bình, Ưu, Nho, Lâm, Nỉ đều không muốn chị Cửu ra đi.

– Chị ơi, chúng em yêu quí chị lắm. Chị ở đây với chúng em. Kệ anh Học. Chúng em không muốn chị đi đâu cả.

Các em của Nguyễn Thái Học ôm lấy chị Cửu, khóc thút thít. Cửu giang tay ôm lấy các em, không cầm được nước mắt.

Các em sà vào lòng Cửu:

– Không cho chị Cửu đi đâu.

– Không cho…không cho đâu!

Ông Hách ra bàn rít thuốc lào, nhả khói mù mịt.

Bà Quỳnh ngồi thở dài.

Bữa cơm nghẹn lại giữa chừng.

Nguyễn Thái Học chạy ra sân, mắt ngước nhìn ngôi sao tận đâu đâu. Lòng anh bấn loạn, không hiểu nổi mình xử sự vậy đúng hay không đúng. Chỉ biết, mình đã nói đúng lương tâm, không hề lắt léo.

Không khí gia đình nặng nề hẳn. Không ai muốn nói câu nào. Sợ nói điều gì cũng chạm tới tình cảm thiêng liêng trong gia đình.

Bà Quỳnh thấy thương con giai vô hạn. Nó là người có chí lớn. Bà chưa biết con bà sẽ làm gì. Nhưng mỗi lần có bạn bè của Học về thăm nhà, ai cũng khen Học chững chạc, bạn bè tin cậy. Bà cũng luôn tin con. Tính tình cương trực, giàu lòng thương người. Bà hiểu tính con, muốn làm gì thì làm bằng được. Hồi năm ngoái, gặp bà mẹ Đội Cấn ngoài đồng, về nhà cứ xin mẹ mua cho bà ấy chiếc áo bông kẻo rét. Mẹ nào có tiếc. Bây giờ, hình như con giai bà đang làm việc gì hệ trọng lắm. Bằng linh cảm của người mẹ, bà nghĩ thế. Thương con, bà càng thương Cửu, chịu thương chịu khó, ăn nhịn để dành, lo lắng vun vén cho gia đình. Nhưng không thể giữ nó. Phải để cho nó định đoạt lấy đời nó. Đời con gái sinh nở có thì. Nó phải có cuộc sống hạnh phúc. Chính vì thế mà bà đồng ý để Cửu được tự do lựa chọn con đường lâu dài riêng của mình.

Đêm đã khuya, bà Quỳnh vẫn phe phẩy chiếc quạt lá, xua muỗi cho Cửu ngủ. Nhưng bà biết Cửu không ngủ được. Cửu vục dậy ôm lấy bà Quỳnh.

– Mẹ ngủ đi, đừng lo cho con.

– Chuyện đã vậy, mẹ mong con sớm tìm được nơi ấm êm, phù hợp với hoàn cảnh của con. Có trách Học thì cứ trách mẹ!

– Con không trách Học đâu. Con đâu dám trách mẹ. Con chỉ thương mẹ còn nhiều lo âu vất vả…

 

*

Nguyễn Thái Học ra tận cổng làng đón bạn.

Tối nay theo lời hẹn, Phó Đức Chính cùng Hồ Văn Mịch đáp tàu chợ từ Hà Nội lên Bạch Hạc, rồi từ đó đi bộ về Thổ Tang thăm nhà Nguyễn Thái Học và bàn công việc gây dựng cơ sở Việt Nam Quốc Dân đảng tại Vĩnh Tường, Yên Lạc. Họ hẹn cả Vũ Văn Giản đang dạy học ở Bạch Lưu cùng về bàn bạc.

Nhá nhem tối đã lâu mới thấy các chàng trai lục tục kéo đến.

Bà Quỳnh cầm chiếc đèn dầu hỏa soi cho Học và mọi người vào nhà. Bà ý tứ bảo hai con giai Nho và Lâm ra cổng canh chừng.

Câu đầu tiên bà nghe là tiếng của Mịch:

– Mẹ ơi, chúng con lại về phiền mẹ đây. Bụng con đang biểu tình, mẹ còn khoai, luộc cho chúng con một nồi.

– Chỉ nũng mẹ là giỏi! – Chính nói xen ngang.

Tiếng bà Quỳnh vui vẻ:

– Lấy đâu ra khoai với môn. Các anh về đây, nhà tôi chỉ có nước lã tiếp các anh thôi! Mấy tháng trời mới trông thấy mặt các anh, ai nỡ để các anh rỗng bụng?

– Chúng con biết ngay mà!

Mấy chàng trai cười tuế toá.

Mịch lấy khăn lau mồ hôi, rồi nói:

– Mẹ trách chúng con làm gì? Chỉ sợ sau này mẹ lại kêu sao chúng mày hay về thế!

– Thế thì tôi cho người canh ngoài cổng, hễ thấy các anh về là đuổi liền cho biết mặt!

Bà Quỳnh cười độ lượng rồi săng sái vào bếp nổi lửa.

Nguyễn Thái Học kéo Mịch, Chính và cả Giản, xin phép ông Hách xuống nhà ngang bàn chuyện.

Nhà ông Hách có hai ngôi. Một nhà chính hướng nam lợp rạ, một nhà hướng đông lợp lá. Nguyễn Thái Học và bạn bè ngồi trong ngôi nhà lá yên tĩnh bàn bạc chuyện trò. Bốn cái đầu chụm lại. Đèn dầu hoả vặn nhỏ. Tiếng họ chỉ còn rì rầm. Cách vài mét là không thể nghe rõ.

Học nói rành rọt:

– Chúng ta phân công nhau, mỗi người đảm nhiệm một địa bàn, nhân rộng các chi bộ. Đối tượng bắt rễ là các ông giáo học, các ông bà có danh uy, có của cải ở địa phương, được nhiều người nghe theo và cả những người nông dân sẵn sàng xả thân vì cách mạng. Bây giờ tôi phân công như thế này: Anh Giản quen biết địa bàn Vĩnh Yên thì gây cơ sở ở Vĩnh Yên, chú ý địa bàn Vĩnh Tường, Yên Lạc. Anh Mịch thì lên Phú Thọ, chú ý địa bàn Lâm Thao, Thanh Thủy. Còn anh Chính thì phụ trách Sơn Tây. Anh có thể đi đò, qua sông là đến đất Sơn Tây rồi. Tôi đề nghị mỗi người phải nắm chắc dân tình, nắm chắc địa lý, biết nhiều ngõ ngách, đường làng lối xóm, sẵn sàng tiến thoái trong mọi tình thế. Còn tôi sẽ đi Yên Bái…Sau kỳ này chúng ta sẽ đi Bắc Giang gặp ông Nguyễn Khắc Nhu. Ông ấy có giấy nhắn sẽ đưa cả tổ chức Việt Nam Dân Quốc nhập vào tổ chức của chúng ta.

– Thế thì thật đắc sách! Lực lượng chúng ta càng mạnh lên!

Phó Đức Chính hỏi:

– Này anh Học, sang Sơn Tây đi thế nào nhỉ? Hôm qua đến đây bằng đường tàu cho nên chưa biết đường đất sang Sơn Tây ra sao.

– Nhớ từ đây qua Cầu Hương, qua Đồng Phú, đến Dẫn Tự, qua vườn trầu ra Thùng Mạch, qua đê đến bến đò Ghềnh, qua đò Sông Cái là đến Sơn Tây.

Nguyễn Thái Học vừa nói vừa vẽ sơ đồ đường đi lên tờ giấy, chỉ lối sang Sơn Tây cho Phó Đức Chính.

Bàn bạc công việc chưa xong đã thấy bà Quỳnh bưng vào nồi cháo gà. Bà nói còn con gà mái đang ấp. Thấy các con vất vả đêm hôm thì bà mổ nấu cháo bổ dưỡng. Mặt đứa nào trông cũng hốc hác. Vì việc chính đáng bà không tiếc. Mấy chàng trai cùng ồ lên:

– Trời ơi! Mẹ!

Lời cảm ơn lúc này thật sáo rỗng và vô nghĩa. Ôi Mẹ. Trời! Trong tối chắc bà Quỳnh không nhìn thấy mấy chàng trai lau nước mắt.

Nửa đêm, mọi người rủ nhau vào ổ rơm nằm, nhưng khó lòng chợp mắt. Có đến mấy lần Học trở dậy rít thuốc lào sòng sọc.

Gần sáng, Nguyễn Thái Học trở dậy khẽ gọi mẹ:

– Mẹ ơi, chúng con phải đi đây !

– Sao vội thế con? Ở nhà thêm vài hôm được không?

– Công việc của chúng con rất gấp. Cho con chào tất cả mọi người. Con phải đi kịp sáng mai làm việc.

– Cầm lấy mấy đồng tiêu vặt con này.

– Con cảm ơn mẹ.

Bà Quỳnh quay sang Giản hỏi:

– Thế cháu Giản chưa kịp qua nhà à?

– Vâng, con dậy học trong tỉnh về nhà thường xuyên, lần này con vội phải đi ngay, chắc là lần sau con sẽ về qua nhà.

– Chúng con đi mẹ nhé!

Nguyễn Thái Học và ba chàng trai trẻ lẫn nhanh vào bóng tối trập trùng .

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương V

                                                 MỘT SỰ LỰA CHỌN

 

                                                                       Những ngọn lửa không mùa

                                                                       Cháy không cần chờ đợi

                                                                       Những ngọn cờ ủ gió

                                                                       Bay cả lúc sa mưa

 

Nguyễn Thái Học cùng Phó Đức Chính được Việt Nam Quốc Dân đảng phân công đi Bắc Giang gặp Việt Nam Dân Quốc do Nguyễn Khắc Nhu đứng đầu để thương thảo về việc sáp nhập hai tổ chức. Hoạt động bí mật, không thể đi đông người. Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính cùng gánh sứ mạng chung, được mọi người rất tin tưởng, công việc hẳn sẽ trôi chảy. Chỉ có điều lãnh đạo Việt Nam Dân Quốc tuổi đã bốn sáu, liệu có thoải mái khi tiếp hai chàng trai trẻ mới ngoài hai mươi.

Phó Đức Chính rất yên tâm bởi được cùng đi với Nguyễn Thái Học. Mọi tình huống chắc chắn có anh ứng phó. Hai người chuẩn bị hành trang nhẹ nhàng như người đi hội làng. Không quên mang theo thẻ căn cước mạo tên tuổi, đã được đổi theo bí danh. Đi tàu sớm từ Hà Nội lên Bắc Giang rồi tìm về làng Song Khê. Tuy chưa đến đây lần nào, nhưng hai chàng trai trẻ đã phán đoán hướng đi khá chính xác. Câu chuyện dọc đường quanh quẩn vẫn quay trở về công việc. Phó Đức Chính chưa quên những ngày từ Xavanakhet tận bên Lào trở về kịp họp hội nghị thành lập đảng. Cũng mới chỉ có mấy tháng trời mà đã thấy lực lượng phát triển khá nhanh.

Được tin ông Nguyễn Khắc Nhu muốn gặp gỡ đại diện Việt Nam Quốc Dân đảng bàn bạc về việc phối hợp hành động và phương hướng hoạt động, Phó Đức Chính và Nguyễn Thái Học rất mừng. Như vậy là cuộc đấu tranh này luôn có đồng minh, không hề đơn độc.

Hai người đề cập tới các tình huống xảy ra trong cuộc gặp mặt này. Nếu thuận thì chúng ta phải tranh thủ thống nhất ngay các mặt tổ chức, kịp thời hoạt động, còn không thuận thì chúng ta phải kiên trì thuyết phục ông Nguyễn Khắc Nhu cùng phối hợp lâu dài. Nhưng cố gắng thống nhất lực lượng là nội dung cốt tử của cuộc thương thảo này. Chỉ có điều, hai anh em đều còn trẻ, phải từ tốn sao cho đúng với tư thế của bậc hậu sinh, phải tạo cho ông Nhu niềm tin.

Phó Đức Chính bảo rằng, mọi việc bàn bạc đều cần anh Học chủ động, quyết sách như thế nào cũng ở anh, Chính chỉ nói khi nào mọi chuyện đã được hai vị đứng đầu hai tổ chức thuận ý.

 

Mải chuyện, hai người đã tới đầu làng, thấy bốn cô gái đang cấy lúa ven đường, liền dừng lại hỏi thăm:

– Phiền các cô, chỉ đường vào đình Song Khê giúp.

– Gớm, hai anh đi đâu mà vội vàng thế? Xuống đây cấy thử với chúng em mấy đon mạ đã.

– Thư sinh thế kia, cấy cho chua mạ người ta ra à?

– Để cho chúng em cầm ô cho nào!

– Các anh Hai ơi, có nghe hát quan họ thì dừng lại chúng em hát cho mà nghe. Chứ nhớ thương a lính tình tang là em luống chịu ơ người ơi

– Thôi, cấy đi, đừng trêu người ta, để người ta còn đi.

Một cô bước hẳn lên bờ, giọng rất chi là thanh và tươi tắn:

– Người ta buôn có bạn bán có phường

Còn hai anh ngơ ngẩn trên đường làm chi?

Biết là gặp những cô gái tài đối đáp không phải vừa. Nguyễn Thái Học liền vận dụng cái vốn đối đáp ít ỏi của mình học được ở quê:

– Không biết buôn cũng chẳng biết bán gì.

           Đành bán cái ngơ ngẩn mấy cô có mua thì anh bán cho đây!

           – Tội gì mua ngẩn với ngơ

           Có cho thì lấy…về thờ gác bếp… để chơi

Đối đáp thật đáo để. Mấy cô gái cười giòn tan. Cô gái đã lên bờ rửa chân tay, rồi bảo rằng cô sẽ dẫn Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính đến tận nơi.

Mấy cô gái nói với theo:

– Chị Giang hôm nay vớ bở nhé, vớ được một lúc cả hai chàng!

– Chia bớt cho em một chàng nào!

– Tham thế chị Giang ơi, ở lại cấy nốt mới được đi chứ! Không ai cấy hộ đâu đấy nhé!

– Được rồi, lát nữa chị sẽ quay lại cấy tiếp, đừng có mà ghen tỵ!

Dọc đường, Giang nói với hai anh:

– Em cũng không biết cấy đâu. Bác Nguyễn Khắc Nhu phân công em giả đi cấy để đón hai anh đó. Còn mấy cô ấy là người làng này, vừa cấy vừa canh chừng cho cuộc gặp của hai anh với bác Nhu đó.

– Chu đáo quá! Cám ơn em nhiều!

– Thế các anh không còn câu nào khách sáo hơn để nói à? Không nhận cám ơn của hai anh đâu.

Hai chàng trẻ chỉ biết ậm ừ cho xong.

Mới gặp nhau lần đầu mà Nguyễn Thái Học đã thấy ở người con gái này khả năng đối đáp thông minh thẳng thắn, trong trẻo và nhiệt thành. Chắc chắn là người con gái được học hành tử tế. Không thể nói năng tuỳ tiện với cô gái này được. Nguyễn Thái Học vui vẻ nói:

– Đất lề quê thói. Chúng tôi xa lạ đến đây. Có gì không nên không phải cứ chỉ dẫn cho.

– Lại khách sáo nữa rồi! Người quan họ chúng em có câu: Liền anh liền chị đến chơi. Quý hồ là nghĩa, là nơi thân tình. Đã thân tình sao còn khách sáo?

– Thế thì ta cùng hội cùng thuyền rồi!

– Chỉ mong cùng hội cùng thuyền. Mong cây một cội. Mong duyên một nhà.

– Hay quá, thế là từ đây một nhà đấy nhé!

Nguyễn Thái Học thầm nghĩ: Tốt phúc nên đã gặp được cô gái này.

 

*

Trong cuộc đời một người có những biến đổi khó lường trước. Nguyễn Khắc Nhu cũng không hình dung nổi tại sao mình lại lắm chìm nổi phong ba đến vậy. Đeo đuổi học hành đến đỗ đầu Xứ, kỳ thi khảo hạch Bắc Ninh Bắc Giang, tưởng rằng con đường học hành hanh thông, ai ngờ mấy lần thi hương đều không đậu. Nguyễn Khắc Nhu không nản, đến năm 1908, xin vào học trường đào tạo tổng sư, khi ra trường được bổ về làng Thịnh Liệt thuộc Lạng Giang làm nghề dạy học. Cách Phồn Xương mươi cây số, những câu chuyện về Hoàng Hoa Thám và các nghĩa sĩ oanh liệt chống Pháp đã khắc vào tâm khảm người trí thức nông thôn Nguyễn Khắc Nhu. Dạy học chỉ là cái cớ để chờ thời cơ thực hiện trí lớn. Điều ấy đã có lần Nguyễn Khắc Nhu thổ lộ trong vần thơ cảm khái:

           Túi kinh luân anh sắp sẵn để bên mình

           Gặp thời, chưa dễ côn kình anh để thua ai

           Còn non còn nước còn dài…

Nguyễn Khắc Nhu tự ví mình như côn kình, loài cá lớn vẫy vùng ngoài biển khơi. Ấy vậy mà đang phải tù túng trong vũng ao hồ. Cám cảnh cứ ngày ngày phải nhai nhải theo mấy bài giáo khoa trường công, không nhắc gì tới lịch sử, địa lý nước nhà. Phải tìm cách đưa những bài ca yêu nước của Đông Kinh Nghĩa Thục, những bài lịch sử và địa lý về non sông gấm vóc bao đời cho học trò hiểu về đất nước nguồn cội của mình. Những bài học thuộc lòng đã gieo vào lòng lứa học trò tình cảm sâu xa với tổ tiên giống nòi. Nguyễn Khắc Nhu đã bị viên thanh tra học chính khiển trách. Không chịu được cảnh chỉ biết vâng dạ, chỉ biết cúc cung nhắm mắt theo lối nhồi nhét nô dịch, Nguyễn Khắc Nhu từ chức dạy trường công, về dạy học cho trường dân lập Lạc Gián. Dạy chữ nho, dạy cả chữ quốc ngữ. Đây là nơi Nguyễn Khắc Nhu có điều kiện truyền bá những ý tưởng yêu nước, bởi học trò ở đây đã chớm tuổi thanh niên. Học trò thấy Nguyễn Khắc Nhu treo câu đối bên cạnh tấm bản đồ thế giới, thì hỏi thầy ý nghĩa như thế nào? Nguyến Khắc Nhu giảng giải:

           Bích quải địa dư đồ, Tổ Quốc giang sơn hà xứ tại?

           Đường tôn nho giáo dục, Nam Cương tử đệ tiếp tông dư?

Trên tấm bản đồ của quả địa cầu, đất nước mình ở đâu thì các trò phải hiểu, vì bản đồ người Pháp chỉ ghi Đông Dương thuộc Pháp (Indochine Française) thôi. Vậy nên, phải học để biết mà giành lấy đất nước, mới có thể làm cho đất nước có tên trên bản đồ, mới nối được dòng máu bất khuất của cha ông. Rồi Nguyễn Khắc Nhu ngâm nga khúc thơ đầy cảm khái: Trên vách treo bản đồ, Tổ quốc non sông là đâu nhỉ? Trong nhà tôn nho học, đất nước cháu con nối dòng chăng?

Nơi căn phòng thường ngày ngồi giảng bài cho học trò, trên tấm vách, Nguyễn Khắc Nhu cũng treo câu đối, tự nhắc nhở mình về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với non sông đất nước:

           Chủng tộc giang sơn ngô đảng sự

           Thánh hiền hào kiệt thế gian sư

Nòi giống non sông là việc của đảng. Thế gian là thầy. Muốn nên sự nghiệp phải dựa vào bậc thánh hiền hào kiệt trong thế gian. Học trò của thày Nhu, khi thấu hiểu về chữ nghĩa thì cũng thấm nhuần tư tưởng yêu nước thương dân, thày truyền cho. Có lần trò Nguyễn Văn Viên băn khoăn hỏi thày:

– Thày ơi, muốn việc lớn thì làm cách nào?

– Hãy nuôi trí con ạ!

– Con mong có ngày được đền đáp công lao của thày.

– Việc ấy thày mong con giữ trong tâm. Thày tin thế nào cũng có ngày thày trò mình làm được điều gì đó đền đáp cho đất nước.

Thày Nhu đàm đạo với trò như những người bạn. Thày nghĩ rằng mình phải có trách nhiệm với thế hệ tương lai đứng ra phụng sự đất nước. Thày biết gia cảnh của từng học trò. Nguyễn Văn Viên là học trò nghèo. Rất nghèo, nhưng tấm lòng với những người cùng cảnh, tấm lòng với dân làng thì không nghèo. Thày trải điều tâm sự cùng học trò:

– Viên này, sắp tới thày sẽ về quê, không còn được dạy học đối với các con nữa. Đấy cũng là do hoàn cảnh bó buộc. Thày phải về quê còn lo việc cho gia đình. Biết là xa các con cũng thấy tiếc nhớ. Chỉ mong con và các bạn con không quên những lời thày gửi gắm. Các con đều sắp đến tuổi trưởng thành.

– Thày tin ở chúng con. Tuy chẳng còn được học thày, nhưng mọi lời thày giảng luôn ở trong tâm chúng con.

– Chưa thể định liệu được hết những việc làm sắp tới. Việc thày về quê cũng chỉ là việc trước mắt. Còn lâu dài vẫn chưa thể ngồi yên được.

– Con cũng đang lo, việc cha mẹ con có thể phải đi phu vào đồn điền đất đỏ trong Nam Kỳ. Các chức dịch của làng đã đánh tiếng như vậy. Cha mẹ con đi, con cũng phải đi…

Hai thày trò chia tay nhau mà chưa biết bao giờ có thể được gặp lại.

 

*

Thời thế xoay vần, thôi nghề dạy học, Nguyễn Khắc Nhu về quê làm nghề bốc thuốc, kết hợp đông tây y chữa bệnh cho bà con dân làng. Bước chân về làng, lòng nao nao một niềm thương xót. Làng Song Khê của ông từ xa xưa nổi tiếng làng khoa bảng, làng của văn chương lễ nhạc. Trên cổng làng vẫn nguyên dòng chữ “Văn vật danh hương”, nhắc nhở mọi người làm sao xứng với các bậc tiền nhân. Vùng quê nghèo nhưng thơm thảo, bao lớp người chăm chỉ học hành đỗ đạt. Một làng nhỏ mà có cả người đỗ thám hoa, tiến sĩ, trạng nguyên. Họ Quách, họ Đào, họ Ninh ngày xưa đều có người đỗ đạt cao. Họ Đào có tới ba người đỗ tiến sĩ và trạng nguyên, được trọng dụng, làm nên sự nghiệp lớn phụng sự đất nước. Đức học cao dày. Nhưng làng còn tù đọng trong cảnh đói khổ tật bệnh. Lúc này Nguyễn Khắc Nhu mới thấy việc học hành có chút vốn liếng hiểu biết thu nhận được của thiên hạ cần thiết biết chừng nào.

Thực ra, về làng giúp dân dẹp dịch tả, áp dụng những kiến thức mới về vệ sinh, ăn chín, uống sôi, dẹp bỏ thói quen tùy tiện trong đời sống, đào giếng thơi tạo nguồn nước sạch, rửa mặt bằng khăn sạch chống bệnh mắt hột cho dân làng… Tất cả những việc đó vừa giúp dân, vừa là cái cớ để Nguyễn Khắc Nhu thực hiện những điều nung nấu không nguôi, là phải lập được hội đoàn, tập hợp những ai có lòng yêu nước vào một tổ chức.

Nguyễn Khắc Nhu nhớ lại, vào cái thời ông còn cắp sách đi học cụ Cử Đương, ông đã được cụ Cử trao cho một trọng trách là làm người liên lạc dẫn đường cho nhà chí sĩ Phan Bội Châu tới Phồn Xương gặp cụ Hoàng Hoa Thám. Chính đoạn đường này đây, được cụ Phan giác ngộ, đã khiến ông lựa chọn con đường rộng lớn hơn, con đường yêu nước làm cách mạng. Đấy cũng là sứ mệnh như đã được sắp đặt mà đất nước trao cho ông, dễ gì ông bỏ cuộc.

Ông biết rằng ở trong Huế, mặc dầu cụ Sào Nam Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam lỏng, nhưng vẫn còn nhớ tới ông, một đứa trẻ làm liên lạc ngày nào. Cụ vẫn nặng lòng với non sông trong những tâm sự cô liêu. Những vần thơ buồn cô quạnh: “Trên bến Văn Lâu, ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm, ai nhớ thương ai…”. Nhận được thư tay do người thân tín của cụ Phan đưa, gợi ý về việc cần lập ra một tổ chức để tiện cho hoạt động, Nguyễn Khắc Nhu đã bí mật vận động được một số người hăng hái tham gia. Tổ chức ấy phải được hoạt động hợp pháp. Ông đã cất công ra Hải Phòng, đến Hà Nội… ở đâu cũng có tiếng nói đồng tình. Đấy là việc rất cần lập hội Quốc dân Dục tài.

Bao nhiêu câu hỏi đặt ra chưa có câu trả lời xác đáng trong đầu Nguyễn Khắc Nhu. Từ khi lập hội Quốc dân Dục tài, nhằm đào tạo nhân tài, góp tài lực mở trường học, giúp dân nghèo, đã thu hút được rất nhiều người tham góp. Những thương gia, những điền chủ có lòng nhân ái đã đóng hàng trăm cổ phần, mỗi cổ phần tương đương hàng tạ gạo cho quĩ hội. Ấy vậy mà khi làm đơn gửi tới Thống sứ Bắc Kỳ thì họ không chấp nhận. Vậy thì những kẻ cai trị có thực sự chăm lo tới đời sống dân sinh không? Tất nhiên là không! Họ đang mải tìm mọi cách vơ vét của cải và bần cùng hóa đời sống của dân chúng. Vẫn là cách ngu dân dễ trị, chúng đã áp đặt từ khi đặt chân lên xứ sở này. Như thế là con đường đấu tranh bằng những cải cách xã hội sẽ không bao giờ đến đích như mong muốn. Phải đứng lên dùng vũ trang mà lật đổ cường quyền, điều ấy đã thôi thúc Nguyễn Khắc Nhu hành động. Phải tập hợp lực lượng. Phải lập chiến khu như Hoàng Hoa Thám đã từng làm.

Kể từ khi chủ trương kêu gọi mọi người đứng vào hàng ngũ Việt Nam Dân Quốc, chỉ trong vòng một năm đã có hàng trăm người hưởng ứng. Nguyễn Khắc Nhu càng phấn chấn khi thấy những người tham gia tổ chức đều nhất tề đồng tâm phải nổi dậy chống chế độ thực dân hà khắc, bóp nghẹt đời sống, không cho dân mình ngóc đầu dậy.

Đáng kể nhất là được mọi người tin tưởng. Buổi họp mặt đầu tiên mọi người đã tôn vinh Nguyễn Khắc Nhu là người đứng đầu Việt Nam Dân Quốc.

Nguyễn Khắc Nhu tự kiểm điểm xem đã làm được những việc gì? Tổ chức đã kết nạp được một đội quân đông đảo, cả thanh nam và thanh nữ đều hăng hái nhập hội. Đã có cơ sở rèn dao kiếm, cơ sở chế tạo bom mìn, sẵn sàng nổi dậy khi có thời cơ.

Nhưng Nguyễn Khắc Nhu cũng nhận thấy lực lượng còn quá mỏng. Lại bị bọn thực dân Pháp phát hiện một vài cơ sở chế tạo bom mìn. Chúng đã bắt bớ tra khảo nhiều người. Không ai khai, nhưng như thế là đã bị lộ. Nếu nổi dậy chắc chắn sẽ bị bọn thực dân Pháp đàn áp. Những lúc thật bình tâm, Nguyễn Khắc Nhu thấy cần phải củng cố cơ sở mạnh hơn nữa, cần phải thận trọng hơn nữa trong mọi quyết định. Cũng kịp thời hoãn lại một cuộc khởi phát manh động, khi chưa đủ điều kiện để nổi dậy ở Nhã Nam, Đáp Cầu, Phả Lại. Đấy là lần một số người trong Việt Nam Dân Quốc đã cùng với ông chủ trương mời Nam Đồng thư xã ở Hà Nội cùng phối hợp. Nhưng Nam Đồng thư xã đang bị thưc dân Pháp cho tịch thu sách và bắt đóng cửa. Hơn nữa Nam Đồng thư xã hầu hết là những người cầm bút thư sinh, chủ trương hòa bình đấu tranh là chính, chỉ có Nguyễn Thái Học ủng hộ nhiệt tình đối với chủ trương của Việt Nam Dân Quốc. Cho nên nghe tin ở Hà Nội tổ chức Việt Nam Quốc Dân đảng ra đời, do Nguyễn Thái Học đứng đầu làm cho Nguyễn Khắc Nhu mừng lắm. Mừng vì con đường đấu tranh đã có người đồng minh. Mừng vì nhà cách mạng trẻ này rất nhiệt huyết.

 

*

Kể từ lúc nhận tin Nguyễn Thái Học cùng Phó Đức Chính sẽ lên Bắc Giang gặp gỡ với Nguyễn Khắc Nhu, làm cho ông bồn chồn không yên. Bồn chồn vì sự an toàn của khách, liệu đi đường có gì bất trắc xảy ra. Bồn chồn còn vì lần đầu tiếp kiến với lớp người trẻ tuổi, liệu có đem lại kết quả, hay sôi hỏng bỏng không? Nguyễn Khắc Nhu cho bố trí địa điểm gặp nhau ở sau đình làng Song Khê. Một vị trí rất thích hợp với việc tiến thoái. Chỉ cần lẫn vào trong đình thì chả khác gì mọi người dự lễ.

Hai chàng trẻ áo the khăn xếp như mọi du nhân đến thăm đình. Liên lạc viên của Nguyễn Khắc Nhu nhận rõ mặt Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính mới đưa vào gặp Nguyễn Khắc Nhu.

Bỏ qua mọi nghi thức xã giao, Nguyễn Khắc Nhu niềm nở:

– Hai chú đi đường có gì trở ngại không?

– Cảm ơn… chúng cháu không gặp trở ngại gì. Chỉ có điều khi vào đây, cô

gái dẫn đường rất đáo để, vặn vẹo kinh quá, có câu không trả lời nổi.

– Có câu gì không trả lời nổi?

– Cô ấy hỏi, tại sao tổ chức Việt Nam Quốc Dân đảng nơi các anh lại phân

biệt, không kết nạp phụ nữ? Thế có phải là mắc tội coi thường phụ nữ không?

– Vậy các chú nói thế nào?

– Anh Học trả lời, không dám coi thường phụ nữ, nhưng do chưa có được

thời cơ kết nạp phụ nữ.

– Thế là cô ấy nói luôn, thế thì bây giờ có thời cơ đấy, liệu các anh có dám kết nạp phụ nữ không?

– Vâng, chúng em phải nhượng bộ cô ấy hoàn toàn.

Nguyễn Khắc Nhu cười ha hả:

– Đấy, mới đến đất này mà các chú đã bị phụ nữ bắt nạt rồi. Ghê không? Các chú có biết tên người phụ nữ ấy là gì không?

– Là Giang!

– Đúng rồi! Nguyễn Thị Giang, em gái Nguyễn Thị Bắc, dân Thọ Xương, Phủ Lạng Thương đó. Còn cô em nữa là Nguyễn Thị Tình. Cả mấy chị em đều là bậc nữ lưu nổi tiếng cả vùng đất này về học giỏi, thông minh, thạo võ nghệ.

– Thảo nào, dân của đất Yên Thế, danh bất hư truyền.

– Bây giờ các chú có yêu cầu gì cứ nói, Nhu này xin nghe trước đã, rồi đến phần quan điểm của Nhu sẽ nói sau. Nhưng để tiện xưng hô, các chú cứ gọi ta là anh xưng em cho tiện.

– Vâng, về tuổi tác, bác là bậc cha chú, nhưng bác đã cho phép, chúng em xin được gọi bác và xưng em cho tiện câu chuyện.

– Được rồi, được rồi, cứ như thế nhé! Trong câu chuyện hôm nay, có thêm mấy người tâm huyết trong Việt Nam Dân Quốc cùng dự, cùng nghe, cùng thảo luận. Có gì cùng quyết định. Nguyễn Khắc Nhu cần mọi người thông suốt ý kiến, thông suốt hành động.

Cuộc bàn bạc của những người đại diện Việt Nam Quốc Dân đảng và những người đại diện của Việt Nam Dân Quốc đến chiều thì xong. Ngoài ý kiến của Nguyễn Khắc Nhu, những ý kiến của các đại biểu khác đưa ra cũng thật là tâm đầu ý hợp. Cùng mục đích chống thực dân Pháp và đám quan lại ươn hèn, tham lam. Cùng chủ trương làm cách mạng giải phóng đất nước, giải phóng con người, mang lại Độc lập, Dân chủ và Tự do, với tình thương đồng loại, tình thương dân tộc được đề cao tối thượng. Tôn chỉ mục đích của Việt Nam Quốc Dân đảng rất phù hợp với ý chí và nguyện vọng của mọi người.

Việc hợp nhất hai tổ chức, lấy tên chung là Việt Nam Quốc Dân đảng nhanh chóng được mọi người tán thành. Nguyễn Khắc Nhu rất vui vì ý tưởng của Nguyễn Thái Học rất trúng ý tưởng của ông. Giao phó xứ mệnh của cả một tổ chức cho chàng trai này là đáng tin cậy.

Từ nay, lực lượng cách mạng được mở rộng, có cơ sở tới tận xóm làng, nơi đó có thêm những điền chủ, những nông dân, hăng hái tham gia cách mạng. Mặt khác, những người dân yêu nước vùng Bắc Giang không còn phải chiến đấu đơn độc, tầm mắt và vị trí hoạt động không còn bó hẹp trong một tỉnh, một vùng, mà tầm hoạt động đã lan rộng ra khắp đất bắc, khắp cả nước.

Mọi người thống nhất chủ trương phải hướng cuộc cách mạng đi theo con đường đấu tranh vũ trang giành chính quyền, lập nên chính thể cộng hòa tiến bộ. Chống thực dân và chống chế độ phong kiến suy tàn. Có như vậy dân ta mới có Độc lập Tự do.

Để tiến hành công cuộc cách mạng chung, Nguyễn Thái Học phải là người đứng đầu tổ chức đảng. Vì anh còn trẻ, hăng hái, thông thái, dám gánh vác trách nhiệm và đặc biệt là có tư chất của người thủ lĩnh. Nguyễn Khắc Nhu đảm nhận vai trò Trưởng Ban lập pháp của đảng.

Nguyễn Thái Học trình bày cụ thể về kế hoạch hoạt động sắp tới của Việt Nam Quốc Dân đảng là sẽ tích cực hoạt động gây thanh thế, nhưng cần hết sức giữ bí mật. Sẽ tích cực vận động mọi thành phần xã hội tham gia tổ chức, miễn là có lòng yêu nước và dám xả thân vì dân, vì cách mạng. Lực lượng ấy có thể phát triển cả vào hàng ngũ binh lính người Việt Nam đang trong hàng ngũ quân đội Pháp. Họ bắt buộc phải đi lính, nhưng tình cảm vẫn hướng về nhân dân, vẫn là dòng máu dân Việt. Họ được Pháp trang bị vũ khí, có thể lấy chính vũ khí ấy mà nhằm vào bọn thực dân, bọn bán nước cầu vinh. Cũng phải chú ý sản xuất súng ống bom mìn đạn dược, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy khi cần thiết. Phải giữ gìn an toàn. Và đặc biệt phải tuân thủ kỷ luật đảng. Ai phản bội sẽ bị xử tử..

Nguyễn Khắc Nhu nhấn mạnh thêm:

– Đã trong tổ chức cần giữ vững kỷ cương. Tôi là người luôn kề vai sát cánh bên các bạn trẻ, cùng chiến đấu. Sẵn sàng đảm nhiệm tốt vai trò cố vấn cho tổ chức, cố vấn quân sư cho Nguyễn Thái Học.

– Tôi rất cảm động trước những lời tâm huyết bác Nhu vừa nói.

Phó Đức Chính ngồi nghe mọi người đàm đạo, không hề bỏ sót chi tiết nào. Anh rất vui khi thấy mọi người bình đẳng, thẳng thắn, không phân biệt anh là người trẻ nhất. Thỉnh thoảng Nguyễn Khắc Nhu lại nhắc:  Ý kiến chú Chính thế nào? Để mọi người nói xong, Phó Đức Chính mới phát biểu:

– Vâng, những điều quan trọng nhất, bác Nhu và anh Học đã đề cập. Tôi chỉ góp thêm ý kiến về lĩnh vực tôi được đảm nhiệm. Đó là vấn đề tổ chức. Điều này liên quan đến từng con người. Chúng ta đang cần mở rộng lực lượng. Chúng ta sẽ kết nạp tất cả những ai có nhiệt huyết, một lòng một dạ với cách mạng. Phải mở được các lớp huấn luyện bí mật về bắn súng, về võ thuật. Phát triển cơ sở càng nhanh càng tốt. Mặt khác, phải thật nghiêm khắc với những người làm trái với tôn chỉ mục đích của đảng. Phải phổ biến những quy ước, những quy định của đảng đến mọi đảng viên. Ai cũng phải được thấm nhuần lời thề. Ai phản bội phải trừng trị đích đáng, để làm gương. Bây giờ thống nhất hai tổ chức làm một, ảnh hưởng và uy tín của đảng sẽ rất lớn, nhưng cũng không tránh được những phức tạp. Đã là một thì không chia rẽ bè phái. Phải đặt nhiệm vụ của đảng là tối thượng. Phải bí mật hành động. Phải có phương án và phương sách đối phó với những tình huống bất trắc xảy ra. Phải nắm vững động thái của thực dân và tay sai, để kịp thời ứng phó. Chúng ta sẽ một lòng một dạ bên nhau chiến đấu.

– Thật là thấu lý!

Phó Đức Chính nói với giọng điệu sôi nổi của tuổi hai mươi. Rõ ràng anh đã thổ lộ được những điều tâm huyết tận sâu thẳm lòng mình.

Nội dung thế là đầy đủ. Không ai phát biểu gì thêm. Không khí vừa chân tình, vừa trang trọng.

Thủ tục hợp nhất hai tổ chức diễn ra nhanh chóng. Bàn thờ Tổ Quốc được bày ra. Trên cao là lá cờ nửa đỏ nửa vàng. Một đỉnh đồng khói hương nghi ngút như báo hiệu với tổ tông giờ khắc thiêng liêng. Tất cả những người có mặt đứng trang nghiêm tuyên thệ: Vì Dân tộc, vì Tổ quốc, một lòng một dạ trung thành, không bao giờ phản bội. Xin thề! Xin thề!

 

*

Nguyễn Khắc Nhu mời hai chàng trai về nghỉ ở nhà mình. Căn nhà cũ kỹ bằng tre, mái lợp lá đã bạc thếch vì mưa nắng. Gian bốc thuốc đơn sơ, sực nức mùi thuốc bắc thuốc nam. Đáng kể là gian giữa thờ tổ tiên, nổi bật câu đối: “Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ. Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên”, nét chữ khỏe chắc đầy khí lực. Câu đối nhắc nhở, năm bốn mùa mở đầu bằng mùa xuân, người trăm tính trước hết là hiếu thảo.

Nhìn ra ngoài vườn có cây mít to choán một góc sân. Bên ngoài là giếng nước, bốn mùa trong mát. Đặc biệt là cây quỳnh cành dao được chủ nhà đặt dưới bóng cây mít, gợi một câu chuyện cổ liêu trai. Nguyễn Khắc Nhu bảo rằng, nhà tuy thanh bần, nhưng phải tạo được nếp sống tao nhã.

Một chiếc chõng tre được đặt trong khoảng sân lát gạch vuông, trước bồn hoa mộc mạc. Một bàn trà, với bộ ấm chén đất nung thẫm màu men Hải Dương cổ được bày lên chõng. Đêm nay là đêm của ba người hiệp sĩ lãng tử vừa ngắm trăng, ngắm hoa và thưởng trà. Ba cây nến, đặt trên chiếc khay cũng bằng đất nung, hất ánh sáng lên từng đóa hoa quỳnh đang sắp nở. Gió nhè nhẹ vừa đủ cho những ngọn nến lung linh lay động. Vầng ánh trăng xối xuống hiên nhà, gieo ánh bàng bạc dịu mát khắp vườn, làm cho cảnh vật thêm huyền ảo. Ba người, một già hai trẻ, sau một ngày làm việc hết sức nhiệt thành, giờ cùng nhau ngắm hoa quỳnh nở. Nguyễn Khắc Nhu nhắc tới câu chuyện từ thời trí tưởng tượng của con người còn nguyên sơ, nhưng đầy thơ mộng. Thuở ấy trên thượng giới đặc biệt cấm kỵ trai gái yêu đương. Thế mà đôi tiên đồng ngọc nữ lai lén lút yêu nhau. Bị quở phạt, hai trẻ đã trốn về hạ giới. Ngọc Hoàng giận dữ lắm, liền sai sứ thần truy đuổi đến cùng, xuống hạ giới tìm bắt hai trẻ xử tội, biến thành hai thứ cây hoang dại. Đó là cây quỳnh cây dao. Trần gian thương cảm mối tình dang dở, đã lấy hai cây trồng cạnh nhau, như thể tình yêu không thể chia lìa.

Nhâm nhi xong chén trà, Nguyễn Khắc Nhu nói:

– Trí tưởng tượng của các cụ xưa cũng lãng mạn đáo để. Một đằng, cây chỉ có lá, lá là thân. Một đằng, cây chỉ có thân, thân là lá. Trồng chung một gốc thành cây quỳnh cành dao. Thật hay!

Phó Đức Chính thú vị reo lên:

– Thế thì, bác Nhu và anh Học phải có thơ đi. Cảnh tượng này thật là hữu tình. Trời khéo chiều lòng ba người chúng ta.

Như mọi ngày thì Nguyễn Thái Học đã tìm cách trốn vào đâu đó làm một giấc ngủ. Nhưng cảnh tượng đêm nay thật kỳ thú cộng với sự ý hợp tâm đầu của những người bạn vong niên cùng chí hướng, nên Học tán thành ngay.

Nguyễn Thái Học đề xuất:

– Đúng! Vậy đề nghị bác Nhu khởi xướng, để đánh dấu sự hội ngộ trong một đêm như mộng.

Trầm ngâm một lúc như để ngấm hết những cảm xúc đồng điệu, cùng với người, cùng với trăng, cùng với muôn vật. Nguyễn Khắc Nhu phấn chấn:

– Sẵn sàng!

Nguyễn Khắc Nhu vừa ứng tác vừa ngâm:

Cảnh vật đêm nay thật hữu tình

Nặng lòng ưu ái khó làm thinh

Người ngắm đài hoa cùng giăng sáng

Nở giữa thanh tao mấy đóa quỳnh

Ai thấu lòng nhau thì xích lại

Tâm sự nào ai kể với mình

Cành dao có bạn không lẻ bạn

Một mối lương duyên thỏa bình sinh

Mọi người lặng đi trong một không gian yên tĩnh thánh thiện. Có thể nghe rõ những tiếng côn trùng ri rỉ trong vườn cây, rì rào trên mặt đất. Nguyễn Thái Học có mấy lời thưa trước rằng, anh thích thơ, rất thích thơ. Thơ làm cho tâm hồn thư thái. Những lúc vui buồn, thơ là niềm tâm sự. Nhưng anh không phải là nhà thơ. Anh thích thơ như mọi người dân Việt yêu thích thơ. Trước không gian đầy vẻ thánh thiện, đêm nay, không thể không có mấy vần nôm na, rồi anh chậm rãi đọc:

Cây quỳnh chung gốc cành dao

Có vầng trăng sáng trên cao tỏ tường

Bông hoa lẳng lặng tỏa hương

Tri âm càng thấy vấn vương trong lòng…

Cảnh vật như lắng lại, cứ để cho những câu thơ dư vang.

Vừa lúc ấy, mấy đóa hoa quỳnh rung động nhẹ, rồi cứ từ từ mở cánh, như có một chú bé tí hon nấp trong đài hoa đẩy cho từng cánh hoa nõn nà vươn ra ánh sáng. Trăng vừa chênh chếch ngọn cau. Những ngọn nến hao dần. Cuộc đàm đạo quên cả khuya. Mãi đến lúc nghe gà gáy rộn mọi người mới bảo nhau đi nằm. Chuông đồng hồ điểm mười hai tiếng.

Dư vị của một ngày với bao điều xuôi xẻ ngọt ngào mãi, khiến hai chàng lữ khách thao thức.

Phó Đức Chính nằm bên Nguyễn Thái Học mông lung nghĩ đến những ngày sắp tới. Chỉ mới dăm ba câu chuyện. Bỗng Chính quay sang Nguyễn Thái Học định nói thêm vài điều, đã thấy anh ngáy vang, giấc ngủ thần tiên đã kéo đến. Chính không nói thêm gì và chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết.

Nguyễn Khắc Nhu trở dậy, thắp nắm hương xua muỗi, rồi kéo tấm chiếu hoa đắp cho hai chàng trai trẻ đang thi nhau ngáy.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 Chương VI

MỘT CHẶNG ĐƯỜNG MẤY CHẶNG ĐỜI

 

                                                                       Con đường gắn với dòng sông

                                                                       Phù sa gắn với cánh đồng phì nhiêu

                                                                       Đường đời nắng lắm mưa nhiều

                                                                       Đi sao cho hết thương yêu đắp bồi

 

Trước khi chợp mắt, Phó Đức Chính kể với Nguyễn Thái Học, không hiểu làm sao thấy nóng ruột quá, ở nhà cha mẹ “đánh giây thép” nói cần về ngay để lo việc gia đình. Chẳng hiểu việc gì? Chưa bao giờ cha mẹ lại báo tin như vậy. Vả lại, cũng nhớ nhà, lâu không được nhìn thấy cha mẹ. Nguyễn Thái Học bảo, rất nên thế, cũng phải về qua nhà để các cụ khỏi mong, lỡ có việc gì cần, lâu không thấy con cái cũng sẽ không an tâm. Yên lặng một lúc, rồi hai chàng trẻ thi nhau ngáy, không ai chịu kém cạnh ai !

Riêng Nguyễn Khắc Nhu thấy vững dạ và thật sự thư thái. Ông thấy hai chàng trẻ đúng là trang nam nhi, học hành hiểu biết, thật đáng tin cậy. Ông nghiệm ra rằng, tuổi trẻ thời nào cũng có những người giàu chí khí. Thời nào tuổi trẻ cũng có những người ưu tú. Ông quan sát hành vi Nguyễn Thái Học, thấy rõ tư chất thông minh, lễ độ và chân thật. Anh ta không tỏ ra hợm hĩnh tranh khôn. Cái gì không biết thì hỏi đến nơi đến chốn. Tuổi trẻ đã sớm chững chạc. Mới hai lăm hăm sáu tuổi đời mà đã dám đảm nhiệm việc trọng đại. Lại là người có tâm hồn lãng mạn. Tư chất ấy chính là tư chất của người cách mạng. Còn Phó Đức Chính chín chắn đúng mực, từ tốn và cầu thị. Hai mươi tuổi đời mà đã lo tới sự nghiệp lớn đất nước. Nếu là kẻ bảo mạng, với bằng kỹ sư công chính, không cần phải lo gì đời sống vật chất. Cứ việc cúc cung tận tụy với chế độ bảo hộ thì đã đầy đủ. Không có điều gì phải lo lắng cho miếng cơm manh áo. Vậy mà sẵn sàng sả thân, không ngại ngần hy sinh, dám xông pha làm những việc nguy hiểm đến tính mạng. Thật đáng là tấm gương sáng láng cho lớp người trẻ tuổi noi theo.

Nguyễn Khắc Nhu trở dậy thắp nén hương lên bàn thờ tổ tiên, lầm rầm khấn: “Vì non vì nước, xin liệt tổ liệt tông phù hộ độ trì, cho con được kết tình thân với hai chàng trẻ này, cùng lo phụng sự cho đất nước”.

 

Cũng phải chín giờ sáng hôm sau mọi người mới chia tay nhau. Nguyễn Thái Học ở lại Bắc Giang làm tiếp nhiệm vụ tới các cơ sở, nắm thực trạng tình hình cùng với Nguyễn Khắc Nhu. Phó Đức Chính chào mọi người rồi về quê, còn dặn với Nguyễn Thái Học, xong việc trên Bắc Giang, rẽ về nhà Chính, rồi hẵng về Hà Nội.

 

*

Dán bộ ria mép giả, đeo chiếc kính dâm, mặc chiếc áo khuy ngang nút vải với chiếc quần rộng ống màu nâu đen, Nguyễn Thái Học đã thành một người khác, không còn vẻ gì của ông thày đồ áo the khăn xếp hôm trước. Anh hoàn toàn giống một người Tàu làm nghề buôn bán thuốc rong. Anh cùng Nguyễn Khắc Nhu tới vùng Phồn Xương, nơi chiến khu xưa của cụ Đề Thám.

Trong vai đi mua thuốc bắc hành nghề, Nguyễn Khắc Nhu và Nguyễn Thái Hoc toòng teng đôi bồ lên đường. Trông Nguyễn Thái Học quẩy đôi bồ theo Nguyễn Khắc Nhu chẳng khác gì đồ đệ theo hầu thầy. Hai người cuốc bộ tắt theo các lối mòn qua những khu đồi bát úp để đến khu Chợ Gò, Phồn Xương, căn cứ của “Hùm thiêng Yên Thế”. Nơi Hoàng Hoa Thám cùng với nghĩa quân đã trụ lại suốt 30 năm chống thực dân Pháp. Dấu tích “quân doanh”, thành đất trong ngoài và các hệ thống hầm hào phòng thủ của nghĩa quân hiện lên trước mắt Nguyễn Thái Học chẳng khác gì trận đồ bát quái. Nguyễn Khắc Nhu nói rằng, đây có thể lên khu Rừng Già, nổi tiếng ma thiêng nước độc, thế đất hiểm yếu, tiện lợi cho nghĩa quân vừa công vừa thủ. Quân Pháp khó tới được đất này. Không những thế, chúng đã hai lần bị phục binh thiệt hại nặng nề trong trận đánh ở Hố Chuối tháng 12 năm 1890 và ở Đồng Hom tháng 2 năm1892.

Nguyễn Thái Học ướm chân mình lên bậc Đền Thề, hình dung những bước chân của Đề Thám đã từng đặt lên đây, bóng dáng oai phong đã từng in lên mỗi bức tường, giọng quân lệnh quả quyết đã từng vang lên ở đây, mà thấy lòng rưng rưng một niềm xúc động. Cảnh vật còn tất cả mà người xưa liệt oanh đã ở kiếp thiên cổ. Đấy là cảm giác thiêng liêng thường đến với Nguyễn Thái Học mỗi khi anh bước tới những vùng đất có dấu ấn của lịch sử chống ngoại xâm của các bậc tiên liệt. Anh như thấy hồn thiêng của những người vì dân vì nước bay lởn vởn trên đầu, như nhắc anh phải làm điều gì cho xứng đáng. Hồn thiêng của Yên Thế còn vương vất trên từng gốc cây ngọn cỏ. Quên điều đó sẽ là kẻ vô ơn bạc phúc.

Hai người vòng ra phía trước khu đồn lũy, nơi xưa mỗi khi phòng vệ ngăn địch tấn công, những mũi tên nghĩa quân có thể bắn ra như mưa. Rồi những ụ đặt pháo, nơi hầm chông cạm bẫy, rồi những nơi rèn dao kiếm, dáo mác… đang như sống động trước lời kể của Nguyễn Khắc Nhu.

Nguyễn Thái Học đi sau, lặng lẽ ngắm dáng của người từng là nghĩa sĩ cuối cùng của Yên Thế. Anh thầm nghĩ, nếu Nguyễn Khắc Nhu là người an phận, chỉ cần với công việc dạy học và chữa bệnh cho dân đã đủ nhàn nhã, đáng kính trọng lắm rồi. Nhưng ông không chịu yên trước cảnh nước mất nhà tan. Ngày đêm nung nấu ý chí đấu tranh với quân cướp nước. Không quản ngại lặn lội khắp nơi, tổ chức lực lượng, tập hợp thành đội ngũ. Vùng đất Bắc Giang này, ông thuộc từng lối ngõ. Đi đâu cũng thấy ông có cơ sở tin cậy. Đi đâu cũng có người thân tín. Đối với vai trò một người đứng đầu hội kín ở một địa phương thì điều ấy cần thiết chừng nào.

Nguyễn Khắc Nhu dẫn Nguyễn Thái Học đến một ngôi chùa, cũng là cơ sở của Hội Việt Nam Dân Quốc. Ngôi chùa nằm trên một ngọn đồi thoai thoải dốc. Bên ngoài có hàng rào duối xanh ngắt được xén tỉa bằng bặn. Vườn chùa có những cây mít cây nhãn lâu năm bóng tỏa rợp, ánh nắng từng tia chiếu loang lổ trên mặt đất. Những gốc mít to bạnh, quả sai sù sì ôm lấy thân cây. Sân chùa trồng hoa ngọc lan, hương hoa phảng phất trong gió. Lối vào chùa sạch mát, đầy bóng dâm. Chủ nhà niềm nở chạy ra đón khách.

– Trời, bác Nhu. Lâu lắm bác mới lên chơi. Cả anh nữa!

– Đây là anh Nguyễn Thái Học, người bạn mới của chúng ta.

– Chắc có đến mấy năm bác Nhu mới trở lại vùng này?

– Cũng từ ngày thôi dạy học ở Thịnh Liệt đấy. Bà con mình ở vùng này vẫn bình an vô sự chứ?

– Chưa bình an đâu bác ơi! Phu phen tạp dịch thuế má trăm thứ đổ lên đầu. Dân không mở mày mở mặt nổi vì bọn cường hào ác bá. Trộm cướp khắp nơi hoành hành. Bác xem, dân ở đây vẫn truyền tụng câu:

Nhờ “ơn” cái lũ quan tây

Nó ban sưu thuế… nhừ thây nát nhà!

Nhờ “ơn” cái đám quan ta

Nó cho roi vọt… gọi là: thưởng dân!

Hờn căm lũ giặc muôn phần…

Thế đấy! Cảnh đói nghèo xơ xác ở đâu chẳng gặp?

 

Đúng là bộ máy kìm kẹp của người Pháp áp đặt lên vùng này rất dã man kể từ ngày nghĩa quân Đề Thám thất bại. Chúng cho triệt hạ tất cả các làng mạc xóm thôn, đề phòng dân chúng nổi dậy và dễ bề kiểm soát. Nhưng người dân thì vẫn nung nấu chí căm hờn. Dân vẫn nuôi trong mình mối hận mất nước, bao cảnh gông cùm tù đày, chết chóc, làm sao mà quên được. Dân làng vẫn mong ngày đền đáp với non sông.

Nguyễn Khắc Nhu nói:

– Vậy là tốt lắm, ngày ấy sẽ không xa đâu. Thế dạo này có kiếm được ít thuốc nam nào không?

– May đấy, vừa phơi sấy đóng gói được một ít thuốc kiếm được trong Rừng Già. Bác đến kịp thời quá. Em đóng cho bác nhé!

– Tốt quá! Chú đóng vào bồ cho tôi.

Nguyễn Khắc Nhu hỏi thăm các môn võ bí kíp cổ truyền vẫn thường xuyên duy trì luyện tập chứ?

Chủ nhà sốt sắng:

– Vẫn phải bí mật luyện tập chứ bác. Đấy là linh võ, môn võ đặc dị, đặc chủng không phải ai cũng biết. Chỉ chờ khi nào có minh chủ minh quân, chúng tôi mới mang ra phụng sự. Môn võ cổ truyền khổ công nhất là môn võ sáo, một trong những môn võ được truyền giữ từ lâu đời.

– Quả thật, lần đầu tôi được biết tên môn võ đặc biệt này.

Nguyễn Khắc Nhu nói:

– Anh Nguyễn Thái Học là người của chúng ta. Hội Việt Nam Dân Quốc của ta đã nhập với Việt Nam Quốc Dân đảng làm một. Anh Học đây là Chủ tịch Tổng bộ đảng. Hôm nay cùng tôi tới vùng Yên Thế, cũng là để thị sát tình hình. Chúng ta là anh em cùng hội cùng thuyền. Tôi rất muốn chú biểu diễn môn võ sáo, giới thiệu cho anh Học cùng thưởng thức.

– Hân hạnh! Hân hạnh lắm!

Chủ nhà vào trong chùa, mở hòm lấy ra cây sáo sắt dài bằng tầm cây trường kiếm, đầu sáo buộc tua màu giống đuôi chiếc đao. Cây sáo có biệt danh là “ngọc tiêu diệu khúc, thiết địch thần phong” được nghĩa quân Yên Thế sử dụng làm ám hiệu bằng âm thanh. Tùy giai điệu của khúc nhạc mà các nghĩa sĩ biết cảnh yên hàn hay có động. Tiếng sáo ấy trầm đục hay bay bổng, dồn dập hay khoan thai, hiền lành hay ma mị, để mọi người biết cách xử lý các tình huống trong chiến trận. Người thổi sáo phải thật khỏe mạnh, trường hơi, vượng khí, linh hoạt,  luôn theo sát bên thủ lĩnh để truyền những mệnh lệnh lên bầu trời. Không ít lần quân Pháp điêu đứng vì tiếng sáo mang mệnh lệnh xuất thần ấy. Khi giáp địch cây sáo bỗng chốc trở thành cây côn lợi hại, tả xung hữu đột biến hóa khôn lường trong tay võ sĩ. Lúc như trường kiếm lúc như đoản đao lúc như côn túc.

Sau khi cung kính làm lễ trình tổ, chủ nhà đã trổ tài môn võ sáo cho Nguyễn Khắc Nhu và Nguyễn Thái Học tận mắt trông thấy.

Bỗng như mát lẹm sau gáy khi nghe tiếng sáo vun vút rít lên từ ống sáo theo động tác điều tiết điêu luyện của võ sĩ. Tiếng sáo phát ra do lượng gió hút vào các lỗ sáo, lúc nhẹ như gió thoảng mây bay, lúc dồn dập như vó ngựa phi trên đồng nội, lúc rộn ràng như khúc khải ca. Khi công khi thủ. Cốt cách lãng tử gắn kết với chí khí võ đạo làm cho người múa sáo như thăng hoa. Bài võ sáo có tên “Thiết địch Phồn Xương” vừa thơ mộng khao khát tự do vừa mã thượng khoáng đạt như thần linh thần kỳ mách bảo.

“Thiết địch Phồn Xương” mông lung như màn sương lan tỏa trên mặt nước, hiện hữu như trời đất phóng túng, trong các thế, các chiêu uyển chuyển: xà hình nhập trận, xà hình thoát bộ, bạch xà quấn thân, đồng tước song phi, long hổ nhập hội, lão hầu du sơn, tả hữu xa luân, tam hoa cái đỉnh…loang loáng như trăng lướt trên sóng. Chủ nhà vừa biểu diễn vừa giải thích về các thế tấn, các thuật đặc dị diệu khúc và những chiêu thức thần pháp. Cây sáo sắt khi tay phải, khi chuyển sang tay trái trong thế phản công như gió bão. Thu vào như hoa, đâm ra như vệt chớp. Trước mặt võ sĩ như có kỳ phùng địch thủ đang chống trả không khoan nhượng.

“Thiết địch Phồn Xương” còn như lời tụng ca thiên nhiên hào hoa phóng túng, khi trầm như tiếng tù và, khi vút cao như chim chóc, trong bộ hành tiến tiêu dao uyển chuyển uy lực, trong khi chân còn giữ nguyên thế tấn vững chãi. Dường như tâm hồn võ sĩ đã hòa quyện với trăng sao trong điệu múa sáo tuyệt chiêu, tuyệt mĩ.

Nguyễn Thái Học thốt kêu lên: diệu nghệ, diệu nghệ!

Với dáng vẻ khoan thai đĩnh độ, võ sĩ dừng lại vái chào người xem. Con người thoát khỏi trạng thái nhập đồng, trở về tư thế thung dung thuần phác.

Nguyễn Thái Học hoàn toàn bất ngờ và vô cùng thích thú trước bài võ sáo mà trước đây anh chưa từng biết. Anh ôn tồn hỏi võ sĩ:

– Võ sĩ học môn võ bí truyền này bao lâu?

– Phải khổ luyện từ lúc bốn năm tuổi. Thầy là một đại võ sư sống ngót trăm năm, giờ không còn nữa. Không phải ai cũng học được môn võ này đâu. Phải có sức khỏe. Phải kiên trì, tỉ mỉ. Phải sáng dạ và có dũng khí. Ngoài mười tám môn võ thuật thông thường, thì đây là một trong bốn môn võ đặc dị được cụ Hoàng Hoa Thám đắc dụng. Có thể dùng khi đánh sáp lá cà, xuất kỳ bất ý, tiêu hao sinh lực quân địch trong những tình huống giáp mặt.

Nguyễn Thái Học cảm ơn người võ sĩ, hẹn có ngày tái ngộ. Cũng không thể ngờ đó là thiên duyên đã gắn bó hai số phận với nhau ở cuối chặng đường cách mạng. Người võ sĩ ấy sau này trở thành vệ sĩ của Nguyễn Thái Học, có tên là Nguyễn Đức Trạch, thường gọi là Sư Trạch.

 

*

Tiếng súng nổ ở phía cuối thôn làm mọi người nhốn nháo. Chưa biết có chuyện gì xảy ra. Người chạy tán loạn. Nhiều người thở không ra hơi. Đám người chạy thục mạng, mặt mày tái xanh tái xám. Một toán chừng ngót chục tên vừa cưỡi ngựa phi nước đại vừa bắn súng về phía sau. Nguyễn Khắc Nhu kéo Nguyễn Thái Học đứng nép vào một chỗ khuất, tránh kẻo tai vạ, chẳng phải đầu cũng dính tai!  Khi toán người cưỡi ngựa phóng đi khá xa mới thấy mấy tên lính đuổi theo hô cướp cướp.

Nguyễn Khắc Nhu nói với Nguyễn Thái Học:

– Thời buổi loạn lạc. Bọn cướp thường xuyên đến các làng cướp của, quấy phá. Có khi chúng táo bạo vào cả thị trấn cướp hàng của dân buôn bán. Chính quyền thì bất lực. Mấy thằng lính thì chạy bộ làm sao đuổi theo được bọn cướp cưỡi ngựa.

Oái oăm, đám lính không bắt được cướp, thấy hai người từ trong làng đi ra liền đòi xét hỏi giấy tờ. Hai người đành phải đưa thẻ căn cước cho chúng xem. Tên lính xem căn cước hai người, nhưng hình như hắn không biết chữ nên cứ nhìn xoáy vào mặt hai người. Hắn hỏi Nguyễn Thái Học:

– Ngươi ở đâu tới?

– Ngổ ở tâu à? Ngổ ở Tôồng Tăng (Đồng Đăng), Làng Sơn (Lạng Sơn), ti puôn pán thôốc pắc thôốc lam thôi à!

– Buôn bán thuốc bắc thuốc nam hả? Thế bán ở những đâu?

– Ây dà, ti puôn ti pán khắp lơi à! Tâu cũng puôn tâu cũng pán à! Hôm lay gặp ôông lày thì pán cho ôông lày à!

Tên lính quay sang Nguyễn Khắc Nhu, hỏi:

– Còn ông này ở đâu?

– Anh đã xem căn cước, sao còn hỏi ở đâu?

– Việc xem cứ xem, việc hỏi cứ hỏi.

– Tôi là Nguyễn Khắc Nhu, ở làng Song Khê.

Tên lính bỗng sững lại, nhìn ông chằm chằm rồi bỗng hỏi:

– Thế ông có phải là Xứ Nhu không?

– Đúng rồi!

Tên lính bỗng sụp xuống vái:

– Lạy ông, lạy ông! Trước ân nhân mà tôi không biết. Mẹ tôi ốm nặng, tôi là lính không về được. Người nhà tôi đã đưa đến ông bắt mạch cắt thuốc, cứu mẹ tôi qua cơn nguy kịch. Cả nhà tôi đội ơn ông.

– Có phải nhà bà Rô ở Yên Khê không?

– Đúng rồi, đúng rồi. Không có ông thì mẹ tôi đã chết. Hôm ấy cũng may là gặp Cô Giang có công chuyện đi qua Yên Khê, thấy mẹ tôi bạo bệnh, liền mách đến ông chạy chữa.

– À ra thế! Vậy anh lính cũng quen Cô Giang à?

– Vâng! Chúng tôi quen cả cô chị tên là Cô Bắc. Các cô người Phủ Lạng Thương. Tốt lắm! Thỉnh thoảng các cô ấy vẫn đem hàng quà đến bán cho cánh lính chúng tôi. Không có Cô Giang kịp thời đưa mẹ tôi đến thầy hôm đó thì khốn. Vậy mà chưa có gì gọi là để tạ ơn thầy.

– Làm thầy thuốc thấy người bệnh thì phải cứu bằng mọi cách. Hôm nay, may quá, tôi đi Chợ Gồ mua thuốc, gặp ngay chú người Tầu này bán cho được một số vị thuốc quý, tiện thể tôi nhờ luôn anh ta quẩy gánh về nhà.

– Thế thì quả là may thật! Chúng tôi xét hỏi giấy tờ là do lệnh trên thôi. Thoạt kỳ lý là do bọn cướp hoành hành quá đáng, hai nữa là đội sếp nói dạo này có hội kín hoạt động. Nên phải tăng cường kiểm soát.

Nguyễn Thái Học nói chen vào:

– Pọn cướp rất nguy hiểm! Pọn hội kín cũng rất nguy hiểm! Các anh lính rất tôốc, hảo lớ, hảo lớ! Pọn ấy cần phải pắt ngay, pắt ngay!

– Chúng tôi sẽ cố gắng.

Nguyễn Khắc Nhu cũng nói rằng các chú lính làm việc như vậy là rất tốt. Bảo vệ dân, thương dân là đúng đạo lý. Có điều gì cần giúp đỡ cứ nhờ qua Cô Bắc, Cô Giang, các cô ấy sẽ nói lại.

Mấy tên lính lễ độ chào hai người. Nguyễn Khắc Nhu còn dặn thêm, có gì giúp được Cô Bắc, Cô Giang thì cố gắng giúp nhé. Cùng là người Việt chung nòi giống Lạc Hồng cần phải đồng lòng thương nhau.

Đi được một đoạn Nguyễn Khắc Nhu mới nói với Nguyễn Thái Học rằng khá khen anh ứng phó linh hoạt, đóng vai người Tàu rất đạt. Còn mấy người lính đó rất có khả năng Cô Bắc, Cô Giang đã thuyết phục đưa vào tổ chức.

Nguyễn Thái Học cũng rất nể trọng uy tín của Nguyễn Khắc Nhu ở vùng đất này.Tuy là ông giáo nghèo, nhưng có tiếng là Xứ Nhu, lại biết nghề thuốc, luôn thu phục nhân tâm, nên được dân chúng quý mến, được các điền chủ và thân hào chức sắc ở các địa phương chăm lo giúp đỡ. Tiếng nói của Xứ Nhu có nhiều người nghe theo.

 

*

Đến được cơ sở chế tạo bom mìn thì đã muộn. Nguyễn Thái Học rất muốn biết  thực tế công việc đầy nguy hiểm này. Nếu không có Nguyễn Khắc Nhu đưa đi, hẳn là Nguyễn Thái Học hoặc là sẽ không bao giờ hình dung nổi hoặc chẳng bao giờ biết được những gì đang xảy ra sau những vẻ yên tĩnh của làng quê. Đường vào làng quả là ngoắt ngoéo. Bên ngoài nhìn chỉ thấy một bờ tre xanh. Đến gần mới thấy hàng tre ken dày lớp lớp như thành lũy. Tre ngăn những cuộc thâm nhập từ bên ngoài. Tre đề phòng những cuộc cướp phá của bọn du thủ du thực. Từ bao đời tre gắn bó với đời sống người dân. Trải bao cuộc chống ngoại xâm, lũy tre cùng với ao hồ đã bao lần ngăn chặn bước tiến của đối phương. Càng đi sâu vào làng, Nguyễn Thái Học càng có thấy như rờn rợn vì những cảm giác lạ. Nếu không có người đồng hành thông thạo đường ngang lối tắt, rất dễ sa vào chỗ bế tắc không biết lối nào mà ra. Những năm đất nước tao loạn, làng nào cũng bảo nhau lo phòng vệ. Ngoài rặng tre đầy gai góc, nhiều nơi còn cho đào kênh quanh làng.

Phía trước là một ngôi nhà gỗ trông thật bề thế, vườn cây um tùm, nhưng chưa thấy lối vào. Nguyễn Thái Học thầm nghĩ đây phải là ngôi nhà của người khá giả trong làng. Không là người có chức sắc thì cũng là điền chủ.

Phải đi qua mấy bờ rào mới đến được ngôi nhà, nằm sâu tận trong ngõ. Phía trước là một ao sen đang mùa hoa, hương tỏa ngan ngát hòa với mùi bùn hoai hoai trong gió chiều. Một đàn chó dữ tợn gần như đồng thanh sủa ầm ỹ không mấy thiện chí. Hai người phải dừng bước. Gặp tình huống này, nếu người yếu bóng vía, sẽ bị chúng tấn công không khoan nhượng. Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu quay lưng lại nhau thủ thế. Lúc ấy mới nghe tiếng quát chó của người nhà. Nghe tiếng quát, lũ chó chỉ còn gừ gừ rồi lảng dần chạy vào trong sân. Chủ nhà tuổi chừng ngoại tứ tuần, áo the khăn xếp, từ trong nhà chạy ra, trông thấy Nguyễn Khắc Nhu liền reo lên:

– Bác Xứ Nhu, cả nhà đợi bác lâu quá!

– Đáng lẽ không muộn. Nhưng gặp bọn cướp, phải lánh ít phút. Lại gặp cánh lính hỏi han chuyện trò, nên muộn.

– Hai vị vào cả đây. Mọi việc đã sẵn sàng..

Nguyễn Khắc Nhu giới thiệu để chủ khách làm quen nhau:

– Đây là anh Nguyễn Thái Học giữ vai Chủ tịch Việt Nam Quốc Dân đảng, còn đây là chánh tổng của tổng này, là cơ sở của Việt Nam Dân Quốc.

– Ấy phải giới thiệu là hội viên của ông Nguyễn Khắc Nhu chứ!

– Hân hạnh được làm quen với vị chánh tổng.

– Tôi cũng lấy làm sung sướng được gặp các vị yếu nhân của đảng.

Nguyễn Thái Học quan sát cơ ngơi nhà chánh tổng, dãy nhà trên bằng gỗ năm gian, chồng bồn kẻ chỉ, những bức lèo công phu, chứng tỏ chủ nhân rất am tường kiến trúc truyền thống dân tộc, dãy nhà dưới là nơi bếp núc và là nơi kẻ ở làm công. Không thấy nơi nào có thể chế tạo bom mìn.

Chủ nhà dẫn hai người ra phía sau vườn và chỉ một căn hầm lớn núp dưới rặng cây nhót lá rậm um tùm, bề ngoài khó phát hiện đấy chính là nơi hàng ngày đúc thuốc nổ và lắp kíp cho hàng trăm trái bom trái mìn. Rất nhiều những chiếc khuôn bằng gang được xếp gọn gàng. Rất nhiều bóng đèn hoa kỳ dùng làm cốt vỏ bom tay. Mìn đúc bằng xi măng xong chuyển vào kho cất giấu. Ở ngoài khó có thể biết rằng nơi đây đã thu gom hàng tạ thuốc nổ và các vật liệu làm bom mìn của chính đám lính bán cho.

Nguyễn Khắc Nhu nói:

– Đây là một trong hàng chục cơ sở cung cấp bom mìn được chuẩn bị, sẽ cung cấp đầy đủ khi cần.

– Vâng! Chúng tôi sẽ đáp ứng nhu cầu.

Nguyễn Thái Học nói:

– Rất thú vị. Vũ khí được chế tạo ở ngay nhà chánh tổng thì bọn Pháp  nghi ngờ thế nào được. Chỉ có điều bom mìn vận chuyển đi nơi khác rất nặng và dễ bị lộ. Càng nhiều cơ sở càng tốt. Ta sẽ có kế hoạch phát triển lên mạn Vĩnh Phúc, Vĩnh Yên, Phú Thọ và cả Hà Nội nữa.

– Xem thế là đủ biết tinh thần cách mạng của dân mình thật lớn lao.

– Thôi, chắc mọi người đã đói, ta về ăn cơm.

Cánh nhà bếp rộn rịp bưng thức ăn, mâm bát, lên gian nhà trên. Chiếu trải ra cánh phản to. Chủ nhà mời khách rửa tay nước nóng trong chiếc chậu đồng đặt ngoài hè. Nguyễn Thái Học bất ngờ thấy có cả Nguyễn Thị Giang cũng có mặt. Nguyễn Khắc Nhu thoáng qua có thể nhận ra vẻ ngỡ ngàng của vị Chủ tịch Việt Nam Quốc Dân đảng. Ông mỉm cười nói với Nguyễn Thái Học:

– Anh bạn trẻ không việc gì phải ngạc nhiên! Tất cả mọi việc đã có tính toán kỹ cả rồi. Cô Giang lên đây theo kế hoạch chúng tôi đã định trước từ ngày hôm qua. Khi ta về đến đây là có cơm ăn, để rồi ta bắt tay vào công việc ngay, cơ sở khỏi bị động.

– Thì ra bác đã lên kế hoạch từ hôm qua?

Nguyễn Thái Học càng trân trọng sự chu đáo cặn kẽ trong tổ chức sắp xếp công việc của Nguyễn Khắc Nhu, anh nói:

– Kế hoạch của bác Nhu thật chặt chẽ. Đây cũng là điều rất cần thiết đối với tổ chức của chúng ta. Nể bác quá! Rất cảm ơn!

– Có gì đâu!

Nguyễn Khắc Nhu chỉ sang Nguyễn Thị Giang:

– Vì tôi có cô gái này tham mưu đấy! Phải cảm ơn cô ấy mới đúng!

– Cháu làm theo sự chỉ bảo của chú mà!

Nguyễn Thái Học thành thật:

– Vâng, xin cảm ơn Cô Giang.

– Cảm ơn chú Nguyễn Khắc Nhu chứ!

Nguyễn Thị Giang ngước mắt lên gặp cái nhìn rất cảm mến của Nguyễn Thái Học, khiến cô lúng túng, vội nhìn sang nơi khác. Có lẽ đây là cái nhìn đầy ấn tượng gieo mãi vào lòng cô gái xứ Kinh Bắc một cảm giác khác lạ, thật khó giải thích. Như thể có luồng điện sinh học chiếu thẳng vào cô, tự dưng cô thấy như mặt đỏ lựng, cơ thể nóng bừng.

Chủ nhà phấn chấn:

– Lần đầu tiên gặp anh Học, chúng ta cùng nâng chén chúc tổ chức của chúng ta ngày càng lớn mạnh và thành công.

– Rất vui!

Đã từ lâu Nguyễn Thái Học mới được ăn một bữa cơm quê thân tình như thế này. Bữa ăn có thịt gà luộc, lại có cả canh cua đồng với cà pháo muối rất hợp khẩu vị. Bữa ăn đồng quê dân giã, nhưng thời buổi thóc cao gạo kém, cũng phải là nhà khá giả mới có được bữa ăn tươm tất như thế. Nhà chủ thật tâm lý, người đi đường xa về mà có bát canh cua thì thật tỉnh người.

Cơm nước xong trời cũng đã tối.

Chủ nhà lưu giữ mọi người nghỉ lại. Cũng thật bất ngờ, đấy lại là đêm Nguyễn Thái Học được nghe hát quan họ do chính người quê quan họ hát. Trên khoảng sân, ngát hương ngọc lan, dưới bóng trăng thanh, nhà chủ cho kê ghế ngồi nghe hát.  Những câu hát liền anh liền chị luyến láy thật tài tình. Chỉ người quan họ mới hát nổi. Ôi, cái giọng hát thật nhẹ nhàng mộc mạc mà da diết đến thế. “Rằng là anh Hai ơi… anh Hai về là anh Hai tính là anh Hai toán… Tính toán làm gì… Có yêu nhau thì lấy quách nhau đi.”. Thật là dùng dắng. Thật là diệu vợi. Mà người hát lại chính là Cô Giang.

Rượu được chủ nhà cho rót ra những chiếc chén mắt trâu, đưa đến tận tay từng người. Vừa uống, vừa nghe, vừa tán thưởng.

Mấy liền anh liền chị trong làng quan họ càng hát càng say sưa. Lúc hát đơn, lúc hát đôi, lúc hát đối nam nữ. Sao mà nhuần nhị. Sao mà tình tứ vậy. Ông bà ngày xưa khéo đặt những lời ca xao xuyến trữ tình.

           “Ngồi rằng là ngồi tựa í a có mấy mạn i ối a mạn thuyền, là ngồi tựa có a mạn thuyền. Trăng in í a là in mặt nước í a, cũng có a càng nhìn là càng nhìn non nước càng xinh…”

Nguyễn Thái Học thầm nghĩ, sức mạnh của văn hóa thật là kỳ diệu. Lưu truyền từ đời này sang đời khác. Chỉ chừng ấy giọng điệu. Chừng ấy lời ca mà đi suốt chiều dài thời gian. Trải bao nhiêu thế hệ truyền nối. Quan họ cũng như nhiều vốn dân ca của các dân tộc cả nước đã trở thành hồn nước. Sức mạnh bền bỉ ấy đã từng làm nên bản sắc dân tộc, chiến thắng bao thế lực ngoại xâm. Anh thốt lên:

– Thật là tuyệt vời!

– Tuyệt vời!

Người hát tới khi trăng lặn. Người nghe muốn nghe mãi.

 

Sáng hôm sau, nói lý do còn ở lại chữa bệnh giúp bà con, Nguyễn Khắc Nhu cho Nguyễn Thị Giang về trước cùng Nguyễn Thái Học.

Chưa bao giờ Nguyễn Thái Học đi chung một đoạn đường dài với cô gái nào. Quả thật chàng rất thích thú. Không hiểu Nguyễn Khắc Nhu vô tình hay cố ý? Dù thế nào thì Nguyễn Thái Học cũng rất cảm ơn Nguyễn Khắc Nhu đã tạo cho một cơ hội gần gũi phụ nữ.

Cả chặng đường hai người chỉ nói với nhau về công việc. Nguyễn Thái Học kể lại hôm qua gặp toán lính đi bắt cướp, họ nói rằng có quen Cô Giang. Nguyễn Thị Giang bảo:

– Đúng! Họ là lính ở đồn Nhã Nam, em và chị Bắc thường bán quà sáng cho họ, dần dà làm quen. Họ nói rằng họ sẵn sàng giúp đỡ chúng em khi cần.

– Thế thì tốt quá! Tranh thủ được sự ủng hộ của binh lính người Việt trong quân đội Pháp là một việc làm thật táo bạo và có lợi.

– Họ cũng là con em người dân Việt, cũng nhiều người xuất thân chân lấm tay bùn, cũng thương cha nhớ mẹ, ít nhiều cũng có lương tâm với dân tộc và lòng yêu nước nhất định. Họ cũng bất bình với người Pháp. Chúng em đã vận động họ ủng hộ cách mạng.

– Thế là Cô Bắc và Cô Giang có nhiệm vụ nặng nề rồi. Các cô phải có nhiệm vụ thành lập được càng nhiều càng tốt các chi bộ đảng trong hàng ngũ người Việt đang đồn trú ở một số tỉnh. Cần vận động thêm một số chị em khác nữa cùng tham gia.

– Thế các anh không ngại phụ nữ chân yếu tay mềm à?

– Thì hôm trước tôi đã nhận khuyết điểm rồi còn gì!

– Nhưng phụ nữ chúng em có tính thù dai lắm đấy! Chừng nào các anh còn coi thường phụ nữ, chúng em còn đấu tranh!

– Thế thì tôi xin được thua ngay, làm người chiến bại trước phụ nữ thì thật là diễm phúc!

– Không thua cũng phải thua!

Nguyễn Thái Học cười, rồi chợt nhớ giọng hát quan họ tối qua liền nói: “Em hát quan họ thật là có duyên, anh không thể nào quên được”.

Biết là Nguyễn Thái Học khen chân thành, nhưng Giang vẫn nói: “Lời em thô thiển nôm na. Liệu anh khen thật hay là khen chơi?”

Nguyễn Thái Học chỉ còn biết quả quyết:

– Thật! không dám khách sáo. Thề rằng đời tôi sẽ gắn bó với Bắc…Giang!

– Chả hiểu trong câu nói có hàm ý gì không? Nguyễn Thị Giang tiếp:

– “Nói nhời thì giữ lấy nhời

Đừng như con bướm đậu rồi… lại bay!”

Hai người rảo bước trên đường làng. Nắng chang chang. Nguyễn Thái Học che đầu bằng chiếc khăn bông. Chỉ một mình Giang có nón. Giang chân thành:

– Anh đội nón của em này! Để em đội khăn cho.

– Sao lại thế được? Tôi đội nắng quen rồi. Qua ven đồi kia, tôi bẻ cành cây che nắng là đi cả ngày cũng không sao mà.

Nguyễn Thái Học leo lên mé đồi, bẻ một cành cây lá xum xuê, che lên đầu. Chẳng may bị bọ ngứa rơi vào cổ. Giang cuống cuồng vuỗi bọ ngứa cho anh. Học cảm giác bàn tay Giang chạm vào cổ anh mát lành làm sao!

 

 

 

 

 

Chương VII

                                               LÀNG QUÊ THANH VẮNG

 

                                                                       Thành quách nhiều khi đổ sập

                                                                       Riêng quê vẫn luỹ tre làng

                                                                       Vẩn vơ đôi khi tiếng cuốc

                                                                       Lại gợi nỗi buồn mênh mang

 

Đúng theo lời hẹn, Nguyễn Thái Học về Hưng Yên, đến Châu Giang tìm về làng Đa Ngưu, quê của Phó Đức Chính. Không khó khăn gì khi tìm về một làng nổi tiếng về nghề thuốc bắc đã có danh từ lâu đời. Vừa tới cổng làng đã thấy Phó Đức Chính tươi cười đứng đợi.

– Anh tìm hỏi đường về quê em có khó không?

– Có gì mà khó! Cứ thấy mùi thuốc bắc mà lần tới, cứ nơi nào treo biển xem mạch bốc thuốc mà hỏi, chệch sao được!

– Anh đến kịp thời quá. Anh phải gỡ cho em một chuyện rất khó thuyết phục đối với cha mẹ em.

– Chuyện gia thất chứ gì?

– Anh đoán trúng thế! Cha mẹ em “đánh giây thép” bắt em về để đi hỏi vợ. Các cụ lo cho thằng con út ở xa. Bắt lấy vợ để giữ chân em. Em đã thuyết phục rằng, đã có hai người anh và một bà chị ở nhà rồi, thì một mình con có đi xa, cha mẹ khỏi phải lo.

– Cha mẹ nào chả thế. Cha mẹ không lo cho con cái mới là lạ! Mình sẽ cố gắng làm đồng minh của Chính để thuyết phục các cụ.

Qua vùng đất nhãn nổi tiếng. Những vườn cây nhãn đang mùa ra hoa, ong đi kiếm mật bay từng đàn, có khi rợp cả một khoang trời. Mật ong lấy từ hoa nhãn rất quý. Nó là một vị thuốc rất bổ làm tăng sức dẻo dai cho cơ thể và hàn gắn các vết thương. Người Hưng Yên rất tự hào về loại quả đặc sản, đã từng là phẩm vật quý tiến vua thời trước. Phó Đức Chính rất thích thú kể về loại cây sâu rễ bền gốc nhờ thổ nhưỡng và khí hậu vùng này mà có. Cũng là giống nhãn này mà di thực đi trồng ở vùng đất khác là biến dị, giữ được vị ngọt thơm thì trơ cùi, giữ được cùi dày thì vị nhạt. Cho nên Hưng Yên vẫn giữ cây nhãn tổ để duy trì một loại cây quả đặc sản, thiên nhiên ban tặng. Chỉ cần nhắc tới nhãn là người ta nói ngay tới Hưng Yên.

Thân sinh của Phó Đức Chính là nhà nho kiêm nghề bốc thuốc bắc Phó Đức Chân hiệu ĐứcTường là người luôn giữ nếp nhà gia giáo. Răm rắp theo một khuôn thước. Con cái buộc phải nghe lời. Vậy mới thật là khó khăn trong lời ăn tiếng nói làm siêu lòng các cụ.

Phó Đức Chính đưa Nguyễn Thái Học về nhà mình.

Thầy thuốc Đức Chân đang bận bắt mạch bốc thuốc cho khách nên thấy Nguyễn Thái Học lễ phép chào, cũng chỉ trả lời qua quýt, rồi lại chú mục vào công việc. Ông bảo Phó Đức Chính đưa Nguyễn Thái Học vào phòng đọc sách, xong việc ông sẽ tiếp chuyện.

Đúng cốt cách của một nhà nho. Trên tủ tàng thư hầu hết là những cuốn sách chữ nho bằng giấy gió, đã được chủ nhân đọc quăn hết cả góc sách. Trên đó còn có mấy cuốn sách chữ quốc ngữ. Nguyễn Thái Học lướt qua thấy có các tập Nam hoa kinh của Trang Tử, Ly tao của Khuất Nguyên, Thơ của Đỗ Phủ, Sử Ký của Tư Mã Thiên, Đạo đức kinh của Lão Tử…đều là những cuốn do Nhượng Tống dịch. Nguyễn Thái Học nghĩ, nói chuyện với bậc lão nho chắc chẳng dễ dàng đâu. Không như nói chuyện với với cha mẹ mình ở nhà, vốn là dân quê mùa học hành chả đáng là bao. Lúc nào cũng nôm na xuê xoa cho xong việc. Hết việc đồng áng chợ búa, về nhà cơm cháo xong là ngả người làm một giấc đến sáng. Mọi việc đều đơn giản. Lát nữa tiếp chuyện với thầy thuốc Đức Chân, sẽ phải ăn nói sao đây cho thuận tai, nhất là chuyện Phó Đức Chính đang nhờ.

Bà Đức Chân sửa soạn một mâm cơm tươm tất cho cho con giai và bạn đến chơi. Ông Đức Chân mở tủ lấy bình rượu thuốc và ba chiếc ly nhỏ rồi mời Nguyễn Thái Học và con giai vào bữa. Ông thong thả nói:

– Bây giờ cha con, bác cháu ta mới có dịp chuyện trò với nhau. Lúc nãy thì phải lo việc chữa bệnh cho thiên hạ đã. Việc nào cần trước phải làm trước. Có phải thế không, anh Học?

– Vâng, thưa bác!

– Vậy xin hỏi anh, quê quán ở đâu, song thân thế nào?

– Thưa bác, quê cháu ở làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Yên, cha mẹ cháu làm nghề nông và chạy chợ. Đời sống cũng chỉ vừa đủ ăn. Cha mẹ cháu đều khỏe mạnh cả.

– Thế là tốt rồi! Đủ ăn và mạnh khỏe là điều cốt tử đấy cháu ạ. Thế ở Vĩnh Yên thì quê nhà ta có gần quê ông Đội Cấn không?

– Dạ thưa, từ làng cháu sang làng ông Đội Cấn chỉ cách một cánh đồng.

– Gớm, cái ông Đội Cấn cũng là người chí cả, dũng lớn, cùng ông Lương Ngọc Quyến nổi lên đánh Pháp, chiếm được cả Thái Nguyên. Khi thất bại thì tự sát chứ không chịu sa vào tay kẻ thù.

– Cháu hồi còn ở nhà có gặp bà mẹ của ông Đội Cấn. Dân làng bảo rằng cụ thương con quá đến phát điên. Cứ gặp cháu khi nào là cụ hát chán rồi lại nói, hãy trả thù cho con cụ.

– Thế là không điên đâu. Phẫn chí quá  đấy, cháu ạ!

Nguyễn Thái Học thấy ông Đức Chân nói năng sởi lởi, phong độ đàng hoàng thì rất mừng. Người ta cứ bảo các nhà nho thường hay khó tính. Nhưng xem ra ông Đức Chân không phải người như vậy. Thế thì chuyện riêng Phó Đức Chính nhờ chắc sẽ êm xuôi. Nguyễn Thái Học tiếp tục câu chuyện:

– Thưa bác, chúng cháu còn trẻ người non dạ, chỉ mong có người chỉ giáo cho những gì còn chưa nghĩ nổi.

– Tôi tuy ở tỉnh lẻ, không được tiếp xúc rộng với thiên hạ, cũng có điều lạc hậu với thời cuộc, không phải điều gì cũng am tường cả đâu. Mỗi thời mỗi khác. Mỗi đời mỗi biến đổi. Chữ vuông đã hết thời, bây giờ là thời của chữ quốc ngữ. Cách học cách nghĩ cũng khác.

– Cháu thời nhỏ cũng được cha mẹ cho đi học chữ nho, rồi sau mới học trường Pháp – Việt. Rồi cháu học Cao đẳng sư phạm, sau mới học Cao đẳng thương mại. May mắn chúng cháu gặp nhau rồi cùng kết thân. Cháu gặp Phó Đức Chính và cùng sinh hoạt trong nhóm Nam Đồng thư xã.

– Thế thì quý lắm. Ở đó có những người thành danh trong báo giới, như Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài, Nhượng Tống. Các anh giao du với những người như vậy là đáng giao du.

– Trời, bác biết các anh ấy cặn kẽ vậy?

– Cũng là do đọc sách đọc báo. Những cuốn sách các anh ấy soạn và dịch của Tàu của Tây rất đáng giá. Tôi sưu tầm được một số sách từ Nam Đồng thư xã mà ra.

– Lúc nãy cháu có xem một số cuốn sách do anh Nhượng Tống dịch trên tủ sách của bác.

– Đấy, tôi nể phục anh Nhượng Tống là ở chỗ ấy. Tôi cũng biết chữ nho, nhưng đọc thì biết mà không thể dịch nổi ra văn phạm nước mình. Tôi lần mò kiếm được bộ sách dịch của anh Nhượng Tống, nhưng có hai cuốn sách tôi không sưu tầm, là cuốn Tây sương ký của Vương Thực Phủ và cuốn Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần. Vì những cuốn sách ấy tôi đọc không hợp. Trong những cuốn sưu tầm, tôi thích đọc Đạo đức kinh của Lão Tử, vì cuốn ấy tiềm tàng triết lý sống. Càng đọc càng sáng ra nhiều điều.

– Vâng, anh Nhượng Tống và anh Phạm Tuấn Tài, anh Phạm Tuấn Lâm đều là người học vấn uyên thâm. Anh Nhượng Tống, tên chính là Hoàng Phạm Trân vừa am tường nho học vừa hiểu biết tây học. Các anh ấy dịch cả sách của Tôn Dật Tiên và sách của một số triết gia phương Tây. Gần các anh ấy chúng cháu cũng sáng ra nhiều điều. Chúng cháu vẫn tranh thủ đọc để thêm hiểu biết.

– Diễm phúc đấy! Diễm phúc đấy! Tôi nhớ Nhượng Tống có câu viết trên báo, đại ý “người Pháp tay trên thì đề huề Pháp Việt, tay dưới móc túi dân Việt”!

–  Vâng! Dân ta thất học, thống khổ và bần cùng cũng là do vậy.

Ông Đức Chân đứng dậy, lấy từ tủ sách ra một bản sách. Ông vuốt vuốt cho mép sách phẳng phiu rồi lần giở một trang ông đánh dấu. Gương mặt ông như giãn nở ra, cặp kính lão nhướng lên. Ông bảo:

– Đọc Đạo đức kinh của Lão Tử càng ngẫm càng thấy cái sự học thật bao la. Đời người ngắn ngủi lắm, không làm sao thấu hết được mọi nhẽ. Nhưng học để tu chỉnh mình thì thật là thiết thực.

– Thưa vâng! Cháu cũng chỉ mới được anh Nhượng Tống nói qua Đạo đức kinh, chứ chưa  được đọc.

Ông Đức Chân nhấp chút rượu rồi trầm ngâm đọc thuộc từng đoạn nguyên tác Đạo đức kinh, rồi giải thích thêm cho Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính nghe:

– Đạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh. Vô danh, thiên địa chi thủy. Hữu danh, vạn vật chi mẫu. Cố thường vô, dục dĩ quan kỳ diệu. Thường hữu, dục dĩ quán kỳ kiếu. Thử lưỡng giá, đồng xuất nhi dị danh, đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn.

Một học giả am tường nho học giải nghĩa rằng: Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cửu bất biến. Tên mà có thể gọi ra tên ấy thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến. Không gọi là bản thủy của trời đất. là gọi mẹ sinh ra muôn vật. Cho nên, tự thường đặt vào chỗ không là dò xét cái thế vi diệu của nó (đạo); tự thường đặt vào chỗ “” là để xét cái (dụng) vô biên của nó. Hai cái không cũng từ đạo ra mà khác tên, đều là huyền diệu. Huyền diệu rồi lại thêm huyền diệu, đó là cửa của mọi biến hóa kỳ diệu.

– Thật là cao sâu. Chúng cháu còn phải học nhiều mới hiểu được những điều tiền nhân đã chiêm nghiệm.

– Chẳng mấy khi bác cháu mình gặp nhau. Cũng là mượn chén rượu tâm giao để trải những điều tâm sự. Ở đời muôn vạn biến cải. Lịch sử nước Nam mình cũng vậy. Những bậc anh hùng cứu thế trong thời loạn, những anh hùng chống giặc ngoại xâm, khi dựng nghiệp thì thật vẻ vang, nhưng đến đời con cháu thì lại đổ đốn. Ăn chơi sa đọa, vua chẳng ra vua, quan chẳng ra quan, nhũng nhiễu dân, hà lạm công quỹ, chia chác điền thổ, dung túng bọn làm càn. Nghĩ mà đau đớn cho dân ta. Bây giờ người Pháp đè đầu cưỡi cổ, vua tôi bù nhìn, những người yêu nước thương dân thì bị đàn áp…Cũng là để cháu thông cảm vì sao bác lại tôn thờ cái sự vô vi…

– Vâng, chúng cháu hiểu.

– Nhưng đối với tuổi trẻ thì phải khác cháu ạ. Phải nhập thế. Phải tỏ rõ trí làm trai. Câu của cụ Nguyễn Công Trứ thật là chí lý: “Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Thật chí lý! Thật chí lý! Không có lẽ trai nam nhi nước mình lại hèn kém?

–  Các bậc tiền nhân đã để lại cho hậu thế những bài học lớn…

– Cái ông Trứ này cũng thật lạ, giúp dân mở mang điền thổ, sống phóng khoáng, lúc quan thượng thư, lúc giáng xuống lính thú, mà thơ phú ngang tàng!

– Bởi ông ấy hơn cả người quân tử trong quan niệm xưa…

Phó Đức Chính lặng lẽ ngồi ăn, thể hiện đúng bậc làm con, chỉ chú mục nghe cha mình và Nguyễn Thái Học chuyện trò. Biết rằng cha đang say sưa những điều ông hằng tâm đắc. Giờ lại có người để trút những tâm sự thì thật là thỏa nguyện đối với tuổi già.

Nguyễn Thái Học thưa:

– Cháu thấy những điều bác nói thật thấm thía. Chúng cháu tuổi trẻ chưa làm được gì nhiều, nhưng không bao giờ dám phụ lòng mong mỏi của các bậc sinh thành.

– Nghe Đức Chính nói rằng, cháu đã có bản kiến nghị gửi tới Toàn quyền Đông Dương?

– Dạ thưa bác, vâng! Cháu đã gửi bản kiến nghị lần thứ hai cho Toàn quyền Đông Dương, cháu cũng đệ giấy xin phép phủ Thống sứ Bắc Kỳ xuất bản tờ báo Nam Thanh nhằm khuyến khích thương nghiệp, nâng cao dân trí, nhưng họ không hề mảy may trả lời.

– Thế cũng là người to gan đấy. Khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Hương Khê, khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Thái Nguyên, khởi nghĩa Yên Thế… chống người Pháp đều thất bại. Rồi đến cụ Phan Châu Trinh, cụ Phan Bội Châu, vẫn bế tắc hoàn bế tắc…Bây giờ đối khẩu với họ, liệu họ có nghe?

– Dạ thưa bác, dân mình xưa nay đều muốn yên ổn làm ăn. Có bao giờ muốn gây hằn gây thù với ai đâu. Chỉ vì người Pháp cậy là nước hùng cường, ức hiếp dân ta. Những yêu sách chính đáng của người Việt không bao giờ họ thèm nhòm ngó. Cực chẳng đã người mình mới phải đấu tranh. Cực chẳng đã mới phải yêu sách. Cháu nghĩ, dân ta đồng lòng đồng hướng, sẽ đến ngày nước ta hùng cường.

Ông Đức Chân thở dài. Thời thế rồi không biết rồi ra sao? Người Pháp thì ra sức vơ vét tài nguyên, mộ phu đi hầm mỏ, mộ phu đi đồn điền cao su, bao nhiêu người chết rày chết rạc. Dân như ngồi trên chảo lửa. Vua quan thì vinh thân phì gia. Coi dân như con ong cái kiến. Bỗng ông Đức Chân ngâm nga một đoạn thơ, giọng sâu thẳm như tự trong hồn:

Trường sa phục trường sa

Nhất bộ nhất hồi khước

Nhật nhập hành vị dĩ

Khách tử lệ giao lạc

Bãi cát dài lại bãi cát dài. Đi một bước như lùi một bước. Mặt trời đã lặn, chưa dừng được. Lữ khách trên đường nước mắt rơi.

Ông Đức Chân trầm ngâm: Đó là bài “Sa hành đoản ca” của Chu Thần Cao Bá Quát đấy! Sự đời không đơn giản. Người ấy đã từng nổi lên chống triều đình một thời. Nhưng mệnh trời không cưỡng nổi. Nước Nam mình không thiếu người tài giỏi đâu. Nguyễn Công Trứ đấy, khí chất khí khái mấy ai bằng? “Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào. Đã sa xuống thấp lại lên cao”! Rồi đại thi hào Nguyễn Du cũng vậy. Tài cao trí cả mà tâm sự đầy mâu thuẫn, sự nghiệp đầy mâu thuẫn. “Đường đường một đấng anh hào. Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai”. Thế mà cũng có lúc thốt lên: “Ám tụng thiên vấn chương. Thiên cao hà xứ vấn?” (Thầm đọc bài ca hỏi trời. Trời cao biết đâu mà hỏi?) …Gương ấy để mà noi. Chỉ mong các cháu xứng với trí làm trai.

Nhận thấy cha mình đang đầy phấn khích, Phó Đức Chính ra hiệu cho Nguyễn Thái Học nói hộ điều anh đã nhờ. Nguyễn Thái Học cũng thấy đây là cơ hội tốt nhất để tâm công ông già. Anh lựa lời:

– Vâng, người xưa trí đã cao, đức đã lớn. Thời nay chúng cháu nguyện noi theo. Chỉ có điều phải được các bậc cha bác cảm thông, tạo điều kiện để cháu con thực hiện được ước vọng.

– Hẳn nhiên rồi! Anh Học thì tôi không dám có điều gì bình phẩm. Chỉ lo Phó Đức Chính có đủ bản lĩnh để cùng các anh lo việc giang sơn hay không?.

– Chúng cháu tin là bác sẽ ủng hộ những suy nghĩ, những việc làm của chúng cháu. Làm sao thỏa trí trai trong lúc nước nhà còn đang cơn tù túng.

Ông Đức Chân quay sang Phó Đức Chính, hỏi trong tâm trạng thật sự hài lòng, thật sự bao lượng:

– Thế Phó Đức Chính thì sao?

– Thưa cha, anh Nguyễn Thái Học đã nói những điều tâm đắc. Con cũng thấy thế là hợp với sở nguyện. Việc riêng tư con đã thưa với cha mẹ, cho con được có thời gian để mưu sự cùng với các anh trong tổ chức.

Nguyễn Thái Học nói thêm:

– Việc riêng tư, xin cho chúng cháu sẽ tính sau một chút. Chắc là hai bác chẳng nỡ nào bó buộc tuổi trẻ khi chưa có “danh gì với núi sông”.

– Ờ, thế cũng phải. Có anh Học nói thì tôi tin. Việc của Chính, tôi sẽ nói với bà ấy hoãn lại. Sau hẵng tính.

Phó Đức Chính thở phào. Câu chuyện giữa ba người đàn ông, một già hai trẻ quanh bữa cơm đạm bạc, thế mà mang lại được nhiều điều thật đáng ghi lòng tạc dạ. Thế là Phó Đức Chính yên tâm về chuyện riêng tư.

Thời cuộc đã làm cho con người ta không thể thuần nhất một ý tưởng. Các thế hệ càng khác nhau về suy nghĩ và ứng xử. Nhưng có một điều không mấy ai không quan tâm, đấy là vận mệnh của đất nước. Người yên phận thì cứ mặc lòng, mũ ni che tai, mặc cho con tạo xoay vần đến đâu cũng thây kệ. Người thì đau về cảnh non sông bị dày xéo, nhưng chả biết làm thế nào, đành kêu một tiếng chả biết có thấu trời. Người thì tìm lối cứu nước, nhưng muôn vàn bế tắc. Bao cuộc khởi nghĩa không thành. Phong trào Cần Vương thì thủ cựu. Chả lẽ cứ mãi theo chế độ quân chủ vua tôi lỗi thời. Đành rằng cũng có những ông vua triều Nguyễn yêu nước, muốn rửa nhục nô lệ, nhưng chả lẽ để rồi lại vẫn bo bo giữ lấy cái ngai vàng? Cụ Phan Châu Trinh muốn học hỏi nước ngoài, đưa đất nước tiến bộ như nước Pháp để đuổi Pháp. Nhưng chỉ là ảo tưởng. Bao giờ đất nước mình tiến kịp đất nước người ta? Cụ Phan Bội Châu lại muốn cho lớp trẻ đi học người Nhật, nhờ họ để mà chống Pháp. Thế cũng là ảo tưởng. Pháp nó bắt an trí. Cũng là một cách cầm tù!

Phó Đức Chính như khám phá ra cha mình ở những kiến giải sâu xa về cuộc sống. Nhưng vì mưu sinh và tuổi tác, không thể khác hơn là chăm lo miếng cơm manh áo cho cả gia đình. Gỡ được mối ràng buộc của cha mẹ để được vẫy vùng thật là một niềm vui đối với chàng thanh niên mới hai mươi tuổi đời.

Nguyễn Thái Học cũng rất vui vì được tiếp xúc với một người mẫn cảm với thời cuộc. Người có nỗi đau nhân thế sâu xa. Nhưng cũng có phần bất đắc chí. Tuổi già, không thể không an phận. Tuổi già, chỉ mong được bình yên. Không có sức lực để tính tới việc quốc sự đầy gai chông. Muốn vun đắp cho lý tưởng của con cái, nhưng cũng còn có nỗi hoài nghi. Thấy Phó Đức Chính vui ra mặt, Học liền kể công:

– Không có mình đưa cụ vào “mê hồn trận” thì cậu có nói đứt lưỡi chưa chắc hai ông bà đã đồng ý để cậu tự do đâu nhé!

– Có thế mới phải nhờ đến anh. Thế nào tôi cũng trả ơn mà!

– Nhớ đấy!

 

*

Thực ra thì Phó Đức Chính cũng đã có một mối tình. Đấy là một mối tình mới chớm, tuy chưa thề non hẹn biển gì nhưng không thể nào quên được. Đó mới là sự cảm mến tự nhiên. Tuy có lần hai người đã từng nắm tay nhau dạo trên phố, mà chẳng hề nói được câu gì đáng kể. Họ lặng lẽ đi sát bên nhau. Có thể nghe rõ tiếng trái tim đập trong lồng ngực nhau, nhưng chưa hề dám bước qua ranh giới của tự nhiên. Đấy là Thắm. Người con gái đã khiến Phó Đức Chính rung động thật sự vì vẻ thuần hậu trong trắng và ngây thơ. Người con gái ấy là mối tình đầu đời của Chính. Một mái tóc thật dài, đã có lần quàng cả sang cổ Chính vì sợ Chính lạnh. Chỉ đến khi hai thân thể như sát lại nhau thì Chính mới thấy thật sự hoang mang. Sự hoang mang bởi nhận ra mình đã bị sợi dây ái tình đang thít lại dần. Thắm nép vào người anh tin cậy. Còn anh chỉ biết bóp chặt tay Thắm trong lòng tay mình, không muốn rời ra.

Khi Chính sang làm việc bên đất Lào thì mối tình ấy chỉ còn liên hệ qua những bức thư. Bức thư nào Thắm gửi, Chính cũng đọc thuộc làu. Rồi anh trân trọng cất giữ. Anh biết trái tim Thắm đã hướng về anh. Một trong số những bức thư ấy, Chính còn nhớ:

Anh Chính ơi! Thấm thoát thoi đưa, đã xa anh cả tuần lễ nay rồi. Nhớ nhung chẳng chút nào vơi. Trăng khuyết rồi trăng lại tròn, mỗi khi trăng tròn em lại sợ đến những ngày trăng khuyết. Trăng trời còn biết được khi nào tròn khuyết, chứ con người thì khó mà đoán định ra sao? Anh Chính ạ! Nhắm mắt lại em vẫn có thể hình dung từ dáng đi, giọng nói của anh. Em chỉ mong ngóng ngày gặp nhau, để em được giãi bày những tâm sự đang chứa chất trong lòng em. Vậy mà anh cứ xa, càng xa. Đường anh đi biệt tin tăm cá. Anh có biết cho nỗi lòng em hướng về anh không? Tuy chúng ta chưa một lời thề thốt, nhưng cảm tình anh giành cho em, em biết. Chỉ mong ngày gặp anh gần nhất, để khỏi xa cách nhớ nhung. Thôi, giấy ngắn tình dài, mong anh giữ gìn sức khỏe, mong mỗi bước anh đi chân cứng đá mềm. Hẹn gặp anh ở quê nhà. Em. Hồng Thắm.

Thế mà anh không dám bước xa hơn trong mối cảm tình ấy. Lý do duy nhất là, anh lo chẳng may trên bước đường hoạt động cách mạng có mệnh hệ nào sẽ khổ cả đời Thắm. Anh cố tình giãn dần những bức thư gửi Thắm, mong Thắm dần quên anh đi. Thắm vẫn thư cho anh, có bức chữ nhòe nước mắt. Và, anh đã gặp Thắm để nói hết những điều anh nghĩ, để Thắm khỏi đợi chờ.

Điều này Phó Đức Chính đã kể cho Nguyễn Thái Học nghe. Hôm nay, qua ngõ phố nhà Thắm, Phó Đức Chính cố đi thật nhanh, như để cố quên hình ảnh Thắm mà không sao quên nổi.

Nguyễn Thái Học hỏi Phó Đức Chính:

– Đã dứt khoát rồi à?

– Vâng, nhưng khó khăn lắm!

– Việc ấy quả thật không dễ dàng. Thế Thắm bảo sao?

– Thắm chỉ khóc! Anh ạ, lúc ấy em không dám nhìn vào mắt Thắm. Đôi mắt vời vợi khổ đau, hờn trách. Điều gì sợ nhất trên đời, có lẽ đó là điều phải nhìn vào đôi mắt phụ nữ đang khóc. Em chỉ biết xin lỗi. Vì đường cách mạng không biết sống chết ra sao…

 

*

Đi qua vùng đất Bãi Sậy, hình ảnh đập vào mắt mọi người trước hết là cảnh những người nông dân quá lam lũ. Đàn ông phong phanh vạt áo, chẳng chỗ nào đủ che kín người. Đàn bà mặc váy vá chằng vá đụp. Họ kéo cày bằng sức người. Cứ một người cầm cày cho hai người kéo trên những thửa ruộng lõng bõng bùn nước, có chỗ ngập ngang đầu gối. Nhẫn nại và cam chịu. Công việc nặng nhọc vắt kiệt sức lực họ. Không còn mồ hôi để nhỏ xuống ruộng nữa. Trông họ chẳng khác nào những tàu lá héo úa. Nguyễn Thái Học tự dưng nhớ tới những bức ảnh người Pháp chụp những nông dân Bãi Sậy nổi dậy khởi nghĩa, bị bắt, treo ở nhà thông tin phố Hoàn Kiếm, với lời chú thích sặc mùi thực dân: “những kẻ phản loạn”. Đó là những người đàn ông đàn bà xác xơ, chân tay xương xẩu, gương mặt hốc hác, cổ đeo những chiếc gông lớn bằng gỗ, níu chúi về phía trước. Họ treo ảnh cốt để thị uy dân chúng và cổ động cho chiến công tiễu trừ những kẻ chống đối. Những nông dân trong ảnh và những nông dân trên cánh đồng này chẳng khác gì nhau. Ấy vậy mà vẫn tiềm tàng trong họ sức phản kháng mãnh liệt. Bất bình làm cho họ phản kháng. Khổ đau làm cho họ phản kháng. Bần cùng làm cho họ phản kháng. Họ như những hòn than, như những đống tro đống trấu âm ỷ ngọn lửa, chỉ cần có ngọn gió là sẽ cháy bùng lên. Đấy chính là tinh thần yêu nước thiêng liêng, thời nào cũng có. Phải vận động họ, tuyên truyền họ, để họ cùng đứng dậy chống lại cường quyền áp bức, mưu cầu lấy cuộc sống.

Thấy Nguyễn Thái Học trầm ngâm, Phó Đức Chính hỏi:

– Anh Học đang nghĩ gì vậy?

– Mình đang nghĩ tới những người nông dân lam lũ kia. Tại sao họ bị cực khổ vậy? Đâu là quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc? Văn minh khai hóa của người Pháp có phải là chiếc bánh vẽ không? Mỗi câu hỏi đều có sẵn câu trả lời trong đó. Chỉ có điều, những người được học hành, người có cuộc sống khá giả hơn phải biết thương xót đồng bào mình. Phải cùng đồng bào mình quyết rửa nhục. Không ai làm thay người Việt Nam mình. Người Việt Nam phải đứng lên làm cách mạng giành lấy quyền sống, giành lại đất nước.

– Cái điều em nói bữa trước là phải tự cường, rất phù hợp với suy nghĩ của anh đó. Nhưng làm được điều ấy, trước mắt chưa thể trông cậy vào những người nông dân khốn khó này. Trước mắt vẫn phải trông nhờ vào những người có khả năng tài sản, cống hiến cho cách mạng. Đó là những ông lý, ông chánh, ông chủ trang ấp ở nông thôn; những nhà buôn, những ông chủ thầu, những nhà hữu sản ở thành thị. Những ông đội ông cai và binh sĩ người Việt. Những người có lương tâm với đồng bào, với đất nước.

– Đúng thế! Không phân biệt, không phân biệt! Miễn là ai có tấm lòng yêu nước, dám hi sinh vì cách mạng.

– Về Hà Nội đợt này, anh định làm những việc gì?

– Về Hà Nội đợt này sẽ phải hoàn thành một số công việc tối quan trọng. Đó là phải lập xong Khách sạn Việt Nam để có nguồn tài chính nuôi lực lượng và mua sắm vũ khí tích trữ cần thiết. Tranh thủ sự đóng góp vốn của các điền chủ, các thương gia, làm sao thu được thật nhiều tiền. Chuyện này ta phải bàn kỹ với Đoàn Trần Nghiệp cử người chăm lo việc kinh doanh sao cho kết quả, cũng là nơi đi về liên lạc của các thành viên bí mật. Phải củng cố các chi bộ, kết nạp thêm đảng viên, tăng lực lượng cho đảng. Mặt khác ta phải tổ chức ra tờ báo, để làm công tác tuyên truyền cho cách mạng. Mình định lấy tên tờ báo là Hồn cách mạng. Việc này phải bàn bạc kỹ với Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm, các anh ấy nhiều kinh nghiệm làm báo. Đây là tờ báo bí mật để chúng ta tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân, vạch trần dã tâm của người Pháp thống trị. Làm cho người dân sáng tâm sáng trí, cùng nhau đánh đuổi thực dân, giành quyền dân tộc, dân sinh, quyền tự do cho mọi người.

Chợt hai người nhìn thấy một điền nông gục xuống ruộng. Những nông phu cuống quít dìu anh lên bờ cỏ, lấy những nón mê quạt mát cho anh. Nắng và đói làm anh lả đi. Một người chạy lên bờ ruộng vặt rau má để anh nhai. Mãi mới thấy anh ta từ từ mở mắt. Đôi mắt hốc hác trắng dã. May quá, Nguyễn Thái Học có mang theo dầu cù là. Anh đưa cho Phó Đức Chính xoa nhẹ lên thái dương người bị cảm. Rồi bảo người nhà anh nông dân cầm lấy dùng khi cần. Những người nông dân bỏ cả cày bừa đưa người bệnh về làng.

Những lúc như thế này, Nguyễn Thái Học lại thấy nhớ quê hương da diết. Giờ này ắt hẳn cha cũng đang ra đồng cày bừa như những người nông dân ở đồng đất đây. Chỉ có khác là nhà còn có con trâu để làm sức kéo, không phải lấy sức người thay trâu. Cũng giờ này, liệu mẹ đang gồng gánh đi chợ nào? Từ hôm chia tay với Cửu, chắc mẹ vất vả thêm nhiều.

Lần này định về quê, sẽ tích cực vận động thêm người tham gia vào tổ chức. Nhưng phải làm xong một số việc ở Hà Nội đã.

Nguyễn Thái Học nói với Phó Đức Chính, khi nào công việc ở Hà Nội tạm ổn, sẽ mời Chính về Vĩnh Yên, vừa thăm quê Học, vừa gây dựng thêm cơ sở chi bộ đảng ở vùng đất này.

Mải nghĩ, Nguyễn Thái Học sực nhớ còn rất nhiều việc phải làm, cần đi thật nhanh để khỏi lỡ chuyến ô tô khách cuối ngày từ Hưng Yên về Hà Nội. Anh cùng Phó Đức Chính đi như chạy.

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương VIII

                                               HÀ THÀNH NHIỀU NGÕ NGÁCH

 

                                                                       Nơi không thể cũng là nơi có thể

                                                                       Vầng trăng kia cũng lúc thực lúc hư

                                                                       Soi bóng nước nhân thêm niềm cô lẻ

                                                                       Trả mùa trăng về bến đậu vô tư

 

Hà Nội lên đèn, phố sá lắng hẳn mọi ồn ào. Khắp thành phố loang lổ những ánh đèn điện hắt ra từ những ngôi nhà lầu. Hồ Hoàn Kiếm xao động, những làn gió gợn sóng lăn tăn làm cho bóng đền Ngọc Sơn và Tháp Rùa lấp lóa trong ánh sáng mơ màng. Thỉnh thoảng lại có đôi trai gái nép vào nhau dạo bước trên những vỉa lát gạch ven hồ. Không gian sẽ thật sự yên tĩnh nếu như không có tiếng tàu điện leng keng đưa những chuyến khách cuối cùng trong ngày. Người Hà Nội chìm dần vào trong giấc ngủ tưởng như chưa hề trải qua một ngày bận rộn lo toan. Mấy người khách vội vã qua các phố chính rồi tản vào trong các ngõ ngách. Họ mang theo những gói những cuộn được bọc giấy cẩn thận. Cử chỉ nhanh nhẹn, giống những người đi buôn bán làm lụng về khuya.

Hà Nội như mụ mị trong màn sương đêm.

Lúc ấy trên các nóc lầu các công sở hoặc các lùm cây hình như có bóng người. Họ làm việc gì đó mà không hề phát ra tiếng động. Phía dưới đất lảng vảng người canh chừng. Rất nhanh, từng nhóm vài ba người, họ chuyển từ phố này sang phố khác. Không để lại dấu vết gì. Sự vụ diễn ra nhanh chóng, khiến những ai vô tình nhìn thấy đều dễ dàng cho qua, không cần để ý.

Chỉ đến sáng hôm sau, nhìn lên nóc nhà các công sở, trên các lùm cây cao họ mới túm đông túm đỏ, xôn xao chỉ trỏ. Như thể phép lạ, chỉ qua một đêm mà rất nhiều nơi xuất hiện lá cờ nửa đỏ nửa vàng cùng với khẩu hiệu: “Đuổi người Pháp về nước Pháp, đem nước Nam trả lại người Nam”. Hẳn là người của “hội kín” hoạt động. Họ ghê gớm thật. Dám mạo hiểm treo cờ, treo khẩu hiệu ngay trên nóc nhà hát lớn, nóc nhà thờ, nóc chợ và cả khu vực dinh thự của các quan tây. Phố nào, ngõ ngách nào người ta cũng bàn tán về việc cờ và khẩu hiệu của “hội kín” treo khắp nơi.

Trên các tuyến tàu điện cũng xôn xao về chuyện truyền đơn được ai đó gài vào gầm các toa tàu. Khi tàu chạy qua các phố, những tờ truyền đơn cứ tự động bay ra. Người đi chợ sớm và dân Hà Nội vừa mở cửa nhà đã thấy truyền đơn cuốn theo gió bay tứ tung. Cái sự lạ lùng ấy không thể không gợi tò mò với mọi người. Họ nhặt truyền đơn lên đọc. Nội dung kêu gọi mọi người đồng sức đồng lòng chống Tây.

           Nước nhà bao lầm than

           Vì người Tây cướp nước

           Hãy cùng nhau chung sức

           Đánh đuổi Tây về Tây…

Lập tức cả Hà Nội như lên cơn sốt. Còi rúc, còi ủ, còi réo, còi huýt rinh ran. Cảnh sát, lính khố xanh, lính khố đỏ, lính lê dương cùng quan tây, quan Việt… chạy nháo nhào. Việc phải làm tắp lự là gỡ hết những băng cờ phản nghịch và thu hồi tối đa những tờ truyền đơn nguy hiểm gieo rắc trên đất Hà Nội. Cả Hà Thành như được chứng kiến một trận quyết đấu giữa đội quân uy hùng vũ trang đầy mình với đội quân vô hình chẳng biết xuất hiện lúc nào.

Oái oăm, cờ và khẩu hiệu nhiều cái treo lửng lơ trên cao rất khó gỡ. Bọn thi hành công vụ phải trèo lên nóc nhà tầng hoặc những cành cây cao mới gỡ nổi. Nhiều đứa không dám trèo. Có tên trèo lên chới với trượt ngã. Dân xúm đông xem và cười nhạo. Nhiều người cố ý đọc to câu khẩu hiệu cho mọi người cùng nghe: “Đuổi người Pháp về nước Pháp. Đem nước Nam trả lại người Nam”. Bọn cảnh sát phải dùng dùi cui mới giải tán được đám đông. Bọn mật thám nhanh chóng cải trang trà trộn vào dân chúng để nghe ngóng, theo dõi và bắt bất cứ ai có hành vi khả nghi.

Lệnh từ các nhà chức trách ban ra:

– Cấm tụ tập đông người. Tụ tập 20 người phải xin phép. Ai làm trái sẽ phạt tù.

– Cấm xem truyền đơn và cất giấu truyền đơn của bọn phản loạn. Ai làm trái sẽ phạt tù.

– Cấm người ra đường phố theo giờ giới nghiêm, từ 21 giờ đến 6 giờ sáng. Ai không chấp hành bắt bỏ tù.

Khắp thành phố nơm nớp không khí rình rập. Bọn lính kín được điều động từ các nơi về, la cà với những người ngồi quán nước vỉa hè, tia mắt theo dõi hết thảy những ai qua lại. Ai khả nghi, ai lỡ mồm nói những điều liên quan tới “hội kín” là khám xét, bắt bớ liền. Chập tối là mọi nhà đóng cửa im ỉm. Nhà ga nhan nhản mật thám. Ngõ chợ cũng lảng vảng mật thám.

 

*

Viên Toàn quyền Pierre Marie Antoine Pasquier nhậm chức vào ngày 22 tháng 8 năm 1928, thì ngày 7 tháng 1 năm 1929 bị ám sát hụt. Xứ Annam trong mắt hắn là một xứ nghịch phản. Xứ Annam không hề bình an như tên gọi. Người bản xứ không tuân thủ luật lệ do Toàn quyền đặt ra. Một quốc gia đói nghèo và bất phục tùng. Lũ nhà nho thì gàn dở cố chấp. Lũ tây học thì trừ những tên vinh thân phì gia mưu lợi mưu danh vô tích sự, còn lại là lũ ương ngạnh, luôn kích động dân chúng phản kháng. Còn lũ dân đen thì ngu dốt rách rưới bần cùng, dễ dàng bị lôi cuốn vào với lũ nghịch đảng.

Pasquier là viên Toàn quyền thứ 27, kể từ viên Toàn quyền Jean Antoine Ernest Constans nhậm chức đầu tiên ngày 16 tháng 11 năm 1887. Từ đấy đã có những viên Toàn quyền nổi đình nổi đám xứ Đông Dương, như Paul Doumer nhậm chức 1887, Paul Beau nhậm chức 1902, Antony Klobukowski nhậm chức 1908, Albert Sarraut nhậm chức 1911…Mỗi viên Toàn quyền đều để lại dấu ấn riêng về cách thức cai trị, dấu ấn riêng về những chiến tích trong việc thực thi triệt để chính sách thực dân.

 

Đối sách của người Pháp đã tạm qua thời kỳ dùng quân đội trực tiếp dẹp các cuộc khởi nghĩa của đám lãnh tụ nông dân và đám Cần Vương bảo hoàng. Lũ nổi dậy điên rồ ấy đã được dẹp bằng liên thanh và đại bác. Thời ấy đã qua. Bây giờ là thời kỳ dẹp loạn, dẹp các hội kín, nên đội quân mật thám và cảnh sát được chú trọng tăng cường. Lính khố đỏ là người bản xứ được tổ chức chính qui có nhiệm vụ chủ yếu là đánh dẹp các cuộc nổi dậy. Lính khố xanh có nhiệm vụ bảo vệ an ninh và tuần tra canh gác, đều được đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của người Pháp. Lính khố vàng bảo vệ kinh đô Huế. Người Pháp cần phải biết tận dụng người bản xứ làm tai mắt và làm tay sai cho mình. Đấy là phương sách tốt nhất để cai trị đám dân dị biệt ngôn ngữ và hạ đẳng này.

Kế nhiệm Alexander Varenne, Pasquier đến tiếp quản Phủ Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội. Đây là công trình kiến trúc do kiến trúc sư Charles Lichtenfelder thiết kế, theo phong cách cổ điển châu Âu, toát lên vẻ vừa hoành tráng vừa uy nghiêm vừa phô trương quyền lực. Phòng khánh tiết mang phong cách Louis XIV sang trọng, được xây dựng trong những năm 1901-1906. Cả công trình bề thế được toạ lạc ở trên khu đất rộng vốn xưa là đất của các làng Xuân Sơn, Khánh Sơn, Ngọc Hà. Công trình được vươn rộng ra, lấy cảnh quan thiên nhiên vườn Bách Thảo làm nền tôn cho kiến trúc thêm ngoạn mục.

Sau khi nhậm chức, Toàn quyền Pasquier lập tức cho triệu viên Thống sứ Bắc Kỳ Louis René Robin tới để bàn bạc về việc tăng cường an ninh toàn xứ, mà trọng tâm là Hà Nội. Pasquier nói:

– Tôi vâng lệnh nước Cộng hoà Pháp đến đây để cùng các chiến hữu hoàn thành xứ mệnh khai hóa xứ sở này. Tuy nhiên, tôi là người mới tới, dù rằng trước khi nhậm chức đã cố gắng khảo cứu các tài liệu, nhưng chưa thể hiểu biết xứ sở này bằng ông. Vậy ông hãy hiến kế và cùng cộng sự để hoàn thành đại sự nước Pháp giao phó.

Robin được cấp trên đề cao, thấy hởi lòng hởi dạ, liền thưa rằng:

– Xứ sở này quá nhiều những tên cứng đầu cứng cổ. Sau các cuộc khởi nghĩa của đám Cần Vương và nông dân bất trị bị tiêu diệt thì các dư đảng của chúng vẫn như loài cỏ, lại tìm cách ngóc đầu dậy. Cho nên việc tăng cường kiểm soát và trừng trị những kẻ phản loạn vẫn phải đặt lên hàng số một. Phải tập trung xây dựng đội quân ngầm trà trộn vào dân chúng để phát hiện những tên cầm đầu. Phải bóp nghẹt chúng từ trong trứng. Bắt nhầm hơn bỏ sót. Cứ bắt bớ tra tấn tù đày chúng sẽ phải nhụt trí. Ở đây là đối trọng giữa sắt thép và máu. Máu thịt nào chịu nổi sắt thép?

Robin rất thú vị khi đưa ra được hình ảnh so sánh. Còn Pasquier thì trầm ngâm. Không thể hiểu được thời anh chàng Toàn quyền tiền nhiệm Varenne đã nương nhẹ làm sao mà để Nam Đồng thư xã của bọn vô chính phủ hoạt động tuyên truyền, âm mưu nhồi nhét tư tưởng chống đối nhà nước, phải mất quá nhiều thời gian mới được dẹp bỏ. Hậu quả của việc nương nhẹ ấy đã nhỡn tiền là chuyện treo cờ và rải truyền đơn chống chính quyền bảo hộ của bọn nghịch đẳng đã diễn ra. Pasquier yêu cầu Robin nói rõ thêm tình hình Bắc Kỳ để còn có đối sách với những kẻ liều lĩnh, dám ngang nhiên gây chuyện bất yên giữa đất Hà Thành.

– Người xứ này hoàn toàn không đơn giản. Họ có truyền thống hàng nghìn năm chống phong kiến phương bắc. Trong lịch sử, họ có nhiều danh tướng, đã từng chiến thắng những đội quân lành nghề, kể cả quân Nguyên Mông từng chinh phạt khắp Á sang Âu, bằng các cách đánh linh hoạt mà họ đã đúc kết là lấy yếu thắng mạnh…Chắc ông nghiên cứu lịch sử nước này đã rõ, thời Trần họ có Trần Hưng Đạo và ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông; thời Lê họ có Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã chiến thắng quân Minh hùng cường; thời Nguyễn Huệ họ chiến thắng quân Thanh với hình ảnh Gò Đống Đa lấp đầy xương khô của kẻ bại trận. Có trận đánh chẳng kém gì Waterloo.

– Đấy là lịch sử đã qua. Còn bây giờ thì đã khác. Đối với người Pháp, sẽ chứng minh bằng sức mạnh của phi cơ và đại bác. Vậy cái nguyên nhân của phiến loạn là gì? Là gì?

Robin cười mỉm, cố tìm một câu trong Truyện Kiều ứng vào hoàn cảnh câu chuyện:

– Rằng hay thì thật là hay

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào…

Pasquier hỏi lại:

– Ngài nói vậy nghĩa là sao?

Robin bảo:

– Đấy là một câu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du nổi tiếng ở xứ sở này. Nhân chuyện nói phi cơ đại bác, tôi lại nghĩ, sức mạnh của chúng ta chẳng khác gì mãnh hổ vồ đàn ong. Chưa vồ được con nào thì đã bị ong đốt xưng mặt.

– Thật là thú vị! Đúng là ngài ở xứ sở này lâu đến thuộc cả Truyện Kiều! Mà Truyện Kiều thì trước khi sang đây, tôi đã tìm hiểu, dân xứ này coi là sách gối đầu giường, phải không?

– Vâng, nhiều câu trong Truyện Kiều như phương châm ứng xử, như vận vào thế sự. Dân Annam coi Truyện Kiều là tác phẩm của thế gian, áng văn thần, thi sấm của dân tộc. Cho nên, họ sinh ra chuyện bói Kiều. Như dự báo điềm lành điềm dữ. Chẳng hạn câu: “Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong”. Hoặc là câu: “Nhân duyên đâu lại còn mong”. Hay là câu “Có khi biến có khi thường. Ngồi chờ nước đến xem dường còn quê”. Mỗi câu ứng vào mỗi hoàn cảnh, thật là linh nghiệm.

– Nhưng tôi muốn hỏi cụ thể hơn điều mà ngài quan tâm hiện nay?

Robin từ tốn trả lời theo yêu cầu của viên Toàn quyền:

– Mầm mống của sự phiến loạn là do các hội kín ngấm ngầm hoạt động, ảnh hưởng của các tư tưởng dân chủ tự do từ bên ngoài du nhập, cộng với tính cách của dân bản địa, họ không chịu yên thân, luôn tìm cách chống phá nhà nước Đại Pháp. Ngay cả cái viện Dân biểu Bắc Kỳ do Toàn quyền Varenne ký Nghị định lập nên ngày 10 tháng 4 năm 1926, cũng có nhiều yêu sách không hợp với chính sách cai trị của Pháp quốc.

– Vậy phải vô hiệu hóa mọi hoạt động của chúng. Để đối phó với các hội kín, rất cần tăng cường cơ quan mật thám. Giao cho cơ quan này những quyền hạn tối đa. Củng cố cơ quan này từ đầu não tới cơ sở. Vừa đảm nhiệm vai trò tình báo vừa có vai trò giữ gìn an ninh. Vừa có chức năng điều tra vừa có chức năng trấn áp. Còn cái viện Dân biểu dân beo kia, nó có quyền gì mà đòi bàn chuyện chính trị? Để yên lúc nào thì được lúc ấy, chứ khi cần thì dẹp bỏ, khó gì?

– Tôi nghĩ, cái viện Dân biểu kia cũng chẳng cần để ý, vì dẹp lúc nào nên lúc ấy. Cứ để như bù nhìn có sao? Vấn đề chính là, phải lựa chọn những người mẫn cán, lành nghề, được đào tạo chỉn chu, thông thuộc xứ này, cùng với việc sử dụng những tên phản bội, cài cắm vào hàng ngũ của chúng, làm tai mắt từ bên trong.

– Vậy thì ai sẽ đảm nhiệm tốt việc này?

– Tôi sẽ trình bày với Louis Marty, Chánh mật thám Đông Dương, để tìm người vào chức vụ Chánh Sở mật thám ở Bắc Kỳ. Còn các tỉnh đều phải có các Sở mật thám để giúp ta kiểm soát tình hình. Chánh mật thám Bắc Kỳ không ai hơn Arnoux.

– Trước khi sang xứ Annam này, tôi đã trả lời phỏng vấn của phóng viên tờ Thần báo ở Paris rằng: sẽ noi theo các quan tiền lỵ, liên kết những tên trung thành ở bản xứ với Lang Sa, không dung thứ cho sự phiến động hoặc sự gì động chạm đến trật tự và trị an theo chính sách của nước Pháp, là những điều cần cho cuộc tấn bộ của thuộc địa.

Whisky được mở mừng ý tưởng gặp nhau giữa hai kẻ đang lãnh phận sự cao cả của những tên viễn chinh mẫn cán!

 

*

Trong khi Pasquier và Robin bàn bạc phương thức tiêu diệt các “hội kín” đang ngấm ngầm chống lại chế độ thực dân, thì tại Khách sạn Việt Nam, 38 Hàng Bông, thuê của Thuận Thành Ký, cũng đang có cuộc gặp mặt các yếu nhân của Việt Nam Quốc Dân đảng. Nơi này từ khi thành lập đã thực hiện vai trò vừa kinh doanh vừa là nơi liên lạc của tổ chức.

Lễ tân vừa là nhân viên phục vụ vừa là bảo vệ được bố trí gác ngay ở cửa khách sạn và ngoài phòng họp. Bữa nay, nếu người lạ tới thì báo hết chỗ nghỉ và không còn thức ăn phục vụ. Tình huống xấu xảy ra thì có mật hiệu để mọi người kịp xử lý.

Nguyễn Thái Học kiểm điểm lại kết quả của công tác phát triển tổ chức. Cả nước sau mùa thu năm 1928 đã có 120 chi bộ và đã kết nạp được hơn 1500 đảng viên, trong đó có 120 đảng viên trong giới quân sự là binh lính Việt tại ngũ trong quân đội Pháp. Ta đã nhằm chỗ sơ hở nhất của bộ máy cầm quyền để hoạt động. Anh Trúc Khê nhà văn, nhà báo giàu uy tín, Anh Nguyễn Triệu Luật hoạt động tích cực trong giáo giới, ảnh hưởng tới một số nhà giáo. Xem chừng bọn Pháp ít chú ý tới giới này, vì chúng vẫn coi mấy anh giáo “dài lưng tốn vải”, chỉ biết cầm phấn, biết gì chính sự..

Đoàn Trần Nghiệp cho rằng đã có những hoạt động gây được thanh thế của Việt Nam Quốc Dân đảng. Chẳng hạn như việc rất nhiều người trong mọi tầng lớp xã hội xin gia nhập đảng. Trong đó có nhiều người là chánh tổng lý trưởng hương hào ở nông thôn, các thương gia, giới trí thức và doanh nhân ở thành phố. Có nhiều người có hoàn cảnh đặc biệt. Trong số những người ấy, phải kể đến Nguyễn Văn Viên, học trò cũ của Nguyễn Khắc Nhu. Cha mẹ  Viên đi phu đều đã chết thảm thương trong đồn điền cao su Nam Bộ. Nay chỉ một thân một mình, ngày ngày đi làm thuê cho hãng Poinsard & Veyret. Là con người hăng hái nhiệt tình, không nề hà các nhiệm vụ được giao. Viên được Nguyễn Khắc Nhu giới thiệu đã tuyên thệ trước lá cờ đảng, không sợ hy sinh, làm việc gì dù nhỏ nhất cũng cố gắng, để làm một con dân có ích cho đất nước. Sau khi tuyên thệ, Viên đề nghị xin lãnh trách nhiệm ám sát tên Bazin, khét tiếng gian ác, trùm mộ phu để đưa đi các đồn điền cao su ở Nam Bộ và Cao Miên, Lào, Xiêm La, Tân Đảo, làm cho bao người cơ cực, bao gia đình tan nát, thân xác bón cho gốc cao su.

Nguyễn Thái Học để mọi người phát biểu hết chính kiến và những điều suy nghĩ nung nấu trong họ.

Hoàng Văn Đào, giọng nói vang ấm, trình bày về những điều anh hằng quan tâm:

– Nhìn vào lực lượng chúng ta ngày một thêm đông, điều đó chứng tỏ sự tự nguyện rất đáng quí. Nhưng để hoạt động được tốt thật không dễ dàng. Ngay như khách sạn ta đây, lúc đầu khai trương thì rất đông khách, số tiền thu được đóng góp cho việc mua súng đạn cũng khá. Nhưng có chuyện phao tin khách sạn ta chứa chấp “hội kín” và bọn du thủ du thực, nên khách khứa ngày một thưa vắng, họ không dám đến ăn nghỉ vì sợ bọn cò mật thám. Nguồn thu ngày càng suy giảm. Nếu không lo tới củng cố và cách thức hoạt động mới thì rất có nguy cơ đóng cửa.

– Tôi cho rằng ta chưa…chưa…chưa biết cách làm.

Phạm Thành Dương thuở nhỏ học trường Bưởi, đi lính làm y tá ở Đồn Thông, rồi làm việc tại trường bay Bạch Mai, được Nguyễn Thái Học giác ngộ, cử làm Trưởng ban binh vận, ngồi ở vị trí trung tâm, không thể không gây chú ý cho mọi người, vuốt mái tóc chải mượt, thong thả đứng dậy, tư thế thật trang nghiêm, giọng nói thật sôi nổi, vội vàng nói tiếp:

– Tôi cho rằng không có việc gì khó mà tổ chức chúng ta lại chịu bó tay. Phải lạc quan lên. Tôi nghĩ rằng các ý…ý kiến của mọi người là mới nói tới cái phần thủ thế, còn phần tiến công là ta phải gắng…gắng công hơn nữa. Đã gắng công là việc gì ta cũng…cũng làm bay tuốt. Tỷ dụ như việc treo băng cờ, thả truyền đơn ngay trước mũi của lũ mật thám, bọn chúng có làm…làm gì được ta đâu? Còn phần tôi, được tổ chức phân…phân công đã gắng công sản xuất được khá nhiều bom ở khu vực…vực Bạch Mai. Có kho tàng cất giữ hẳn hoi đàng…đàng hoàng, chỉ cần có động sự là thừa…thừa sức cung ứng số bom đánh vào các đồn bốt của quân…quân Pháp ở Hà Nội. Tôi cho rằng Khách sạn Việt Nam chưa phát huy được công…công dụng còn do bởi những ai phụ trách ở đây còn chưa…chưa đủ kinh nghiệm kinh doanh và chưa…chưa gây được thanh thế chỗ đứng trong…trong trường ganh đua.

Hoàng Phạm Trân thì nhấn mạnh thành công của công tác tuyên truyền. Anh cho rằng việc treo cờ và khẩu hiệu vừa rồi cần được phát huy. Đấu tranh bằng phương thức hòa bình là đấu tranh êm ả nhất, vẫn có thể làm lung lay hệ thống tư tưởng của chính quyền cai trị:

– Theo tôi nghĩ, mình hành động như vừa qua là quá mạo hiểm rồi. Không nên nghiêng về bạo động, mà phải đấu tranh bằng các giải pháp mềm dẻo, từng bước, như mưa dầm thấm lâu để đạt mục đích cuối cùng là thắng lợi mà không phải tổn hao sức người.

Phó Đức Chính cắt lời Hoàng Phạm Trân:

– Anh sợ chết à? Đấu tranh bằng con đường hòa bình không thể hơn được cụ Phan Chu Trinh, kết quả ra sao mọi người đã thấy. Theo tôi, việc đấu tranh kết hợp giữa tuyên truyền và vũ trang là phương cách tốt nhất. Phải chuẩn bị vũ trang khi có thời cơ. Lấy vũ trang giải quyết mọi vấn đề mà cách thức đấu tranh hòa bình không đạt được.

Phạm Thành Dương thì hăng hái ra mặt:

– Theo cá…cá nhân tôi thì như tôi đã nói, phải có trí trên trường ganh… ganh đua! Phải tỏ rõ Việt Nam Quốc Dân đảng của chúng ta thừa…thừa sự hăng hái. Việc khó khăn cứ giao cho…cho…cho tôi đảm…đảm nhiệm, tôi có thể vừa tham…tham mưu vừa trực tiếp chỉ…chỉ huy đấu tranh, chắc hẳn còn hơn nhiều…nhiều các anh ngồi…ngồi đây. Mọi việc đối với Thành Dương này như trở…trở bàn tay.

Phó Đức Chính phát biểu:

– Ta không bàn tới chuyện hơn thua ở đây. Tôi cho rằng ai thích hợp với công việc nào thì đảm nhiệm công việc đó. Còn việc tuyên truyền quần chúng nhân dân giác ngộ cùng tham gia chống thực dân là vô cùng cần thiết, nhưng không phải là phương pháp duy nhất. Cùng một lúc ta phải tích cực chuẩn bị cơ sở cho vũ trang. Muốn vậy ta phải chuẩn bị lực lượng có thể trực tiếp chiến đấu và vũ khí trang bị cho khởi sự tiến hành.

Phạm Thành Dương thầm hiểu Phó Đức Chính có ý phản ứng về câu tự đánh giá quá cao của mình. Dương biết rằng mọi người chưa hẳn đã đặt vị trí của Dương đúng với khả năng Dương có. Vốn trưởng thành trong một gia đình có học, Dương muốn khẳng định vai trò của mình bằng danh tiếng. Cha của Dương là ông Giáo Du, người vẫn được tiếng khôn ngoan, ưu thời mẫn thế, am tường thời cuộc, ứng phó khéo léo với mọi thời. Ông ấy thường dạy con “đời người là danh lợi, không đắc lợi phải đắc danh, không đắc danh phải đắc lợi”. Phạm Thành Dương vẫn cho rằng câu nói đó có chút ích kỷ nhưng mà đúng. Muốn có danh lợi phải lựa thời. Phải làm sao cho thiên hạ biết đến mình. Không gì hơn là tự quảng bá. Ngồi trong góc nhà, không lên tiếng thì ai biết? Dù sao thì Phạm Thành Dương cũng đã làm cho mọi người biết đến mình. Mai sau thành sự, hẳn mình sẽ có vị trí xứng đáng. Cân nhắc từng lời, Dương nói:

– Vấn đề tôi nói đến không phải là chuyện hơn thua, có thể tôi diễn đạt chưa…chưa đúng ý. Tôi muốn nhấn…nhấn mạnh trách nhiệm. Khả năng tôi có thể gánh vác công việc nặng…nặng nề hơn. Tổ chức phải tin ở tôi.

Đoàn Trần Nghiệp cắt ngang lời Dương:

– Tất nhiên, ở trong cùng một  tổ chức thì phải tin nhau. Vấn đề đáng quan tâm là hoạt động sao cho hiệu quả, đạt được mục đích đấu tranh từng thời đoạn. Tôi tán thành ý kiến của anh Phó Đức Chính, phải kết hợp chặt chẽ giữa phương thức đấu tranh tuyên truyền và chuẩn bị vũ trang, tiến tới những trận đánh gây thanh thế cho cách mạng, làm cho kẻ thù không kịp trở tay. Đấy mới là toàn tâm toàn ý cho thắng lợi của cách mạng.

Hoàng Phạm Trân bảo vệ chủ kiến:

– Vâng, tôi vẫn cho rằng đấu tranh hoà bình là thượng sách lúc này. Ta không thể dùng tay trắng để bẻ gãy sắt thép. Ta dấn thân không có nghĩa là liều mạng. Ta cần đấu tranh hợp thức.

Phó Đức Chính cũng đeo đẳng ý tưởng của mình, cho rằng Hoàng Phạm Trân đang chọn con đường nhung lụa để đi đến thắng lợi:

– Con đường anh Trân chọn chỉ là ảo tưởng. Không bao giờ kẻ thống trị lại dễ dàng nhượng bộ khi chưa ngấm những đòn tấn công đích đáng. Chỉ có điều khi nào thực hiện còn tuỳ thuộc vào khả năng và điều kiện cụ thể với sự nỗ lực hết sức của chúng ta.

Phạm Thành Dương vẫn một giọng tự đắc:

– Tôi cho rằng mọi vấn…vấn đề đều trông…trông chờ ở sự sáng suốt. Tôi được giao Trưởng ban binh vận. Tôi đã từng nắm trong tay lực…lực lượng cất giấu bom mìn. Không có tôi hẳn vấn…vấn đề này khó khăn vô cùng. Nhưng khó…khó khăn có cách vượt qua khó khăn. Chỉ có điều bản…bản trách của tôi có hạn mà khả…khả năng của tôi thì còn nhiều. Tôi đề nghị không cần tranh…tranh luận về các vấn đề. Mà phải thấy hết khả…khả năng từng người. Riêng tôi, nếu được phân…phân công đúng khả năng, tôi sẽ có thể đứng vào…vào vị trí lãnh đạo.

Nguyễn Thái Học lắng nghe ý kiến của mọi người, thấy rằng cần phải có chính kiến làm sao thống nhất được ý chí để mọi người cùng hành động:

– Vâng, tôi đã nghe thấu ý kiến của từng người. Ai cũng nhiệt tâm vì công việc. Nhưng ý kiến mọi người chưa phải đã đồng nhất. Ai cũng có chủ kiến. Đó là điều cần thiết, để ta có được chính kiến chung. Mang trách nhiệm của toàn đảng tôi xin nêu ý kiến như sau:

Một: Kiểm điểm công tác vừa qua chúng ta đã làm được một số việc thật đáng kể. Đó là việc phát triển tổ chức. Lôi cuốn được nhiều người ở nhiều thành phần xã hội tự nguyện gia nhập đảng và trực tiếp tham gia các hoạt động ủng hộ đảng. Đây là việc làm tối cần thiết có tính sống còn để đảng ngày càng được vững mạnh. Việc này còn phải tiếp tục tích cực hơn nữa, nhưng cần lưu ý là phải kết nạp những ai thật tâm và nhiệt huyết.

Hai: Các chi bộ Hà Nội đã có nhiều hoạt động tích cực. Việc gây quỹ đảng đã thu hút được từ hai nguồn, tiền ủng hộ của những người hữu sản yêu nước và thu từ hoạt động kinh doanh khách sạn. Đây chính là nguồn nuôi dưỡng đảng và các hoạt động của đảng. Tôi đề nghị việc này phải được làm dáo diết hơn nữa, tích cực hơn nữa mới có đủ nguồn tài chính chi phí cho những công việc đòi hỏi không thể không có của hoạt động cách mạng. Đoàn Trần Nghiệp sẽ thay mặt đảng phụ trách thư ký thu chi ở đây.

Ba: Một số việc đáng lưu ý trong hoạt động vừa qua cần phải được uốn nắn cho đúng với mục đích yêu cầu là: công tác tuyên truyền cần cẩn trọng hơn, tránh lộ liễu và tránh quá kích động làm cho những kẻ thống trị kiếm cớ đàn áp phong trào. Việc đảng viên Nguyễn Văn Viên đề xuất ám sát trùm mộ phu Bazin, rất đáng hoan nghênh tinh thần hăng hái dám hành động, nhưng chưa phải lúc, vì như vậy “lợi bất cập hại”, bọn thống trị sẽ thẳng tay đàn áp. Chúng sẽ khủng bố và bắt những người mà mật thám đã đưa vào “sổ đen”. Ta diệt được một tên Bazin, chúng sẽ nảy ra nhiều tên Bazin khác. Lúc này ta cần bảo toàn lực lượng, phát triển lực lượng, chứ chưa phải thời kỳ tổng công kích cách mạng. Bazin chỉ là cái cành, chặt gốc thì cành khắc héo.

Điều cần chú ý là phải phối hợp với phong trào cách mạng cả nước, không phải chỉ cục bộ Hà Nội. Ở đây là trung tâm của cả nước, có thể nhanh nhậy về tin tức, nhưng thế lực của chính quyền thực dân, quân đội cảnh sát còn mạnh, ta phải chuyển phong trào về các địa phương, nơi bọn họ ít ngờ nhất, thì các hoạt động của ta mới thuận lợi được. Tổ chức của ta ở Đồng Bằng và Đông Bắc đã phát triển, chúng ta phải chuyển hướng sang vùng Trung Du và Tây Bắc từ Vĩnh Phúc, Vĩnh Yên, Sơn Tây, Phú Thọ đến Yên Bái. Chú trọng tuyên truyền lôi kéo các binh sĩ người Việt, lấy vũ khí của Tây đánh Tây.

Chúng ta phải đặc biệt giữ gìn bí mật và giữ gìn kỷ luật của đảng. Điều này mỗi lần tuyên thệ từng đảng viên đã thề, cũng là điều nhắc nhở mỗi đảng viên muốn xứng đáng mỗi ngày phải tự kết nạp mình một lần. Không gì bằng sự tự giác dấn thân cho cách mạng của mỗi người. Càng khó khăn càng đòi hỏi trí tuệ và sự khôn khéo của tổ chức chúng ta. Tôi tin tưởng ở mỗi thành viên sự trí tuệ và sự nhanh nhẹn trong hoạt động.

Đặc biệt chúng ta hoạt động không hề nhằm tranh giành chức nọ quyền kia, mà là để gánh vác những nhọc nhằn, những hi sinh không sao lường hết được. Lúc này độc lập dân tộc là trên hết. Chúng ta cần chung sức giành lại đất nước, tôi kêu gọi mọi người gác lại mọi riêng tư để thực hiện lý tưởng cao cả mà mỗi chúng ta mong muốn.

 

*

Phạm Thành Dương trở về nhà mà vẫn thấy có gì chưa thật thoả mãn. Hình như mọi người chưa thấy hết khả năng của Dương. Những điều Nguyễn Thái Học nói chỉ là chung chung, nặng về kêu gọi. Nói rằng tin ở mọi người, mà chưa dám giao trọng trách chỉ huy địa bàn Hà Nội cho Dương. Vai trò của Ký con Đoàn Trần Nghiệp vẫn nổi trội hơn đối với các hoạt động ở Hà Nội. So với Nghiệp thì Dương nào có kém? Vậy mà Dương vẫn lép vế hơn? Tuy bực bội trong lòng, nhưng chả nhẽ lại nói toạc ra ngay trong cuộc họp.

Rồi Phó Đức Chính nữa, hắn chỉ đáng tuổi đàn em, thế mà Nguyễn Thái Học có vẻ tin tưởng giao trọng trách quá lớn. Vai trò đảng trưởng của Nguyễn Thái Học thì không dám so bì. Nhưng cánh Nghiệp – Chính thì có gì đáng kể. Dương lẩm bẩm một mình, phen này ta sẽ đi theo cách của ta!

Giáo Du thấy con trai về trong nét mặt hằn những vẻ tăm tối, liền hỏi:

– Sao con về muộn vậy? Chắc có điều gì không hài lòng?

Phạm Thành Dương trả lời ầm ừ trong họng:

– Vâng, không có gì!

Giáo Du vẫn hỏi dồn:

– Rõ ràng là có chuyện. Tôi trông sắc mặt anh tôi biết. Chắc lại dây dưa vào cái hội kín hội hở nhà các anh chứ gì?

Phạm Thành Dương chưa hết day dứt, nhưng nhớ tới lời tuyên thệ giữ bí mật của tổ chức, liền nói tránh sang chuyện khác. Nhưng Giáo Du vẫn diết dóng:

– Tôi truyền đời cho anh biết, đừng có vướng vào những chuyện tày đình, không đâu vào đâu. Thế lực người ta hùng mạnh, một nhúm người nổi loạn, không tấc sắt trong tay mà đòi đấu với tàu bay tàu bò, khác gì châu chấu đá xe? Mấy ngày nay đâu cũng thấy cờ quạt, truyền đơn, biểu ngữ phản đối nhà cầm quyền treo khắp nơi. Đi đâu cũng thấy rì rầm bàn tán về chuyện vuốt râu hùm. Người ta sẽ không để yên cho đâu. Anh có thấy trên phố nhan nhản cảnh binh không? Rồi còn mật thám ngầm trà trộn vào trong mọi xó xỉnh. Cứ sa đà vào những chuyện rắc rối trước sau cũng khốn nạn đấy.

Phạm Thành Dương phản ứng yếu ớt:

– Bố không phải lo. Con có trí khôn…khôn của con.

– Khôn gì mà khôn? Trẻ người non dạ như anh, ngựa non háu đá. Tôi là tôi cấm đấy!

Phạm Thành Dương không nói gì thêm, lặng lẽ vào phòng riêng.

 

*

Ngồi lại với Phó Đức Chính để bàn thêm một số công việc cần thiết nữa, Nguyễn Thái Học nói:

– Chính này, mình chưa thật yên tâm về việc Nguyễn Văn Viên đề xuất ám sát Bazin đâu. Làm việc gì cũng phải tính toán kỹ, không thể sốc nổi được. Tuổi trẻ chúng mình nhiều khi hăng hái quá cũng dễ làm hỏng việc. Các cụ xưa hay nói thế nào nhỉ? Phải rồi, hăng máu vịt, hăng máu vịt là dễ chết lắm! Cho nên, Chính cũng phải để ý việc này. Cấm, cấm đấy!

– Tôi cũng nghĩ phải làm thế nào đừng để xảy ra hậu quả lớn. Đang lúc chúng ta còn phải giữ kín lực lượng của thời kỳ bí mật. Tôi sẽ trao đổi kỹ việc này với Nguyễn Văn Viên.

Còn một việc nữa, Nguyễn Thái Học cứ đắn đo, suy tính, chưa  rõ thực hư, nhưng không thể không nói với Phó Đức Chính, đó là thái độ của Phạm Thành Dương trong cuộc họp vừa xảy ra. Rõ ràng, Phạm Thành Dương là do anh thu nạp khi cậu ta còn làm y tá ở Đồn Thông. Cậu ấy đã làm được một số việc đáng kể. Chẳng hạn, vận động được một số anh em ở Bạch Mai vào Quốc Dân đảng, tổ chức  đúc được một số bom tay, cất giấu ở làng Bạch Mai và Thái Hà ấp. Dương đã có lần lên tận Yên Tử, tận sông Lai Hà gặp Nguyễn Thái Học để nhận nhiệm vụ bàn phương lược đánh chiếm trường bay Bạch Mai. Nhưng sao hôm nay, tự dưng cậu ta lại có những ý kiến bất bình thường. Có vẻ như nghi kỵ gì đó. Làm cách mạng mà đem lòng đố kỵ vào công việc thì thật nguy hiểm. Nguyễn Thái Học bỗng hỏi Phó Đức Chính:

– Chính thấy những câu phát biểu của Dương thế nào?

– Thấy bất bình thường. Hình như anh ấy có gì ẩn ức. Thực ra lúc đầu tôi không thật để ý cho lắm, nhưng khi anh ấy nói rằng “khả năng hơn nhiều người”, với lại “nếu phân công đúng khả năng… phải là lãnh đạo”, thì tôi thấy trong suy nghĩ của anh ấy có vấn đề, chứ không phải đơn thuần.

– Tôi cũng thấy thế, nên đã phải có những câu nói nhằm uốn nắn những lệch lạc của cá nhân.

– Dù sao cũng cần phải chỉnh đốn kịp thời!

– Đúng vậy! Còn bây giờ chúng ta bàn thêm với nhau về chuyến đi về cơ sở sắp tới ở vùng Vĩnh Tường, Vĩnh Yên.

– Tôi với anh đi cùng chuyến này nhỉ?

– Tất nhiên là đi cùng, nhưng Chính phải đóng vai phụ việc cho ông chủ, lên mạn ngược buôn trâu cùng với mình.

– Ôi thế thì còn gì bằng, em sẽ gắng học cách buôn trâu mười chuyến lỗ chín của ông anh!

Nguyễn Thái Học cười phá lên. Rất thú vị với nhận xét về tài đi buôn của Nguyễn Thái Học. Có lần, đi buôn trâu tận rừng Yên Bái về bán cho lái trâu Sơn Tây, trừ đầu trừ đuôi, trừ ăn trừ uống, lỗ hẳn một nửa!

Phó Đức Chính cảm thấy rất sảng khoái khi được Nguyễn Thái Học kéo đi cùng. Ngoài công việc vẫn là những chuyện tâm tình. Đôi khi được nghe những lời khuyên rất chí lý. Còn Nguyễn Thái Học cũng tiếp thu được ở người bạn trẻ những ý tưởng táo bạo. Những xử lý quyết đoán thông minh. Bỗng Nguyễn Thái Học sực nhớ chuyện chia tay của Chính với Thắm thì hỏi:

– Thắm còn viết thư cho Chính không?

– Vẫn viết anh Học ạ! Tội cho cô ấy quá!  Nhưng em đã quyết rồi. Thật khó lòng làm khác được!

– Rồi cũng phải xem. Nếu chúng ta giành được thắng lợi, lúc ấy Thắm vẫn đợi thì sao?

– Thì còn gì bằng? Chúng ta đều là con người chứ có phải gỗ đá đâu. Chia tay với Thắm, em cũng đau lắm. Nhưng chắc rồi Thắm sẽ hiểu.

Hai lái buôn trâu bất đắc dĩ cũng tay nải, cũng áo tơi, nón lá, chẳng khác gì lái buôn đường trường! Theo con đường vượt qua Sơn Tây, sang đất Vĩnh Yên, tạm xa đất Hà Nội, chưa biết bao giờ trở lại.

 

 

 

 

 

 

  

  

 

 

  

 

 Chương IX

TÌNH SỬ VÀ CUỘC DẤN THÂN

 

                                                                       Nhìn vào mắt nhau nhìn vào thử thách

                                                                       Khát khao những giây phút bình yên

                                                                       Có một ngày trái tim bỗng trĩu nặng

                                                                       Thèm chở che cỏ dại cất lời thiêng                                  

Để nắm tình hình cụ thể các chi bộ hoạt động ở vùng trung du và miền núi, Nguyễn Thái Học đã thư bí mật cho những người có trách nhiệm thuộc khu vực họp mặt tại một ngôi chùa gần điếm canh đê bên bờ sông Hồng. Đây là một địa điểm vắng vẻ, có độ an toàn cao. Ngoài đê là rặng tre có thể ẩn náu khi cần. Người canh đê cũng là người canh gác luôn cho cuộc họp.

Nguyễn Thị Giang cẩn trọng đọc lại bức thư triệu tập. Thư do Nguyễn Thái Học giao cho Nguyễn Thị Giang, liên lạc tin cẩn đưa tới các thành viên. Nội dung là các ký tín hiệu đã quy ước, chỉ người trong cùng tổ chức đọc mới hiểu. Thư viết bằng nước cơm trên giấy gió. Thấm nhẹ qua nước là chữ hiện lên. Đấy là cách làm sơ đẳng nhất, khi phải giữ gìn bí mật. Thư được cuộn nhỏ cho vào cọng bấc, ít ai để ý. Giang thận trọng nhớ kỹ nội dung, rồi xé vụn tờ giấy.

Kể từ khi chia tay với Nguyễn Thái Học vào đầu năm 1928 ở Bắc Ninh, cách đến mấy tháng mới có điều kiện gặp lại nhau. Lần ấy, Nguyễn Khắc Nhu đã tạo cơ hội tuyệt vời cho Học và Giang gần gũi, cùng đi trên một chặng đường. Tuy nhiên, vì nhiệm vụ nên hai người chỉ bàn tới công việc. Trong thâm tâm Nguyễn Thị Giang rất vui bởi nhiệm vụ Nguyễn Thái Học giao đã được cô hoàn thành khá trôi chảy. Phải nói rằng dưới con mắt nhạy cảm của người khác giới, Giang thấy Học rất tế nhị và dễ cảm mến.

Giang vẫn nhớ câu Nguyễn Thái Học nói lúc chia tay: “Em hát quan họ thật là có duyên, anh không thể nào quên được”. Câu nói ấy hàm nhiều ý tứ. Cũng là cái duyên như thể trời đất sắp đặt. Nếu không có việc nhập Việt Nam Dân Quốc vào với Việt Nam Quốc Dân đảng thì làm sao có được cuộc hội ngộ giữa Giang, cô gái tròn hai mươi, với Học, tuổi hai nhăm.  Không hiểu cớ gì mà Giang cứ bồn chồn từ lúc nhận thư triệu tập. Chỉ lo vì lý do gì đó mà cuộc họp bị hoãn lại. Trong hoạt động cách mạng, ai lường hết được mọi tình huống.

Từ khi được tổ chức phân công làm giao liên và binh vận, Nguyễn Thị Giang có dịp gần gũi Nguyễn Thái Học nhiều hơn. Tuy vậy, Giang vẫn mong ngóng những lần được gặp gỡ nhiều hơn nữa, để được nhìn, được nghe Học nói về công việc và những tình huống phải vượt qua đối với người cách mạng.

Trong đêm trăng suông, cảnh vật như huyền ảo. Sương đẫm vai. Giang guồng nhanh bước chân. Đôi lần vấp phải vết chân trâu, suýt ngã nhào. Chỉ lo đến chậm trễ. Mọi người tề tựu trong ngôi chùa Dẫn Tự, cảnh vật tĩnh mịch, cách điếm canh đê một đoạn. Không ai gây tiếng động mạnh, như có thể nghe rõ tiếng muỗi vo ve. Thỉnh thoảng một cơn gió từ mặt sông thổi lên mang theo hơi lạnh se se, làm đung đưa cành lá đa cổ thụ.

Giang thấy nao nao trong lòng khi nghe tiếng Nguyễn Thái Học nói:

– Hôm nay chúng ta họp những người có trọng trách ở khu vực, để kiểm điểm những việc ta đã thu được và ấn định những việc làm sắp tới. Rất đáng hoan nghênh các đại biểu được triệu tập không thiếu người nào. Chúng ta có thể lần lượt nêu lên kết quả hoạt động của từng người, từng chi bộ đảng, từng địa bàn. Tôi đề nghị từng cơ sở báo cáo về những công việc đã làm được. Vâng, xin để đại biểu Vĩnh Yên nói trước.

Đại biểu Vũ Văn Giản tức Hồng Khanh nói:

– Vĩnh Yên, tiêu biểu là Vĩnh Tường, các chi bộ ngoài Thổ Tang, đã lan ra các xã Đại Đồng, Vĩnh Sơn, Tuân Chính, Thượng Trưng, Tân Cương, Vũ Di…Phong trào tiến triển có phần thận trọng, bởi vùng này nằm trong tầm ngắm của mật thám, vì là nơi có nhiều người nổi lên chống Pháp, như ông Lãnh Sâm, ông Đội Cấn trước đây.

Đại biểu Nguyễn Nhật Thân ở Phú Thọ trình bày:

– Là địa bàn nối tiếp đồng bằng với miền núi, Phú Thọ đã xây dựng cơ sở chi bộ ở các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Tam Nông, Thanh Thuỷ, Cẩm Khê. Mạnh nhất là Lâm Thao, với các xã Xuân Lũng, Cao Mại, Kinh Kệ, Chu Hoá, Sơn Dương. Trong Lâm Thao, mạnh nhất là Xuân Lũng, chi bộ có tới 27 đảng viên. Rồi đến Võng La của huyện Thanh Thuỷ. Ở Xuân Lũng, ông Tổng sư Đặng Văn Hợp làm chi bộ trưởng, ông Bùi Tư Toàn làm Tư lệnh, cùng với các ông ký, ông đồ, tài xế xe lửa, đã lập nên bốn ban: tuyên truyền, tổ chức, trinh sát và tài chính để dễ bề hoạt động. Nhiều chị em bỏ tiền mua vải “con trâu xanh” may cờ và mua xi măng về đúc vỏ bom tay cho cách mạng. Chi bộ Cao Mại do Nguyễn Như Liên tức Ngọc Tỉnh đứng đầu đã tập hợp cả ba anh em ruột cùng anh em bạn bè vào đảng.

Đại biểu Hải Dương báo cáo:

– Nhiều nhóm Việt Nam Quốc Dân đảng đã đi vào hoạt động mạnh ở các huyện Cẩm Giàng, Nam Sách, Thanh Hà, lan sang Vĩnh Bảo, đã thu hút nhiều thân hào, thân sĩ, và vệ binh các xã tham gia tổ chức. Tiêu biểu là chi bộ xã Lang Can, huyện Thanh Hà, là chỗ dựa tin cậy trở thành cơ sở của lãnh đạo đảng. Ở đây chi bộ đã lập trường quân chính, đang tích cực lập kho lương thực, rèn dáo mác, tự tạo bom tay, làm băng cờ biểu ngữ, sẵn sàng chờ lệnh nổi dậy.

Các đại biểu tỉnh khác lần lượt báo cáo về tình hình hoạt động ở địa bàn hoạt động mình được đảm trách. Không khí cách mạng thật sôi sục. Nhiều người nóng lòng mong được thấy ngày đứng dậy đánh đuổi quân dị chủng ra khỏi đất nước. Nhiều người sẵn sàng hiến tiền bạc ủng hộ cách mạng.

Nguyễn Thị Giang được sự uỷ nhiệm của chị Nguyễn Thị Bắc đã thuật lại việc vận động tuyên truyền giác ngộ binh sĩ đồn trú tại Yên Bái. Chị Bắc đã đóng giả là “em gái” của Cai Thuyết để đi lại dễ dàng trong trại con gái và khu trại lính. Thành công nhất là đã lập được chi bộ ngay trong hàng ngũ binh lính người Việt. Họ đã tổ chức sinh hoạt bí mật, cung cấp tin tức cần thiết cho chị Bắc. Những người có uy tín trong đội ngũ binh lính như Quản Cầm, Cai Hoằng, Cai Tiệp, Cai Lương đều là hạt nhân đáng tin cậy.

Tiếng của Giang nhỏ nhẹ, nhưng rõ ràng, mạch lạc:

– Kết quả của đội quân binh vận do các nữ đảng viên đảm nhiệm đã vượt xa mong muốn ban đầu. Đội quân ấy càng ngày càng đông thêm. Ngoài ba chị em ruột Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang, Nguyễn Thị Tỉnh làm nòng cốt. Giờ còn có Đỗ Thị Tâm, Nguyễn Thị Nhất, Lê Thị Thành, Nguyễn Thị Thuyết và bao cô gái khác đều hăng hái nhập đội quân binh vận. Ở Hà Nội có thêm các nữ sinh Nhất Chi Mai, Hương Bình, Thanh Tính, Kim Khuê, Cẩm Thuỷ, Nguyễn Thị Vân…rất nhiệt tâm tham gia may quần áo và giúp đỡ cách mạng. Phong trào phụ nữ lan rộng, ngay cả chị Lê Thị Thăng vợ anh Nguyễn Ngọc Sơn ở Gia Lâm, chị Nguyễn Thị Thuyết nhà buôn lớn, cũng tham gia tổ chức.

Nguyễn Thái Học càng thấy rõ vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp chung và tự thấy sai lầm của mình trước đây đã không kết nạp lực lượng phụ nữ vào tổ chức của mình. Anh thầm nghĩ nếu thiếu Giang lúc này thì thiệt thòi biết bao. Ai sẽ làm tốt hơn nhiệm vụ giao thông liên lạc trong hoàn cảnh khó khăn này? Ai sẽ làm tốt hơn công việc vận động chị em tham gia cách mạng? Khó có người vừa hiểu biết, vừa tháo vát, vừa thông minh trong xử lý các tình huống cam go trên những chặng đường phải trải qua. Vượt qua con mắt rình mò của mật thám nhan nhản khắp nơi, rất cần những người có khả năng ứng phó linh hoạt và khôn khéo như Giang.

Nguyễn Thái Học nói thêm:

– Rất đáng mừng là chúng ta đã kết nạp được nhiều người có khả năng vật chất giúp đỡ cách mạng. Ví dụ như: Tuần phủ Quách Vy ở Hòa Bình, Phó lý Dương Quang, Phó lý Quan Khê ở Bắc Ninh, Lý Thống ở Gia Bình, Bang Lịch ở Chí Linh – Hải Dương…

Nhật Thân phụ họa: – Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của lãnh tụ Nguyễn Thái Học về phát triển lực lượng, chuẩn bị cho lâu dài.

Nguyễn Thái Học nói ngay: – Ta nên gạt bỏ tư tưởng lãnh tụ ngồi trên mọi người. Đừng gọi tôi là lãnh tụ. Như thế là phong kiến. Muốn làm việc cho dân cho nước phải bình đẳng. Muốn duy trì kỷ luật thì tự ta tạo lấy, tôi muốn chúng ta bình đẳng. Chỉ có bình đẳng chúng ta mới thực sự là người cách mạng.

 

Không được phép kéo dài cuộc họp, đề phòng mọi bất trắc, Nguyễn Thái Học yêu cầu mọi người ghi nhớ những nhiệm vụ cần làm, tiếp tục tuyên truyền vận động những người cùng chí hướng chống thực dân Pháp, cùng nhau góp của góp công, xây dựng lực lượng đứng lên giải phóng đất nước. Tiếp tục làm công việc binh vận, tranh thủ sự hiểu biết về quân sự của binh lính và vũ khí trang bị sẵn có, làm lực lượng nội ứng khi khởi sự. Điều này phải học và rút kinh nghiệm từ việc vận động binh sĩ ở Bắc Giang, ở Yên Bái.

 

*

Hai người, một trai một gái trên đường về Thổ Tang, đã dừng lại bên quán nước gốc đa Đồng Vệ tâm sự. Quán nuớc của bà già trong xóm, ban ngày bán quà bánh, củ khoai củ sắn, cho khách làm đồng nghỉ ngơi và khách vãng lai qua đường tránh mưa tránh nắng, ban tối dọn ấm chén về nhà, chỉ còn lại chiếc lán nhỏ với chiếc ghế bằng gióng tre.

Suốt từ Lập Thạch nơi Giáo Giản dạy học đến Vĩnh Tường, nơi nào cũng có cơ sở của Việt Nam Quốc Dân đảng, nên việc đi lại của Nguyễn Thái Học ở đâu cũng có người che chở bảo vệ. Tuy nhiên, Học tự nhủ không được phép chủ quan, vẫn phải đề phòng những bất chắc.

Đường về Thổ Tang chỉ còn một đoạn không xa. Cảnh vật ban đêm chỉ thấy mờ mờ phía chân trời. Ếch nhái kêu rinh ran khắp đồng. Con đường đất nối làng với quốc lộ đoạn từ Vĩnh Yên lên Việt Trì chỉ thấy nhờ nhờ một vệt trong màn tối. Nguyễn Thái Học kêu mỏi chân, nên dừng nghỉ một chút.

Thực tình, Nguyễn Thái Học muốn dừng lại đây để được gần Giang lâu hơn. Trong thâm tâm Học, hình như đây là sự sắp đặt của tạo hoá. Anh thầm cảm ơn tạo hoá. Chưa có cô gái nào làm anh dễ xúc động bằng Giang. Cô không phải là người có vẻ đẹp toát ra bề ngoài. Vẻ đẹp ấy là gương mặt phúc hậu, là nét cười chân thực đằm thắm. Và, đặc biệt là giọng nói thanh và dịu, chứa đựng tư chất thông minh, hiền thục, quả quyết. Như tất cả phụ nữ cùng thời, Giang mặc chiếc áo nâu, đầu vấn khăn để tóc đuôi gà, trông thật nền nã.

Cũng chưa bao giờ trước người khác, Học lại tỏ ra lúng túng ngọng ngượng như trước Giang. Học như thấy tim mình đập không bình thường. Dồn dập chả khác gì trống làng.

Còn Giang thấy lòng càng cảm mến thủ lĩnh của đảng. Giang không thấy Học cao siêu, mà gần gũi, tin tưởng. Giang nể phục Học qua sự nể phục của mọi thành viên trong đảng đối với người đứng đầu đảng. Học sử lý mọi tình huống khá nhanh nhậy, bằng một lối suy nghĩ chắc chắn, nhiệt thành, thể hiện rõ phẩm chất của người đứng mũi chịu sào trong tổ chức.

Đây là cơ hội tuyệt vời để Học nói lên tình cảm của mình trước người con gái mà anh thầm để ý. Học rất khó khăn để tìm một câu tỏ tình. Bây giờ nói ra cái điều ấy có tiện không nhỉ? Nói chuyện yêu đương lúc này liệu có gì chưa phải? Giang đánh giá thế nào nếu mình ngỏ lời yêu? …Hàng chục câu hỏi cứ đảo lộn trong đầu Học. Mãi rồi Học mới tìm được cớ để nói. Mở đầu lại là câu cực kỳ vu vơ vô nghĩa:

– Gió quá nhỉ! Cô Giang có thấy lạnh không?

Giang trả lời khe khẽ:

– Vâng, gió quá! Hình như sắp mưa!

– Mưa thì mát lắm nhỉ!

– Mát lắm!

– Mưa giữa cánh đồng không áo tơi thì ướt hết!

– Vâng, ướt!

– Giang có thể gắn bó với tôi…

– Anh nói cái gì cơ?

– Có nghĩa là… nghĩa là…

– Sao anh khó nói vậy?

– Tôi muốn em…không chỉ là đồng chí, mà là người gắn bó nhất, hơn cả tình bạn…

– Em…vâng…tuỳ anh…

Tự dưng Học nắm lấy tay Giang. Hai người đều run bắn như điện giật. Giang để yên bàn tay nhỏ nhắn của mình trong bàn tay to khoẻ của Học. Họ im lặng khá lâu, có thể nghe rõ tiếng tim đập thình thịch trong ngực mỗi ngưòi. Rồi Học kéo Giang lại sát mình, định đặt cái hôn lên má, nhưng đôi môi lại tìm gặp môi Giang.

Và, không phải giải thích, họ cứ muốn ôm nhau mãi. Giang khẽ đẩy Học ra và hỏi:

– Bây giờ thì anh có còn định không kết nạp phụ nữ vào đảng không?

– Thôi thôi mà, nhắc sai lầm cũ của anh làm gì?

– Thế mà suýt nữa cánh phụ nữ chúng em phải đứng ngoài tổ chức đấy!

– Cho anh sửa sai lần nữa này!

Nói rồi, Học ôm lấy Giang và hôn nồng nàn.

Giang chỉ kịp nói “Khôn thế! Gian thế!” rồi lặng đi trong mê đắm nhiệt cuồng yêu đương.

Chỉ hai người giữa chốn đồng không mông quạnh, để Học yên tâm về tình cảm Giang dành cho Học, Giang nói nhỏ bằng tiếng Pháp, nhưng Học nghe rõ từng chữ:

– Je t’aime beaucoup et aussi notre but. (Em rất thương anh. Và yêu sự nghiệp của chúng mình).

– Moi aussi. Ma bien aimée. Je te respecte toujours. (Anh cũng vậy. Anh tin em. Cô gái mà anh thực lòng quí trọng).

Giang thấy trong lòng tràn đầy hạnh phúc. Cùng hoạt động cách mạng với nhau, vừa là đồng chí của nhau, vừa là người yêu nhau, thật là lý tưởng. Sẽ càng cảm thông với nhau trong mọi công việc. Không phải đắn đo dò xét. Những điều quan tâm của Học cũng là điều quan tâm của Giang. Càng yêu nhau càng gắng sức làm việc cho cách mạng. Giang mong ước mình sẽ giúp Nguyễn Thái Học trên mọi công việc có thể. Giang nguyện làm tham mưu, làm người bạn gắn bó suốt đời với Học. Nghĩ thế, Giang lại nói:

– Nhưng anh Học này, người đi đạo họ lấy Chúa để thề bồi chung thuỷ với nhau, thế còn anh và em lấy gì để thề?

– Lấy tính mạng ra để thề! Em tin như thế đi!

– Nhưng phải có thủ tục chứ!

– Mai, ta sẽ thắp hương ở Miếu Trúc và đền Thổ Tang để trình với linh thần, thổ địa, chấp nhận người con gái này là thành viên của mới của làng.

– Việc đấy rất nên làm, không thể sao nhãng được. Tình yêu của chúng mình phải được tổ tông chấp thuận, quỷ thần chứng giám. Mình không mê tín. Nhưng không được phép hành xử như một kẻ vô thần kém hiểu biết.

– Về xin mẹ thẻ hương. Mượn làn khói linh để chứng giám lòng thành.

– Sớm mai nhé! Rất sớm để em được chiêm bái những bậc nhân thần đã có công với làng với nước, để còn tiếp tục công việc cho được an lành. Dù sao, vẫn cần phải giữ bí mật, vì yêu cầu chung của tổ chức.

– Được rồi! được rồi! Anh và em sẽ thắp hương cầu mong các đấng linh thiêng phù hộ cho mọi việc hanh thông. Để hai đứa mình gắn bó trọn đời.

Trầm ngâm một lát, Nguyễn Thái Học bỗng nói câu như gở miệng:

– Bước đường cách mạng còn lắm chông gai. Chưa lường hết được thành bại. Chỉ có tấm lòng chúng mình trải với non sông. Nếu có chết, diễm phúc nhất là được về làng để chết!

Tưởng Giang sẽ phản đối câu nói gở, thế mà Giang lại phụ họa: “Được chết ở làng thì quá sung sướng!”.

 

*

Mưa bắt đầu lắc rắc. Họ mới có lý do phải về nhà. Vừa đi vừa khoác vai nhau. Không thể đi nhanh hơn. Vài trăm mét lại dừng hôn nhau đắm đuối. Cơn mưa ập tới nặng hạt, hai người dắt tay nhau chạy về Thổ Tang. Họ chạy ríu vào nhau. Chân nọ vấp vào chân kia. Ngã dúi dụi. Họ cười trong mưa. Nguyễn Thái Học cảm thấy như được sống những giờ thần tiên nhất. Anh thầm cảm ơn Giang, cảm ơn cả cơn mưa nữa. Có cơn mưa làm cho mối tình hai người có vẻ lãng mạn hơn. Khó lòng quên được.

Cả nhà thức giấc vì sự xuất hiện của Học và Giang.

Bà Quỳnh lập cập dậy đốt đèn khi thấy tiếng Nguyễn Thái Học gọi khẽ. Giang ấp úng chào ông bà Hách. Thấy con trai và cô gái đi cùng đều ướt lướt thướt, bà giục đi thay quần áo tránh cảm lạnh. Bà lấy bộ váy áo tơ tằm cho cô gái mặc. Bà xuýt xoa:

– Khổ vậy, đêm hôm mưa gió, vất vả thế này, nhỡ ốm đau thì khốn.

– Không sao đâu mẹ ơi, vì công việc chúng con không thể ốm được, mẹ ạ!

Nguyễn Thái Học trả lời thay Giang và giới thiệu với mẹ:

– Đây là cô Giang, cùng tổ chức với con, thầy mẹ ạ. Vì nhiệm vụ bí mật, chúng con mới phải đi trong đêm tối. Con cũng thưa thêm với thầy mẹ là chúng con đã có hẹn ước chuyện riêng tư với nhau.

– Thế quê cháu ở đâu?

– Cháu quê ở Phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang.

– Cháu có mấy anh chị em? Cha mẹ cháu ra sao?

– Vâng, cha mẹ cháu sinh được bảy anh chị em. Cháu là thứ hai. Cha cháu là Nguyễn Văn Cao, tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Còn mẹ cháu là Nguyễn Thị Lưu, hiện ở Phủ Lạng Thương. Chúng cháu phải đi đêm hôm vì công việc của hội kín.

– Cũng phải lo đến cái sức khoẻ, không thể khinh xuất được. Mẹ là mẹ lo lắm. Phải giữ gìn, chứ hội kín hội hở khéo mà luỵ đến thân, con ạ!

Bà Quỳnh láng máng biết con đang làm những việc hệ trọng. Bà không can ngăn, nhưng bà cũng không muốn con lao vào chốn nguy hiểm.

Ông Hách nói thêm vào:

– Làm sao mà không lo. Cứ thấy đêm hôm chó sủa từ đầu ngõ đến cuối làng, là biết có kẻ rình rập. Không coi thường được đâu. Bây giờ đang là thời buổi nhiễu loạn. Tai vạ không thể lường được. Trí làm trai lên rừng xuống bể thời loạn thầy mẹ không ngăn cản. Nhưng lao vào chỗ hiểm nguy thì phải biết liệu biết tránh khúc hiểm nghèo. Cũng như người dùng dao sắc, biết dùng thì đắc dụng, không biết dùng thì cũng dễ đứt tay. Vào hội kín chống Tây bây giờ là mong mỏi của mọi người dân khắp thôn trên làng dưới, nhưng đang lúc người ta mạnh, súng ống người ta nhiều, tay chân người ta lắm, thì phải cẩn trọng…

Giang không thể ngờ cha mẹ của Nguyễn Thái Học thật là ân cần. Ở chốn thôn dã mà thấu hiểu thế sự và cảm thông với ý nguyện của con cái đến vậy.

Nguyễn Văn Nho, em ruột của Nguyễn Thái Học, nghe cha nói chuyện với Học và Giang, thấy đây là thời cơ tốt nhất nói lên sở nguyện của mình, liền dậy góp lời:

– Xin phép thầy mẹ, nhân có anh Học về, con muốn xin phép thầy mẹ cho con được đi cùng anh Học để làm phận sự của người nam nhi, như mọi thanh niên đối với đất nước.

Ông Hách chưa nói gì thì bà Quỳnh đã ngăn:

– Con ơi, một mình anh Học của các con đi làm việc tày đình, mẹ đã rối cả ruột. Bây giờ con lại đòi đi nữa thì mẹ biết sống làm sao?

Nguyễn Thái Học nói với em:

– Chuyện học hành của em tính sao?

– Em đã mười bảy tuổi rồi. Việc học của em cũng nhiều trắc trở. Học nữa để làm việc cho tây, thì không bao giờ. Em muốn đem tuổi trẻ làm những việc có ích cho dân cho nước mình.

– Việc này anh không quyết định được. Phải có thầy mẹ thuận lòng.

Ông Hách thấy Nho đưa ra ý kiến đột ngột, khiến ông cũng ngỡ ngàng chưa biết cách trả lời sao cho thoả nguyện. Ông cứ nghĩ sao các con ông lại có cái trí mưu lo việc của thiên hạ vậy? Ông thấy hành động của các con ông vừa hợp với chí khí của những người trai tráng trước an nguy của đất nước xưa nay nhưng lại vừa lo lắng vì đấy lại là những người con trai của ông, máu thịt của ông. Chúng mà mệnh hệ nào thì ông bà mất mát đau khổ trước tiên. Tuy nghĩ vậy, nhưng ông lại nói:

– Các con lớn cả rồi. Chim biết bay thì chim phải rời tổ. Thầy mẹ làm sao mà giữ mãi được? Nhưng con người chỉ khác con chim ở chỗ dù bay xa tới đâu cũng vẫn biết bay trở về với tổ. Thầy mẹ chưa thể trả lời ngay cho Nho được, phải để cứng cáp lên hơn nữa.

Nghe vậy Nho càng khẩn khoản:

– Thầy mẹ vẫn dậy chúng con, không được làm điều gì làm thầy mẹ hổ thẹn. Con chọn chính con đường anh con đã đi. Con đường mà thầy mẹ đã không can ngăn anh Học, sao lại nỡ ngăn con?

Thấy có nói nữa càng luẩn quẩn, ông Hách nói như ra lệnh:

– Thôi cả nhà đi ngủ, không ai nói thêm gì nữa.

Nói vậy, nhưng lại thấy ông Hách lên gian thờ tổ tiên, thắp hương, thỉnh chuông, đứng lẩm nhẩm khấn điều gì đó.

Còn mọi người làm sao có thể đi ngủ ngay được. Giang xuất hiện trong nhà như là một sự kiện đặc biệt. Từ nay, Giang có thể tự nhiên đi về như mọi thành viên gắn bó với gia đình. Bà Quỳnh nghĩ rằng, Học đã lựa chọn người gắn bó cả đời với nó chắc phải cân nhắc lắm. Bởi hai đứa cùng hoạt động với nhau, dễ cảm thông, cảm mến nhau. Vả lại, lời ăn tiếng nói đến dáng hình cũng dễ ưa.

Thấy Giang trằn trọc chưa ngủ được, bà Quỳnh thì thầm:

– Lạ nhà, chưa ngủ được hả con?

Giang cũng thì thầm:

– Vâng, con chưa ngủ ngay được. Sớm mai, mẹ cho con thẻ hương, thắp hương bàn thờ nhà mình xong, hai đứa chúng con sẽ ra thắp hương ngoài đền Thổ Tang và Miếu Trúc, anh Học hẹn con như thế.

– Mẹ cũng nghĩ vậy. Việc đó phải làm, giữ đúng lễ giáo và lệ làng cho thuận trước thuận sau.

Giang nằm bên bà Quỳnh. Mắt nhìn vào khoảng không, có một vệt sáng bởi ánh sao lọt qua đầu hồi nhà. Bao nhiêu sự kiện không thể nào quên trong một ngày. Thật là diễm phúc được làm con một gia đình đầy nhiệt huyết đối với non sông đất nước.

 

*

Tơ mơ sáng, Học và Giang đã trở dậy đi ngay. Bà Quỳnh đã nắm cho hai người một mo cơm với muối vừng để tiện ăn trên đường.

Học chỉ dặn mẹ, các con còn phải đi xa chưa biết khi nào mới về thăm nhà được. Nếu bạn bè thân thiết của Học có đến cần nhờ điều gì thì mẹ hãy giúp đỡ họ. Mẹ cũng cần đề phòng những kẻ gian đến thăm dò, hỏi gì về con thì mẹ trả lời không biết. Bà Quỳnh chỉ biết gạt nước mắt thương con trên bước đường lặn lội sương gió, chẳng hiểu may rủi ra làm sao. Tiễn các con đi rồi, bà Quỳnh lặng lẽ vào nằm cạnh ông Hách khẽ nói: các con đi rồi mình ạ! Ông Hách  trả lời: tôi biết rồi!

 

Thắp hương đền Thổ Tang xong, hai người vòng sang Miếu Trúc. Một ngôi miếu nằm ven cánh đồng, trên một khoảng đất rộng thoáng. Dễ hình dung nơi đây những cây trúc mọc um tùm ven khu gò đống xưa kia vắng vẻ. Nơi miếu thờ lặng lẽ yên tĩnh, nhưng chứa đựng vẻ thanh khiết, tiêu dao, rất hợp với những tâm tình kín đáo, dễ rung động. Bây giờ rừng trúc chỉ còn lưa thưa mấy bụi, những thân trúc gày óng, lao xao trong gió. Có thể nhìn qua rừng trúc ra tận ngoài phía cánh đồng.

Nguyễn Thái Học thấy Nguyễn Thị Giang lầm rầm khấn:

– Con là Nguyễn Thị Giang, ở Phủ Lạng Thương xa xôi, nay hợp duyên hợp số cùng Nguyễn Thái Học, xin được về làm dâu con ở đất này. Mong thần linh thổ địa cùng các bậc thánh thần chứng giám. Con nguyện làm người trung nghĩa với liệt tổ liệt tông họ tộc và dân làng Thổ Tang. Con khấn cầu các chư vị thánh thần hãy phù trợ cho chúng con…

Ngọn khói hương như quẩn quanh trên mái tóc để đuôi gà của Giang, rồi mới lặng lẽ tan vào không gian. Gió từ ngoài cánh đồng hun hút thổi qua rặng trúc, thổi động cành bàng, mấy lá vàng khẽ liệng xuống nền miếu.

Lúc ấy, mới thấy ông thủ từ đến miếu. Ông cất tiếng hỏi:

– Các cháu thắp hương sớm thế?

– Chúng cháu thắp hương xong, phải đi ngay vì rất bận.

– Bận thì cũng nán lại uống nước đã.

– Chúng cháu xin cám ơn.

Nguyễn Thái Học giới thiệu Giang với ông thủ từ, rằng Giang là vợ chưa cưới. Ông thủ từ vui vẻ hướng dẫn Giang xem lần lượt các cảnh vật và di tích khu miếu. Ông thủ từ nói:

– Đã là con cháu dân làng Thổ Tang rồi thì phải có tâm nguyện, có lòng thành thì mọi việc sẽ được hanh thông. Khi nào về Thổ Tang thì cứ ra miếu thắp hương cầu khấn là rất linh ứng.

Nguyễn Thái Học khi ấy mới kể với Giang rằng, ông từ cũng là đảng viên trung kiên của làng Thổ Tang đó. Nguyễn Thị Giang rất vui vì thấy ở đây ông thủ từ coi miếu cũng sẵn lòng đi cùng cách mạng. Giang nói:

– Vậy là cháu rất yên tâm! Khi nào về đây có khó khăn gì, chúng cháu xin nhờ vả ở bác.

– Việc dân việc nước sao cháu lại nói là nhờ vả?

– Vâng! Thế thì cháu càng vững tin.

Một buổi sáng thật trong lành, Nguyễn Thị Giang rất hào hứng nghe Nguyễn Thái Học kể truyền thuyết Miếu Trúc. Giang vô cùng thán phục trí tưởng tượng của người xưa. Cái đám mây màu đỏ trong truyền thuyết ấy thật lạ. Thật lãng mạn và cũng thật liêu trai. Chưa thấy ở đâu có chuyện kể tương tự. Cái đám mây đã cuốn lấy người phụ nữ giữa đồng, để bà ấy hoài thai sinh ra Lân Hổ, lớn lên dẹp giặc cứu nước.

Miên man ý nghĩ về một câu chuyện dị thường huyền tích. Cánh đồng còn đó, nhưng người phụ nữ truyền thuyết của Miếu Trúc mang theo sự linh ứng về trời tự thuở nào.

Học và Giang bước khỏi làng Thổ Tang khi mặt trời buổi sáng vừa hé rạng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương X

       CƠN SỐC MANG MÀU XÁM

 

                                                                       Những lặng im tích tụ

                                                                       Thành những sóng vô hình

                                                                       Biết đâu là mắt bão

                                                                       Cả khi trời rất xanh

 

Những tin báo ở khắp các địa bàn trong cả nước dồn dập loan về cho Nguyễn Thái Học làm cho anh rất phấn chấn. Giữa đất Hà Nội, cơ sở bí mật có hàng chục địa chỉ. Anh chọn số 9 đường Thanh Giám, một nơi thật yên tĩnh để hẹn gặp một số yếu nhân trong tổ chức, chuẩn bị cho cuộc họp bàn phương hướng hành động của cả năm 1929. Phương châm là củng cố và xây dựng tổ chức từng bước chặt chẽ, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống, chuẩn bị lực lượng phối hợp phong trào yêu nước toàn quốc, chờ thời cơ hành động.

Cuộc họp mặt trong phạm vi hạn chế, nhưng đông đủ những người có vai trò sống còn của tổ chức. Đó là Nguyễn Khắc Nhu, Đoàn Trần Nghiệp, Phó Đức Chính, Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm, Hoàng Phạm Trân.

Nguyễn Thái Học thông báo tin tức mới nhận được cho mọi người cùng hiểu rõ những gì đã đạt được để yên tâm đón cái tết trong sự yên vui.

Đã liên lạc được với cụ Phan Bội Châu ở trong Huế. Cụ già Bến Ngự vui lòng nhận làm Chủ tịch danh dự của đảng. Cụ hứa giúp đỡ người của đảng gặp gỡ những nhân vật có tiếng ở nước ngoài để giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Phái đoàn ngoại giao của đảng do Nguyễn Ngọc Sơn, Hồ Văn Mịch và Phạm Tiềm đã lên đường sang Cao Miên, sang Xiêm, liên hệ với các nhà cách mạng ở hải ngoại và vận động mua vũ khí cho đảng. Ở Thanh Hoá nhóm của Hoàng Văn Tùng đã có cơ sở tốt. Ở Thái Bình nhóm của Đặng Đình Điển hoạt động ráo riết. Bắc Ninh nhóm Nguyễn Thế Nghiệp quy tụ được nhiều tầng lớp tham gia. Miền Trung tuy khó khăn hơn, nhưng ta đã tập hợp được trong nhóm Phan Khôi. Ở trong nam các anh Trần Huy Liệu, người chủ soái “Cường học thư xã” đã lập được Kỳ bộ. Anh Nguyễn Phương Thảo (Nguyễn Bình) cũng hoạt động tạo được thanh thế cho đảng. Người giỏi về chính trị, người giỏi về quân sự kết hợp lại là đáng tin cẩn…

Hãy ăn một cái tết trong bình yên vô sự.

Mọi công chuyện hãy gác lại, chờ sau tết sẽ lại tiếp tục hoạt động theo sự phân công của tổ chức với từng người.

Cuộc gặp mặt nhanh chóng kết thúc, mỗi người đi mỗi ngả, tản nhanh trong các ngõ ngách Hà Nội. Nguyễn Khắc Nhu và Nguyễn Thái Học rủ nhau về Bắc Giang làm nốt một số việc liên quan tới cơ sở. Ngoài công việc, Nguyễn Thái Học cũng nóng lòng về đó để gặp người yêu. Từ hôm rủ được Nguyễn Thị Giang về thăm cha mẹ và gia đình ở Thổ Tang đến giờ, lúc nào nguôi việc anh lại nghĩ đến Giang. Nỗi nhớ lạ lùng.

Chuyện tình ái có người trở nên mụ mẫm không điều khiển nổi hành vi của mình, nhưng cũng có người vì tình yêu mà thăng hoa hơn trong mỗi việc làm. Đối với Nguyễn Thái Học rơi vào trạng huống thứ hai. Anh cảm thấy lúc nào cũng muốn cất lên câu hát. Anh lặng lẽ làm thơ tặng người yêu. Bài thơ chẳng biết đặt tên là gì, chỉ thấy cảm xúc tuôn trào trên từng nét chữ.

Em là cô lái đò nhung

           Giúp người lữ khách qua vùng sông sâu

           Tay em mưa nắng giãi dầu

           Chìa cho anh vịn qua cầu bình yên

           Thác ghềnh xoáy nước triền miên

           Em đưa anh tới những miền vinh quang

           Còn anh sóng gió ngang tàng

           Càng trong tranh đấu lại càng thương em

           Không cần biết hay dở ra sao. Chỉ biết đấy là những lời chân thật, bật ra từ buồng tim lá phổi. Giờ chỉ cần mấy giờ tàu hoả là đến Bắc Giang, người yêu sẽ được đọc và sẽ nói rằng anh thật lãng mạn.

Nếu không có gì trắc trở, Nguyễn Thái Học định bụng sẽ ăn tết ở Bắc Giang theo lời mời của Nguyễn Khắc Nhu để có dịp gần Giang hơn.

 

Nguyễn Khắc Nhu khăn sếp áo the, cắp tráp bên mình y như lý trưởng ra tỉnh. Còn Nguyễn Thái Học cắp ô theo hầu. Định sang nhảy tàu điện ra ga Hàng Cỏ. Nhưng hai người vừa chớm đến Liễu Giai thì gặp ngay bọn mật thám đi tuần. Sợ gặp chúng khám xét phiền hà, Nguyễn Khắc Nhu kéo Nguyễn Thái Học lánh vào khu nhà có tên là “lữ quán mộng mơ”.

Thấy hai người, các cô tưởng khách “làng chơi” liền đon đả mời chào:

– Thày lý, anh hầu ơi, vào quán em đã nào. Chẳng mấy khi được tiếp các anh! Ở đây giá cả rất phải chăng, chăm sóc hầu chuyện tận tình.

Nhìn ra ngõ vẫn thấy bọn mật vụ đáng ngờ lảng vảng, sợ dùng dắng sẽ lộ, hai người đành phải rẽ vào lữ quán. Đợi cho chúng đi rồi mới trở ra. Nhưng oái oăm, chúng cứ lởn vởn làm cho hai người tắc lại.

Nhìn đồng hồ đã muộn giờ tàu. Hai người đành phải vào quán nghỉ trọ.

– Cho hai chúng tôi một phòng trọ qua đêm.

– Tưởng các anh cần chuyện kia.

– Tôi cứ nghĩ xóm cô đầu ở đằng Khâm Thiên mới có “chuyện kia”, thế ở đây cũng có à?

– Rõ mớ đời! Ở đây mới thật là mơ mộng cảnh tiên. Các quan chức trong thành trốn vợ ra đây hưởng hương đồng gió nội, chả sướng à?

– Chúng tôi mệt vì lỡ đường, chỉ có nhu cầu ngủ thôi.

– Rõ là vớ vẩn…

Nói vậy, nhưng các cô vẫn xếp cho Nguyễn Khắc Nhu và Nguyễn Thái Học một phòng nghỉ.

Nguyễn Thái Học cười chua chát:

– Rõ là vớ vẩn thật! Các cô ấy nói thế mà đúng, mình cần đi ngay, mà đành phải nghỉ lại, chả vớ vẩn là gi?!

– Chắc giờ này cô Giang mong cậu Học lắm đấy!

– Vâng, chắc chắn là thế!

– Thôi, gắng chờ đến sớm mai ra Bến Nứa đi ô tô vậy.

Đêm lạnh, chỉ có chiếc chăn đơn cho hai người, Nguyễn Thái Học nằm ôm lấy Nguyễn Khắc Nhu, trong nỗi trăn trở, vừa da diết nhớ người yêu, vừa bực lòng vì thời gian lỡ dở.

Mấy cô nàng ở “lữ quán mộng mơ” cũng ngạc nhiên, rỉ tai nhau: Rõ ràng hai người này nói thèm ngủ mà lục sục suốt đêm. Bốn giờ sáng đã dậy trả phòng. Xem cử chỉ thì thấy có vẻ là những người đàng hoàng, mà sao cứ thấy vội vàng và có gì khang khác. Hay họ đánh bạc hết tiền. Nếu vậy thì chỉ còn cách là cho họ chịu, thôi sởi lởi giời cho, khi nào họ gặp vận đỏ trả sau cũng không sao.

Nguyễn Thái Học loay hoay lục túi trả tiền trọ, chủ nhà thấy vậy nói:

– Thôi hai anh lỡ độ đường, chả lấy tiền các anh làm gì. Nếu ví thử rồi gặp vận đỏ, lần sau trả cũng được.

– Thế thì cho chúng tôi được cảm tạ.

– Vâng! Cho chúng tôi cảm tạ!

– Không dám!

Chủ nhà ném theo một câu không biết là cảm thông hay coi thường. Hai người nhanh chóng biến qua ngõ hẻm.

 

*

Arnoux, Chánh mật thám Bắc Kỳ, ngồi nặn ra từng dòng báo cáo thượng cấp về tình hình an ninh mà hắn phải đảm trách. Vốn bị coi là kẻ võ biền nên Arnoux rất muốn tỏ ra mình là kẻ có học. Chữ nghĩa trong báo cáo phải chau chuốt, không để ai coi thường. Trong báo cáo làm sao vừa tế nhị nói được công trạng của cá nhân, lại vừa phản ảnh sự thật làm sao ở tình trạng không quá trầm trọng, giảm thiểu tối đa những gì cấp trên có thể đánh giá về sự non yếu của người đứng đầu cơ quan mật thám được tin cẩn. Đó là sự lập lờ cần thiết của báo cáo. Không cần kể thành tích mà vẫn thấy thành tích. Còn nếu có sự cố gì thì cũng có đủ bằng chứng rằng đã có báo cáo. Phương pháp ấy Arnoux gọi là sự trung thực trong những điều không cần trung thực và sự không cần trung thực như trung thực. Ý tứ được gói gọn trong lời kết của báo cáo:

– Với cố gắng của cơ quan giữ trọng trách về trật tự an ninh toàn xứ Bắc Kỳ, sau những hoạt động điên rồ của bọn gây rối bằng treo cờ và rải truyền đơn tại Hà Nội, tình hình đã được ổn định nhanh chóng bằng các hành động cứng rắn. Các giải pháp an ninh được tăng cường. Những hành vi chống đối của bọn phản loạn không còn xuất hiện. Tuy nhiên, chưa thể yên tâm vì mầm mống phản kháng của dân bản xứ là điều không thể không đề phòng. Sở mật thám đang tăng cường kiểm soát và kiểm soát có hiệu quả để ngăn ngừa mọi hành vi phản loạn của đám gây rối.

Thở phào chấm hết báo cáo, Arnoux ký một chữ dài ngoằng dưới dòng chữ chức vụ được đánh máy qua giấy than.

Nhớ lại ngày đầu đến xứ sở này, mọi chuyện đều ngỡ ngàng, bởi dòng chủng, ngôn ngữ, cho tới mọi lề lối phong tục đều khác lạ. Một đằng da trắng mắt xanh mũi lõ. Một đằng da vàng mắt đen mũi tẹt. Muốn cai trị và khai sáng cho họ thì phải học. Đấy là công thức mà bất kể tên thực dân nào cũng phải áp dụng. Arnoux đặt chỉ tiêu nửa năm là phải nói thạo tiếng Annam. Những nhà truyền giáo tiền nhân, tuổi cha ông của Arnoux vượt muôn trùng sông biển đến xứ sở này cũng đã phải học tiếng bản xứ để dễ bề truyền đạo Kitô, môn đạo vốn lạ hoắc với một đất nước từ xa xưa từng lấy Đạo Phật làm quốc đạo. Người tiêu biểu cho các bậc truyền giáo tiền nhân đã để lại tên tuổi sáng giá ở xứ sở này là Alexandre de Rhodes, đến đất Annam năm 1625, có công đóng góp hình thành chữ Việt – Latin, ngài chỉ học tiếng Việt trong 4 tháng là đã đi giảng đạo bằng tiếng Việt. Thời ấy các cha cố học tiếng Việt để dễ truyền giáo trong dân chúng. Giờ đây Arnoux học tiếng Việt là để dễ hành xử theo bổn trách của người thực thi nghĩa vụ đi cai trị.

Nhưng đối với Arnoux, tiếng Việt trúc trắc thật khó nhằn. Đặt kế hoạch nửa năm biết tiếng Việt, mà hết năm cũng chỉ nhớ lõm bõm chẳng đáng là bao. Đã thế, nhờ mấy đứa thanh niên Việt dạy tiếng, chúng vừa dậy vừa đùa cợt, thật khó tin đúng sai thế nào. Có lần đi giữa phố, trẻ con nhìn mặt Arnoux rồi thản nhiên nói “đồ con lợn”, thông ngôn bảo rằng chúng nó “chào quan lớn”! Lại nghe chúng nói “tiên sư cha mày”. Hỏi nói thế là gì? Thông ngôn bảo, nói thế là “chúc ngài may mắn!”. Rồi bọn họ cười ngặt nghẽo. Cái cười đầy bí hiểm. Cho nên, đối với người Annam, cảnh giác mấy cũng không thừa. Vì thế mà Arnoux phải cố học bằng được tiếng Annam. Và bây giờ Arnoux có thể thách đố với bất cứ ai nếu kiểm tra môn ngữ pháp Annam.

Arnoux lại cũng tự cho rằng mình nhập cuộc với dân bản xứ rất đắc địa. Ấy là việc hắn đã quen được mùi mắm tôm, cái thức ăn mà bất cứ đồng chủng nào của hắn cũng phải lấy khăn mouchoir bịt mũi quay mặt đi khi thấy bày ra bàn. Thứ mắm tôm không thể thiếu trong gia vị thịt chó. Diềng mẻ mắm tôm! Dân Bắc Kỳ coi là thứ gia vị mê ly nhất! Ôi thịt chó! Thịt chó! Dân Annam gọi “cầy tơ bảy món”! Đối với Arnoux là một thứ thức ăn đặc biệt, thực sự khoái khẩu, có thể thường xuyên dùng không chán. Chứ đâu lại mở miệng chê là thức ăn của dân mọi rợ như mấy quan tây đồng sự dốt nát về ẩm thực phương đông. Thức ăn này người Annam còn gọi là “mộc tồn”. Ô la la, mộc là cây, tồn là còn. Cây còn là con cầy. Thịt con cầy là thịt con chó! Lại thêm thứ rượu nút lá chuối, trông thì rất tầm thường, mà mùi thơm và vị nồng ấm hơn hẳn mọi thứ rượu mạnh mang từ bản quốc sang. Ăn cái thứ thịt chó này vào là dậm dật khắp người, muốn đi tìm bạn tình ngay!

Từ một nhân viên mật thám tiểu tốt, sang xứ Annam, Arnoux đã leo tới chức Chánh mật thám bằng chính sự hiểu biết thông thổ và những công trạng lập được từ xứ sở này.

 

Pierre Pasquier cho gọi Arnoux đến Phủ Toàn quyền để hỏi rõ thêm những điều trong báo cáo chưa nêu rõ và bàn định những việc cần thiết phải làm. Pasquier biết thừa cái thói lập lờ trong ngôn ngữ của Arnoux. Nhưng không thể không dựa vào hạ cấp. Có thể đó là cách giữ miếng của những kẻ võ biền, cố tình giữ lại một chút ngón nghề. Cho nên, phủ đầu Pasquier hỏi Arnoux:

– “Mầm mống phản kháng của dân bản xứ” trong báo cáo là sao? Hả ngài Chánh mật thám!

– Nói vậy là phòng xa thưa ngài Toàn quyền. Kể từ vụ treo cờ, rải truyền đơn của bọn phản loạn bị dẹp đến giờ, thực hiện giới nghiêm và thẳng tay trừng trị những kẻ bất phục tùng, đã làm cho tình hình Hà Nội khá yên ổn. Bọn phản loạn chưa thể ngóc đầu dậy.

– Ngài Chánh mật thám có chủ quan không?

– Tôi vẫn nói, tuy nhiên ta phải đề phòng mọi tình huống xấu xảy ra.

– Sự đề phòng đó là thế nào? Nói rõ hơn xem.

Arnoux biết rằng dù vặn vẹo thế nào thì Pasquier vẫn tin tưởng và ủng hộ hắn. Hắn cũng cố hết sức để khỏi phụ lòng người đã đề xuất với Bộ thuộc địa tiếp tục giao trọng trách cho hắn ở Đông Dương. Vì thế, Arnoux rất tự tin đưa ra chính kiến:

– Tôi cho rằng để đề phòng bọn phiến nghịch, ta cần phải tổ chức nhiều lực lượng tham gia kiểm soát và săn lùng, tận diệt từ trong trứng những kẻ chủ mưu. Ai đó từng nói “bắt nhầm hơn bỏ sót”. Phương châm ấy thật đắc dụng. Tất cả những kẻ bị tình nghi là bắt, là tù, là tra tấn thì mới diệt được mầm loạn. Ngoài lực lượng cảnh binh công khai, ta cần tăng cường cá chìm, lặn vào tất cả các xó xỉnh dân cư, bến xe, bến tàu và mọi nơi mọi chỗ để phát hiện những kẻ có rắp tâm làm phản. Thực thi được điều này rất cần xử dụng những kẻ đầu hàng, bắt buộc chúng làm tai mắt cho ta.

– Hay! Tôi tin khả năng của ngài. Báo cho ngài Chánh mật thám tin vui, thắng lợi vừa qua của chúng ta đã được Nhà nước Pháp thưởng médaille và tuyên dương công trạng cho tôi và ngài. Lễ trao médaille sẽ được đại biểu của Mẫu quốc sang thực hiện ngay trên đất Annam này vào một ngày gần nhất. Tôi lưu ý ngài rằng, cần phải giữ được an ninh tuyệt đối trong dịp Tết cổ truyền của dân Annam năm nay. Đấy là yêu cầu số một. Sở mật thám phải làm bằng được không chỉ đối với Hà Nội mà cả xứ Đông Dương.

Arnoux phấn khích trả lời:

– Cám ơn ngài Toàn quyền. Ngài cứ yên tâm. Phương cách chủ yếu dành cho dân xứ này là đàn áp, đàn áp và đàn áp! Muỗi cũng không lọt nổi lưới của chúng tôi.

Hai chính khách viễn chinh lại chúc nhau bằng bordeaux, cùng nhấm nháp hương vị của xứ sở quê nhà xa lắc.

Vừa lúc đó lính hầu vào báo cáo có ngài Hervé Bazin Giám đốc Tổng nha Nhân lực Đông Dương xin gặp Toàn quyền.

Arnoux cáo từ xin phép ra về thì Pasquier giữ lại:

– Không phải khách sáo. Có ai xa lạ đâu. Cùng cánh ta cả mà, đừng để “đang vui thì đứt dây đàn”.

– Ngài Toàn quyền quả là sành phương ngôn xứ này.

 

Bazin lễ độ chào Toàn quyền Pasquier và Chánh mật thám Arnoux:

– Chào ngài Toàn quyền! Ô la la, có cả ngài Arnoux, cảm ơn cơn gió lành cho chúng ta hội ngộ. Tôi có chút quà từ phương nam mang ra đây. Chút quà mọn gửi ngài Toàn quyền, đây là sừng tê giác do người Thượng săn được khi mở đồn điền cao su lên vùng Tây Ninh. Nó có thể dùng trong mọi hoàn cảnh, tăng cường sinh lực và chống mọi cảm hàn. Biếu ngài Chánh thanh tra mật thám cặp nhung hươu, cũng do người Thượng săn đó. Còn đây là café chồn cao nguyên. Mời hai ngài cùng thưởng thức.

– Chúc mừng người hùng đã đưa được nhiều cu li đi mở mang các đồn điền cao su ở những vùng lam sơn ám chướng. Chắc lần này trúng to?

– Nhờ Chúa, cũng không tồi!

– Ra Hà Nội đã gặp nàng chưa?

Pasquier hỏi với giọng kẻ cả. Bazin thành thật trả lời:

– Ồ đã! Đã! Lần này ra bắc hưởng cái rét và hưởng cái tết cổ truyền của người Annam tại Hà Nội. Tất nhiên đã tới yết diện nàng để nàng yên tâm.

– Thú vị thật! Có vợ lại có người tình ngay trên đất Hà Nội, thật tuyệt vời!

Arnoux cười lớn:

– Tôi cũng mong được như ngài, mà khó quá, ngài Bazin! Phụ nữ xứ này chê nghề mật thám của tôi là khô khan, khó gần.

– Trong nam, xem nhật báo ca ngợi ngài Arnoux dẹp vụ nổi loạn treo cờ và affiches chống chính phủ của bọn hội kín ở Hà Nội mà cảm phục. Ngài thật mẫn cán! Mẫn cán!

– Cảm ơn lời khen quí giá. Ngài có thể an tâm về an ninh và hưởng những ngày tết se lạnh đáng nhớ ở đất Hà Nội. Tôi đã làm việc khá kỹ lưỡng với Sở mật thám và lực lượng an ninh Hà Nội, chốt giữ chặt chẽ các cửa ô và kiểm soát ngày đêm trên đường phố.

– Cảm tạ ngài. Xứ sở này bình yên được có công lao rất lớn của ngài Arnoux đó.

– Hôm nay, tôi có thể chiêu đãi ngài món ăn ngon số một, món cầy tơ của dân Annam không?

– Ấy, tết Annam đến nơi rồi, không nên sài món đó, đen lắm, rủi ro lắm! Tôi đã từng nếm thử. Tôi khâm phục ngài. Nhưng thú thật mùi vị món đó tôi ăn chưa thể quen. Nhất là cái món mắm tôm!

– Rủi ro? Tôi sài thường xuyên mà chả hề thấy rủi ro!

Họ còn tán dương nhau với những lời hào phóng nhất. Hai quan chức cao cấp của nước Pháp và một trùm buôn người cùng thưởng thức hương vị café chồn hảo hạng một cách sành điệu.

 

*

Dân Hà Nội nô nức đi sắm tết.

Những cành đào mang mùa xuân đến từng nhà. Phố phường Hà Nội như tươi tắn hẳn lên với đủ màu sắc qua những gian hàng ngày tết. Chợ Đồng Xuân mua bán tấp nập. Không mấy ai để ý tới ai. Người nào cũng mong sắm được những gì cần thiết cho nhu cầu ngày tết.

Các công sở dường như đã đóng cửa hết. Chỉ còn những tiệm hàng tư nhân cố tận dụng ngày cuối cùng trong năm để tiêu thụ nốt số hàng hoá tồn dư.

Những thứ hàng được tiêu thụ nhiều nhất, ngoài gạo nếp lá dong thịt lợn gói bánh chưng, phải kể đến các loại hoa, tranh ảnh, đôi câu đối và pháo tết. Mấy ông đồ choài người bên các vỉa hè để viết câu đối tết cho khách, bận rộn suốt buổi sáng, cho tới tận chiều mới ngớt việc. Hà Nội được tiếng thanh lịch với những thú chơi tao nhã. Người ta chọn những cây đào thế cầu kỳ hay những chậu quất kiểng vàng rực màu quả điểm xuyết những lá xanh, cầu mong sự an lành, sung túc, một năm mới sinh hoa kết trái.

Cuối chiều 30 tết, như thường lệ hàng năm, ngoài đường phố người vắng tanh. Ai cũng mải lo sắm sửa cỗ bàn, thờ phụng tổ tiên và bữa cỗ ấm cúng trong gia đình, chuẩn bị đón Giao thừa.

Bờ hồ Hoàn Kiếm được trang hoàng lộng lẫy. Cầu Thê Húc ra đền Ngọc Sơn được kết đèn điện lung linh toả bóng dưới ánh nước. Tháp Rùa rêu phong cổ kính cũng được trang trí hình rồng phượng cùng với những bóng đèn hoa, làm cho cảnh vật càng huyền ảo.

Đường phố quanh bờ hồ toả ra các phố đèn điện sáng rực.

Có ba người khách từ ga tầu điện bờ hồ đi bộ dọc tuyến đường xuống chợ Hôm. Họ bình thản như mọi người Hà Nội đi dạo phố chuẩn bị hái lộc xuân. Một vài đôi trai gái khoác vai nhau bước về phía công viên. Mấy bác xích lô hết khách vội vàng đưa xe về nhà còn chuẩn bị tết nhất như mọi người.

Trong ngôi nhà số 110 Phố Huế, cô đầm lai Germaine Carcelle đang có vẻ nóng lòng chờ đợi người tình. Hôm nay ngày cuối năm âm lịch của người Annam, ngày 9 tháng 2 năm 1929 của lịch tây. Nàng chờ người tình để đỡ cô đơn và cũng để xả nỗi bực dọc hồi chiều nàng gặp phải. Đó là việc nàng từ hãng Godard ra bờ hồ mua một cành đào, rồi thuê chuyến xe tay về nhà. Khi trả tiền, tên nhà quê đòi một hào. Nàng mắng “đồ bần tiện dơ dáy” và cương quyết chỉ trả năm xu. Đưa tiền cho tên nhà quê, hắn ta cầm rồi ném trả thẳng vào mặt nàng, kèm theo câu chửi “đồ con lợn” trước bao cái nhìn thóc mách và hả hê của đám dân phố hạ đẳng(!). Họ cười nhạo báng nàng và ném những ánh mắt sắc lạnh về phía nàng. Nàng bứt rứt không yên từ đấy. Chỉ mong người tình đến để trút mối tâm sự.

Một chiếc ô tô sang trọng đi từ phía bờ hồ Hoàn Kiếm sang Hàng Bài rồi rẽ về phía chợ Hôm thì dừng lại. Trên xe bước xuống là một ngài quan tây. Ngài rẽ vào số nhà 110 Phố Huế. Cô đầm lai ra tận cửa đón người tình.

Ba người thanh niên từ bờ hồ đến chợ Hôm là Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân và Nguyễn Đức Lung. Dáng vẻ bình thản như mọi người đi trên phố. Nguyễn Văn Viên nói rằng đây là cơ hội tốt nhất để diệt tên cáo già chuyên câu kết với bọn hào lý nhũng nhiễu ở các địa phương Bắc Kỳ để mộ phu rẻ mạt và bắt cóc người đi các đồn điền cao su ở phương nam và Cao Miên, Lào, Tân Đảo. Ba người phân công nhau theo sát mọi hành vi của Bazin từ khi trong nam đặt chân ra Hà Nội. Theo phán đoán thể nào hắn cũng đến thăm người tình ở 110 chợ Hôm như mọi ngày. Họ đã quan sát ngôi nhà này nhiều lần và cắt đặt hành động theo phương án đã định.

Khi Viên trao khẩu súng lục và yêu cầu Lân tập luyện bắn súng, Lân hỏi Viên kế hoạch ám sát Bazin đã được cấp trên đồng ý chưa? Viên trả lời đại rằng đã được cấp trên duyệt, nhưng trong bụng nghĩ nếu hỏi cấp trên thì chắc chắn không được, vì Nguyễn Thái Học đã nói rồi. “Nếu vội giết Bazin, tất nhiên chính quyền sẽ khủng bố dữ dội…”. Viên chỉ nghĩ đơn giản, Bazin là tên bắt cóc, tên buôn người đã làm cho bao nhiêu người dân khốn khổ, điêu đứng, chết chóc. Chừng nào còn Bazin còn thì dân còn đau thương, khổ ải. Cho nên phải quyết diệt bằng được, kẻo hết tết hắn lại vào nam mất. Việc diệt Bazin chỉ bí mật 3 người biết.

Đã thấy chắc chắn Bazin vào nhà ả đầm lai. Viên đứng bên gốc cây theo dõi. Còn Lân và Lung nấp trong ngõ chờ đợi ám hiệu.

Phải đến 20 giờ mới thấy Bazin đi ra. Nàng Germaine Carcelle tiễn chân đến tận bờ đường. Họ không quên hôn quắn vặn ghì siết nhau, ngay trước cửa nhà. Vị ngọt của tình yêu làm cho Bazin cao hứng cất lên câu hát trong bài “Petite Tonkinoise” (Cô em Bắc Kỳ nho nhỏ) với giai điệu tươi vui nồng nàn, một ca khúc rất được hâm mộ của nhạc sĩ Vincent Scotto.

Pour qu’ j’ finisse

Mon service

Au Tonkin je suis parti

Ah! Quel beau pays Mesdames

C’ Est l’ Paradis des p’ tites Femmes

Ell’ s sont belles

Et fidèles

Et j’sui  dev’ nu  l’ cheri

D’ un’ p’tit ‘femm’ du pays

Qui s’ appell ‘ Melaoli…

(Để hoàn thành nghĩa vụ

Tôi đã đến Bắc Việt

Ôi, các quý bà ơi

Đó là một xứ sở tuyệt vời

Thiên đường các mỹ nhân

Các nàng đẹp

Và trung tình

Rồi tại đó

Tôi đã trở thành người thương

Của một nàng bé nhỏ

Tên là Mê lao li…)

Chiếc xe Hotchkiss màu bleu royal sang trọng đỗ bên đường, tài xế ra mở cửa cho Bazin. Vừa hát Bazin vừa bước vào xe. Bỗng bên kia đường hai người ăn mặc rất lịch sự bước qua từ tốn chào:

– Bonjour!

Lung đưa tờ giấy và nói: ngài có thư của ông Bạch Thái Bưởi. Bazin vừa ngước mắt chưa kịp nói gì thì Lân nổ liền hai phát súng lục vào mặt Bazin. Hắn hự lên một tiếng rồi tắt lịm. Tài xế nằm bẹp xuống vô lăng xe. Ba người biến vào các ngõ hẻm và mất hút về phía nghĩa địa thành phố thông ra Chợ Giời. Mãi sau tài xế mới ú ớ kêu:

– Ám sát! Ám sát!

Phải một khoảng thời gian khá dài, nhà chức trách mới tới. Bazin nằm ngoẹo đầu vào thành cửa xe. Tờ cáo trạng nhòe nhoẹt máu.

Đến lúc ấy còi xe cảnh sát mới rú inh ỏi. Không biết bọn thủ phạm ám sát đã tẩu thoát về phía nào.

 

*

Sau tết Kỷ Tỵ, trên các trang báo chí khắp từ bắc vào nam đều đưa tin vụ ám sát Bazin táo bạo và tài tình ngay trên đất Hà Nội, dân chúng hả dạ, chính quyền trơ mắt xám mặt. Điều đó càng làm cho các nhà chức trách thay mặt cho chính phủ Pháp ở Đông Dương đau đầu. Toàn quyền Đông Dương triệu tập Chánh mật thám và các quan chức cao cấp đến Phủ Toàn quyền để bàn bạc mở chiến dịch truy lùng khủng bố. Điểm mặt không thiếu một ai.

Ngài Pasquier, Toàn quyền Đông Dương.

Ngài Robin, Thống sứ Bắc Kỳ.

Ngài Arnoux, Chánh mật thám Bắc Kỳ.

Ngài Jules Brides, Chánh Hội đồng Đề hình.

Ngài Leconte, Tổng thanh tra các thuộc địa.

Ngài Poullet Osier, Thanh tra các vấn đề chính trị.

Ngài Tổng cục trưởng an ninh.

Tướng Aubert, Chỉ huy tối cao quân đội.

Sau một hồi cân nhắc chữ nghĩa, Pasquier mở đầu:

– Thưa các ngài, đáng lí ra chúng ta đang yên ổn, chúng ta không muốn làm đảo lộn tình hình như chúng ta đang duy trì. Mặc dù, để đảm bảo cho sự nghiệp, cần thiết phải làm trong sạch về chính trị, phải tiến hành và phải đeo đuổi sự yên ổn vào thời điểm đặc biệt thích hợp, và sự phát triển của nó có thể tạo ra lợi thế, cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn quý giá cho hiện tại và tương lai. Nhưng tình hình buộc chúng ta phải tăng cường khám xét, bắt giữ những kẻ phản nghịch. Việc Hervé Bazin bị ám sát là tổn hại tới nền an ninh. Tuy nhiên, việc tra xét bắt bớ vẫn phải đảm bảo cho những vận hành của bộ máy thuộc địa. Tôi đã gửi vụ này sang Hội đồng Đề hình Bắc Kỳ, đặt trong tình trạng đặc biệt về pháp lý và chính trị, giải quyết triệt để những phản kháng của những tổ chức và cá thể đối lập với chính quyền. Tôi đã báo cáo Bộ thuộc địa, một mặt trấn áp những kẻ âm mưu phiến động, làm trong sạch môi trường chính trị, mặt khác không để mất thêm tầng lớp trí thức, quan lại và những kẻ làm công phục vụ chúng ta. Công thức là đàn áp để phòng ngừa. Phòng ngừa bằng đàn áp. Biến những tên làm cách mạng phải lưu vong ngay trên đất nước của chúng…

Bài thuyết lý của ngài Toàn quyền vòng vo và rối rắm, khiến cho đám thuộc hạ sốt ruột. Arnoux quá biết tính cách của Pasquier nên chỉ nêu quyết tâm thực hiện chỉ giáo. Chỉ có Poullet Osier là còn hoài nghi những giải pháp được Pasquier đưa ra:

– Trấn áp, đàn áp, đã phải là giải pháp tối ưu chưa? Xin các ngài cân nhắc lựa chọn. Người Annam hay nói “đổ dầu vào lửa”. Liệu chúng ta có tạo nên sự yên ổn hay tạo ra sự bất bình lớn hơn? Tôi nghĩ, người Annam đã làm được nhiều hơn những gì chúng ta tưởng. Sau việc ám sát Bazin sẽ còn điều gì khác? Câu trả lời giành cho bộ máy an ninh và cơ quan mật thám do ngài Arnoux đứng đầu.

Arnoux được tiếng là người nói thạo tiếng Việt chẳng kém người Việt, lần nữa tỏ chính kiến:

– Vâng, ngoài các biện pháp cứng rắn, còn có câu người Annam thường dùng, đó là “lạt mềm buộc chặt”. Ta sẽ không quên những biện pháp thít chặt đối với dân bản xứ. Trấn áp phản nghịch và mua chuộc những tên qui hàng, sẽ là cách thức luôn luôn song hành. Chúng ta tung mẻ lưới bắt những tên sừng sỏ và cả những tên đồng lõa trong hội kín của chúng. Chúng ta sẽ tỏ rõ sức mạnh của bộ máy cai trị trên sứ sở Annam này.

Robin nói:

– Việc Bazin bị ám sát, đối với toàn cục thì chưa có gì đáng kể. Nhưng ngay ở Hà Nội vào đúng cái đêm chuẩn bị Giao thừa của xứ Annam thì thật là điều xỉ nhục cho bộ máy cai trị của chúng ta. Tôi có cảm giác chúng ta đang ngồi trên lò lửa, ngồi trên trái bom chưa phát nổ.

Poullet Osier tiếp lời:

– Tôi đồ chừng những kẻ ăn lương của Pháp Quốc không phải ai cũng mẫn cán. Nhiều kẻ chỉ biết ngồi chờ lương mà không biết hành động gì cho xứng với đồng lương.

Robin phụ họa:

– Đúng thế! Một số kẻ ăn hại, mà vẫn nhân danh làm việc cho người Pháp!

Lúc này, Pasquier chợt nhớ câu của Robin đã ví “sức mạnh của chúng ta chẳng khác gì mãnh hổ vồ đàn ong”. Chưa vồ được con ong nào, đã bị đốt sưng mặt. Kết thúc buổi họp, Pasquier không phân tích thêm, mà chỉ thị:

– Công việc lúc này đặt trách nhiệm chính lên hai cơ quan: Sở mật thám và Hội đồng Đề hình. Điều tra, lùng bắt nghịch loạn. Kịp thời đưa ra vành móng ngựa xét xử bọn can tội chống nhà nước Đại Pháp. Còn quân đội phải sẵn sàng chuẩn bị ứng phó với mọi tình huống xấu xảy ra trên khắp xứ sở Đông Dương, mà chủ yếu là Hà Nội và các tỉnh trung thượng du Bắc Kỳ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương XI

                                   DỰ BÁO KHÔNG ĐOẠN CUỐI

                                                          

                                                           Xuyên qua trời đêm

                                                           Ánh sao mách bảo chân trời xa hút

                                                           Nơi đi không thể đến

                                                           Là con đường chồng chất bi thương

 

Nguyễn Thái Học chỉ có thể gặp Nguyễn Thị Giang trong chốc lát rồi lại mỗi người đi một ngả. Đã mấy ngày Nguyễn Thái Học đi suốt từ làng này đến làng khác để nắm tình hình. Bây giờ anh chỉ muốn nằm chợp mắt một lúc. Nhưng không thể. Mấy ngày có những dấu hiệu không lành. Bắc Giang và Bắc Ninh là nơi phong trào khá mạnh. Vậy mà, đã mấy lần anh phải đối phó với những tình huống khá ngặt nghèo. Nếu không có cơ sở tốt, hẳn là anh đã không còn an toàn. Anh chưa lý giải được vì sao mật thám lại hoạt động khác thường?

Vừa sau tết được vài ngày đã thấy bọn chức sắc địa phương bị đốc thúc đi canh gác và lùng sục liên miên vào các làng quê vốn dĩ lâu nay yên tĩnh.

Chắc hẳn là có sự gì? Nguyễn Thái Học cố đoán. Chỉ biết tự nhủ mình phải cảnh giác hơn, thận trọng hơn.

Những giây phút được bên người yêu quý giá biết bao. Bởi nhiệm vụ chưa cho phép hai người được gần bên nhau. Trong ngôi nhà cơ sở của Lý trưởng Dương Quang, Nguyễn Thái Học ngắm Nguyễn Thị Giang như muốn thu hết hình ảnh người yêu vào trong mắt mình. Nguyễn Thái Học lấy trong túi ngực tờ giấy được bọc kỹ, hồn nhiên nói:

– Anh làm thơ cho em đây này! Thơ không hay đâu, nhưng là tình cảm của anh, mượn thơ để anh nói những điều mà câu nói bình thường không nói được. Anh giữ mãi, đến hôm nay mới đưa được cho em.

Cầm thơ, Giang lướt nhanh những dòng chữ, cảm động thực sự:

– Ôi! Em chẳng biết nói gì hơn.

– Những lời thơ anh vụng về chả thể nói hết…

– Như thế mới là chân thành. Em sợ nhất những lời bóng bẩy sáo rỗng.

Nhìn dáng vẻ mệt mỏi bơ phờ của Nguyễn Thái Học mà Giang thấy thương xót vô hạn. Giang càng nhận ra sự nhiệt huyết của người yêu trong hoạt động cách mạng. Đã có người bảo Nguyễn Thái Học như có phép tàng hình. Nay xuất hiện ở tỉnh này, mai lại thấy ở tỉnh kia. Lúc làm anh lái trâu, lúc làm người buôn bán lâm thổ sản, lúc lại là gã hoạn lợn. Thay hình đổi dạng liên tục. Nếu không phải người yêu, lúc Nguyễn Thái Học đội chiếc nón mê, xách chiếc cuốc ở đồng về, Giang khó mà nhận ra. Điều ấy cũng là bài học đối với Giang trên những chặng đường hoạt động cách mạng sẽ phải trải qua.

Bây giờ lại sắp phải chia tay. Học nói:

– Em gầy quá!

– Anh cũng vậy! Gắng giữ gìn sức khỏe anh nhé. Con đường hoạt động của chúng ta còn dài. Nếu em thay được mọi vất vả của anh, em cũng xin sẵn lòng.

– Anh lúc nào cũng muốn gần em. Nhưng vì công việc, chưa thể bên nhau được. Sau tết một thời gian, anh đề nghị Tổng bộ để em giúp anh những công việc tham mưu. Để có nhiều dịp gần nhau hơn.

– Em cũng mong như vậy.

– Giờ anh phải về Hà Nội, xem tình hình thế nào. Ở lâu trên vùng mấy tỉnh vừa rồi cũng sốt ruột. Không biết tình hình Hà Nội diễn biến ra sao? Thôi, đã đến lúc phải chia tay rồi!

– Còn em sẽ ngược lên Yên Bái, thăm chị Bắc và cũng nắm tình hình trên đó luôn. Anh bảo trọng nhé!

– Em giữ gìn sức khỏe nhé! Cho anh gửi lời thăm chị Bắc. Chúc chị Bắc thành công trong công việc.

– Chỉ trong thời gian ngắn, chị Bắc đã gây được cơ sở thật vững vàng ở Yên Bái. Uy tín của cách mạng nhờ thế mà tăng lên nhiều.

– Phía trước còn nhiều gian nan lắm. Anh rất lo cho em.

– Anh đừng lo mà! Anh hứa đừng lo, em mới cho anh đi!

– Ờ ờ, anh không lo…

Nói chia tay mà cứ dùng dắng mãi. Tay chẳng muốn rời nhau. Mắt Giang ngân ngấn nước. Học đặt nụ hôn lên đôi mắt ấy, rồi mới quyết buông tay khỏi tay Giang.

Còn muốn tâm sự nhiều hơn nữa, nhưng vẫn phải chia tay, Nguyễn Thị Giang đứng nhìn theo người yêu lưu luyến. Chẳng mấy chốc bóng Nguyễn Thái Học khuất sau đồng mía.

 

*

Vừa tới Gia Lâm, Nguyễn Thái Học tạt vào nghỉ chân uống nước ở quán nhỏ ven đường. Liếc thấy tờ báo của khách lạ ngồi uống nước, Nguyễn Thái Học liền hỏi mượn xem. Thoáng một chút tái mặt, Nguyễn Thái Học lại tỏ vẻ bình thản ngay. Bản báo loan tin Bazin bị những kẻ lạ mặt ám sát vào đêm Giao thừa. Những kẻ can phạm đang bị các nhà chức trách truy lùng. Ai phát hiện kẻ tình nghi báo sở mật thám có thưởng.

Chủ quán nói rằng, không biết làm sao mà mấy ngày liền cảnh binh lùng bắt người gớm quá. Họ mang cả chó béc giê sục vào các ngõ. Nghe đâu có vụ giết người khủng khiếp ngày 30 tết bên Hà Nội. Mà là giết một ông tây cơ!

Người đàn bà ngồi ăn quà sáng góp chuyện: gớm, hôm qua em có việc sang nội thành thấy còi tu huýt inh ỏi. Họ đi bắt người. Nghe đồn là bắt hội kín. Em thấy mấy người bị còng tay, ném lên thùng xe khóa chặt. Mà không hiểu sao chân tay em cứ bủn rủn cả lên.

 

Trả tiền cho chủ quán nước xong, Nguyễn Thái Học chủ định vòng ra nhà Nguyễn Ngọc Sơn để thu thập tin tức. Chỉ mới đi được một đoạn đã thấy Lê Thị Thăng, vợ Nguyễn Ngọc Sơn đội nón súp mặt, ra hiệu có động. Nguyễn Thái Học vội tắt ra phía đường sắt, rồi theo đó đi ngược về Yên Viên. Nguyễn Thái Học đoán biết ngay ai là người đã ám sát Bazin. Chắc chắn chỉ có Nguyễn Văn Viên. Bữa trước, Viên đề xuất việc ám sát Bazin trong cuộc họp ở khách sạn 38 Hàng Bông, đã không được Nguyễn Thái Học đồng ý. Vậy mà lại hành động liều lĩnh manh động vô tổ chức. Phen này không tránh được sự trả đũa của bộ máy thực dân cai trị.

Đang lúc nước sôi lửa bỏng, càng tránh xa Hà Nội càng tốt. Vừa may có chuyến tàu chợ đi Yên Bái, Nguyễn Thái Học mua vé đi liền. Đến ga Bạch Hạc, Nguyễn Thái Học xuống tàu định về nhà. Nhưng chợt nghĩ, có thể mật thám đang rình mò để chộp Nguyễn Thái Học, nên anh rẽ ngược lên vùng Lập Thạch, vào nhà lý trưởng làng Việt Xuân, nghỉ một đêm, sáng sau đi tiếp.

Anh ra bến Phó Đáy, thuê đò Phú Hậu, dọc sang Sông Lô, ngược lên Bạch Lưu, nơi ấy có bạn anh là Vũ Văn Giản đang làm nghề dạy học.

Ngồi trên thuyền trong cảnh trời nước mênh mang, từng làn sương dày, tê buốt đôi tai, cả người rét cóng. Trời đen sập u ám, gió quẩn đồng không, Nguyễn Thái Học càng thấm thía cảnh lữ khách không nhà, bơ vơ cô quạnh. Thuyền càng đi lên, cảnh càng đìu hiu vắng vẻ. Rặng núi xa mờ trầm mặc, hun hút trong màn mưa bụi. Anh thấy lòng trống trải, nặng trĩu nỗi buồn thương. Anh nhớ Giang, không hiểu giờ khắc này Giang có thấy nóng lòng, có máy mắt vì những tín hiệu yêu thương lo lắng từ anh phát ra. Giang có biết anh đang phiêu bạt lên chốn rừng xanh? Để bảo đảm an toàn còn lo tiếp công việc của đảng, việc của nước của dân. Anh lo cho số phận của anh em đồng chí. Ai đã bị bắt, bị giam cầm? Ai còn đang lẩn trốn chịu những khổ hạnh khôn lường?

Anh lại nghĩ tới Nguyễn Văn Viên, chắc không ai khác, chỉ vì một hành động không chín chắn mà làm cho cả tổ chức điêu đứng. Nhưng bây giờ có trách cứ Viên cũng chẳng ích gì. Vấn đề cốt tử lúc này là phải tìm xem những ai còn không bị bắt, tập hợp nhau lại, củng cố lại đảng và tìm ra phương cách đấu tranh mới.

Cảnh tượng trước mặt mông lung làm anh lại nhớ câu thơ trong bài thơ “Đông dạ lữ hoài” của Phạm Tuấn Tài:

Nhạn yến đổi thay chừng mấy độ

Trúc mai sum họp biết bao giờ

Niềm tây biết ngỏ cùng ai tá?

Chỉ thấy trăng suông bóng lập lờ

Rời thuyền lên bờ, trời đã xâm xẩm tối, phải đi ngoằn ngoèo mấy chặng bờ ruộng mới tới nơi Vũ Văn Giản cư ngụ. Dạy học ở trường công, Giáo Giản dựng một ngôi nhà nhỏ để tiện cho mọi sinh hoạt cá nhân. Nơi Giáo Giản dậy học là vùng bán sơn địa. Ở nơi này đồi gò tiếp với rừng già, cây cối bao la, có thể vượt sang đất Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang. Nơi này còn có con suối đá mang nhiều dấu tích lạ, cổ sơ, chứng tỏ từ xa xưa đã có vết chân của người tiền sử, những nhà khoa học cũng chưa có dịp khảo cứu. Núi rừng càng đi càng thấy trùng điệp.

Một đêm với Giáo Giản có bao chuyện nói với nhau. Nguyễn Thái Học thao thức mãi, cứ chợp mắt là mơ toàn những cảnh chém giết rùng rợn. Giáo Giản thấy Nguyễn Thái Học trở mình liên tục, lên tiếng hỏi:

– Không ngủ nổi à?

– Khó ngủ quá! Bao nhiêu chuyện ám ảnh. Khéo mà anh em mình ở Hà Nội bị bắt tất cả rồi. Tôi lo quá! Nhất là sau khi xem mẩu báo ở Gia Lâm.

– Lên được đây an toàn là tốt lắm rồi! Anh cứ nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một ít ngày, rồi hãy lo tới công việc. Bây giờ có suy nghĩ lo lắng cũng chưa giải quyết được việc gì.

– Tôi cũng nghĩ, phải lánh khỏi Hà Nội một thời gian. Đợi mọi chuyện lắng lại rồi tính sau. Bây giờ, trước nhất là phải bắt liên lạc lại với các chiến hữu.

– Đành thế thôi!

– Ở đây cũng còn trống trải. Thấy người lạ mặt, cũng không tiện cho anh. Hay sớm mai anh chỉ đường cho tôi lên chỗ ông bác tôi là ông cụ Tổng ở bên Lương Pha châu Sơn Dương. Ông cụ người Thổ Tang, lên đó lập nghiệp, nhờ khai khẩn chăn nuôi mà khá giả lắm.

– Đúng rồi! Nhân thể chúng mình làm một chuyến đi săn thú.

– Nếu thuận tiện, tôi sẽ lánh ở đó một thời gian.

Gà gáy mấy lần, hai người mới chợp mắt. Vừa im tiếng rì rầm chuyện trò, đã thấy Nguyễn Thái Học ngáy pho pho. Chắc lúc này cơn mệt đi đường mới thấm.

 

Đường lên Lương Pha mới thật gian truân. Bây giờ Nguyễn Thái Học và Vũ Văn Giản mới hiểu thế nào là đường sống trâu. Đó là con đường mòn leo núi, trâu đi lâu ngày tạo thành từng bậc như bậc thang gồ lên tựa lưng trâu, phải lựa từng bước mới đi nổi. Đường lại lắm vắt. Cái loại thân mềm hút máu, hình thù giống loài đỉa ruộng. Nó nằm phục dưới lá cây mục. Thấy hơi người là ngóc đầu ngo ngoe. Vô ý để nó bám phải, chỉ vài phút là nó hút no máu, thân căng phồng đỏ mọng. Nhưng ghê hơn cả là con vắt lá, nó đậu lơ lửng trên cành cây, quệt phải nó là nó có thể bám ngay vào quần áo, rồi lần vào nách, vào cả chỗ hiểm mà hút máu. Ai đi đường cũng ghê nhất bị vắt bám. Thế mà phải đi trong rừng mấy tiếng đồng hồ mới tới được tổng Lương Pha. Thỉnh thoảng hai người lại phải dừng lại để gạt vắt.

Nhà cụ Tổng tuy gọi là giàu có, nhưng so với miền xuôi cũng còn bừa bộn lắm. Vì sống theo tập quán miền rừng, mọi tiện nghi trong nhà cũng không có gì đáng kể. Chỉ hơn dân quanh bản là không bao giờ chịu đói. Cụ có đàn trâu tới vài chục con. Trên đường vào nhà cụ Tổng, phân trâu ngập ngụa. Mùi khai nồng của nước đái trâu xông lên tận óc. Phân gà phân ngan rắc ra tận cổng. Tập quán thả rông gia súc của dân miền núi chắc khó thay đổi.

Cụ Tổng trao cho hai người một khẩu súng hỏa mai. Nguyễn Thái Học cầm súng, hai kẻ lãng tử đi vào rừng. Dáng vẻ chẳng giống người biết đi săn. Mỗi khi muốn bắn lại phải nhồi thuốc súng ấn giấy vào, rồi mới nhồi những viên đạn chì tròn nhỏ. Tuỳ thú mà chọn cỡ đạn. Nguyễn Thái Học và Giáo Giản đi suốt buổi mà chẳng bắn được con thú nào. Phần vì thuốc ẩm đạn xịt. Phần vì cũng không còn tâm trí đâu để săn bắn.

Ngồi lại bên bờ suối để thở. Hai chàng bỗng phá lên cười khi tức cảnh, Nguyễn Thái Học buột ra câu thơ:

Mình thì đi săn thú

Còn họ đi săn mình

Xem đời người cũng lạ

Cứ săn nhau rập rình

Lùng sục trong rừng đến tận trưa, hai chàng mệt lử, Nguyễn Thái Học bỏ ý định tạm lánh ở nhà cụ Tổng. Anh nói với Giáo Giản rằng:

– Trên này kín đáo thật, nhưng sẽ mù tịt về tin tức. Như vậy là bất lợi chứ không phải tiện lợi. Không nắm được tin tức thì chẳng khác thằng mù.

– Tôi cũng nghĩ như vậy. Cơm xong, xin phép cụ Tổng ta về sớm.

Cụ Tổng nói chẳng mấy khi khách ở Thổ Tang lên, muốn giữ ở lại ít ngày chơi. Thịt rượu thiếu gì? Ở chơi hàng tháng cũng đủ ăn đủ uống! Nhưng Nguyễn Thái Học và Giáo Giản vin mọi lý do để không ở lại.

 

Nguyễn Thái Học và Vũ Văn Giản về tới Bạch Lưu thì trời đã sẩm tối. Bước vào nhà đã thấy Nguyễn Khắc Nhu đang ngồi đợi. Nguyễn Khắc Nhu đang ở Vĩnh Yên, được tin đồng sự báo Nguyễn Thái Học đang ở Lập Thạch, đoán thể nào cũng đến với Vũ Văn Giản, nên đi thẳng tới đây.

Thấy Nguyễn Khắc Nhu đến, Nguyễn Thái Học mừng lắm. Thế là thêm một người không bị sa lưới của mật thám.

– May mắn quá! Bọn chúng đang truy lùng chúng ta. Hôm tôi về Gia Lâm. Rất tình cờ được bà chủ quán kể về chuyện bắt bớ ở Hà Nội, tôi tính vù đi ngay. Chứ ở lại lớ xớ bị chúng nhận mặt, hoặc kẻ tham tiền đi báo mật thám thì vô cùng rắc rối! Bây giờ mật thám nhan nhản. Tôi đoán người ra tay ám sát Bazin có thể là Nguyễn Văn Viên.

– Thế hả? Nguyễn Văn Viên là học trò của tôi. Gia cảnh éo le lắm. Cha mẹ vùi xác trong đồn điền cao su Nam Kỳ. Cậu này hăng hái nhưng còn sốc nổi!

– Chúng chưa biết thật cụ thể ai ám sát Bazin, nhưng việc bắt bớ khủng bố là điều không tránh khỏi.

– Tất nhiên rồi! Ta cần đề phòng vẫn hơn.

Nguyễn Thái Học nói thêm với Giáo Giản:

– Anh Giản ở đây trước hay sau rồi sẽ không ổn. Phải tính kế đi đâu, chứ nằm yên một chỗ để bọn chúng đến túm thì thật là hạ sách.

Vũ Văn Giản đề xuất:

– Hay là ta có thể tạm lánh sang Tàu một thời gian. Ở bên đó chúng không thể dễ dàng bắt được ta. Hơn nữa, bên đó bà con Việt Kiều đông, sẽ che chở cho ta.

– Tôi cũng đã nghĩ tới điều này. Nhưng sang đó sẽ khó chỉ đạo phong trào ở trong nước. Chi bằng, anh Giản sang phía Hải Dương, Hải Phòng chỉ đạo công tác đảng ở đó. Chúng ta không được phép để phong trào nguội lạnh.

– Tôi sẵn sàng nhận sự phân công của tổ chức. Nhưng tôi vẫn nghĩ, sang Tàu là để bảo toàn bản thân, rồi tính kế lâu dài. Riêng Nguyễn Thái Học cũng cần cẩn trọng, anh mà sa lưới là tổ chức sẽ mất trụ cột đấy.

Nguyễn Thái Học sau một lúc đắn đo, bật ra ý định:

– Tôi định thế này, để đánh lạc hướng chú ý của bọn mật thám, tôi sẽ viết một lá thư gửi vào một địa chỉ vu vơ nào đó, nói là đã sang Tàu. Cho liên lạc đưa vào Hà Nội, cốt sao cho bọn mật thám bắt được người đưa thư. Để chúng đọc được thư, nghĩ là tôi đã qua biên giới mà không truy lùng nữa.

– Đấy cũng là diệu kế. Vì chưa có kế nào hay hơn.

– Nếu sau này cách mạng thành công, thì lịch sử sẽ ghi đây là cuộc đi trốn vĩ đại.

– Hay! Hay! Đi trốn vĩ đại!

Cả ba người cùng cười thích thú.

 

Đêm ấy, khi Nguyễn Khắc Nhu và Vũ Văn Giản tiếp tục chuyện trò thì Nguyễn Thái Học lấy giấy bút ngồi viết một lá thư. Thư có nội dung nửa kín nửa hở, ý tứ là dặn công việc người ở trong nước, còn Học đã sang Tàu. Nội dung bức thư là:

           “Em Đào thân mến! Hôm nay là ngày không được trong lành lắm. Nhưng ngược lại, vẫn là ngày thuận lợi. Anh đã qua Móng Cái. Khi em nhận được thư này thì anh đã yên trí ở đất Tàu rồi. Mong em mạnh khoẻ, thay anh chăm sóc gia đình. Chú ý: chăm sóc cha mẹ chu đáo. Tuy chúng ta đông anh em, nhưng mỗi người mỗi ngả, anh đi chưa hẹn ngày về. Mong em và mọi người gắng sức chăm lo công việc. Đừng vì thương nhớ anh ở xa mà chán nản làm ảnh hưởng đến sức khỏe. Chào em và chúc mọi sự tốt lành. Xem xong thư này em suy xét kỹ, nhớ thực hiện những gì anh căn dặn.  Anh Học.”

Viết xong thư, Nguyễn Thái Học hỏi Nguyễn Khắc Nhu:

– Bây giờ chọn ai đưa thư này?

– Tốt nhất ngày mai tìm Nguyễn Văn Kinh, cậu này lái xe quê đằng Móng Cái, nhưng đã về Bắc Giang ngụ cư, cậu ta trẻ và nhanh nhảu, hiện cậu ta đang ở Vĩnh Yên. Tôi sẽ giao thư này cho cậu ta và căn dặn cẩn thận cách thức và địa chỉ đưa thư. Thể nào mật thám chẳng phục ở 38 Hàng Bông.

– Sợ cậu ta yếu bóng vía sẽ khai báo với mật thám.

– Vậy ta phải có phương án đối phó. Nếu Kinh khai báo sẽ xử lý.

– Thế là yên tâm mà ngủ cho thật ngon đêm nay.

 

Sáng dậy, Giáo Giản nói với Nguyễn Khắc Nhu:

– Cứ để cậu Học ngủ thêm chút nữa. Cậu này đang đói ngủ. Tôi ra bến Sông Lô kiếm một con cá chiên, về làm bữa chia tay cho thịnh soạn. Dân chài họ dậy sớm lắm. Ra mua cá vừa tươi vừa được chọn.

– Sáng kiến đấy! Nghe nói cá chiên Sông Lô ngon nức tiếng. Được thưởng thức xong thì chết cũng đáng đời!

– Ấy, ăn để càng sống dai hơn, chứ chết sao được?

– Thì nói thế cho oách!

– Tôi sẽ trổ tài chế biến món đặc sản này để các anh ăn nhớ đời!

Cũng phải gần trưa bữa cơm chia tay mới sửa soạn xong. Đúng là danh bất hư truyền. Cá chiên thơm lừng. Cá rất nạc, vàng xộm và nổi phồng từng thớ thịt, trông đã hấp dẫn. Gia giảm chẳng kém gì nhà hàng. Thì ra anh Giáo Giản sành ăn thật. Anh ta bảo muốn ăn thì lăn vào bếp, các món ăn hoàn toàn do Giáo Giản tác nghiệp.

Lại có tý tửu ngâm bìm bịp. Ba người vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả. Nguyễn Thái Học khoái chí cười lớn:

– Cảnh này ung dung khác gì hảo hán ở miền sơn cước!

– Đúng là hảo hán còn gì!

– Nào, nâng chén, chúc các hảo hán!

– Các anh còn nhớ câu : “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật. Anh hùng di hận kỷ thiên niên” không?

– Nhớ chứ! Câu ấy của cụ Nguyễn Trãi, trong bài “Quan hải”, thâm thúy lắm! Họa phúc gắn với nhau có nguyên do tiềm ẩn không chỉ trong một ngày; mối hận của người anh hùng có khi ngàn năm mới giải được! Cái ông này cũng lạ, đã về với cây với núi, vui thú cùng cỏ hoa muông thú, thảnh thơi cùng “du sơn tự”, chiêm nghiệm thơ phú, mà còn bị cái án Lệ Chi Viên oan nghiệt.

– Bởi đấy là bi kịch của thời thế. Có thời gian ta sẽ luận bàn thêm.

– Người có chí khí, hậu thế sẽ biết! Lòng dạ Ức Trai vẫn sáng như Sao Khuê mà!

– Vậy thì cuộc dấn thân của ta là có lý! Vị quốc vong thân! Người đời nay chưa hiểu thì người đời sau sẽ hiểu. Miễn là ta có lòng trung với Tổ quốc.

Ba người ăn xong bữa thì cũng đã trưa. Giáo Giản tiễn hai người bạn ra cửa. Họ lặng lẽ chào biệt nhau.

– Chia tay nhé! Nhớ tìm bắt liên lạc mọi người và nhớ đừng để mất liên lạc với nhau. Sau dịp này ta sẽ nhóm họp để tiếp tục nhiệm vụ mới.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương XII

                                   NHỮNG NGÀY KHÔNG BÌNH YÊN

 

                                                           Tiếng cuốc kêu ai oán nỗi buồn

                                                           Sao tiếng cuốc dứt thịt da đến vậy?

                                                           Nào đâu biết phía nào không cạm bẫy

                                                           Đâu nơi nào không gai góc để mà đi?

 

Ra khỏi Bạch Lưu, theo đê sông Phó Đáy một đoạn dài mà Nguyễn Thái Học vẫn băn khoăn chưa biết đi về đâu. Về Thổ Tang ư? Muốn lắm, nhưng ngại bị mật phục. Rồi Nguyễn Thái Học lại nghĩ mình lo xa vậy thôi, chứ chắc gì chúng biết mình ở đâu. Hơn nữa, chúng sẽ nghĩ mình không dám về Thổ Tang, vì ai dại gì chui đầu vào rọ? Nghĩ thế, Nguyễn Thái Học cho rằng về Thổ Tang cũng là thế bất ngờ, mật thám không thể lường được. Thôi cũng là họa phúc trông vào may rủi. Nhưng càng tránh được rủi bao nhiêu càng tốt.

Vừa đi Nguyễn Thái Học vừa nghĩ mông lung. Con đường đê dẫn về nhà quá quen thuộc với tuổi thơ của Học. Những lần cưỡi trâu đi chăn đồng xa. Để trâu gặm cỏ trên bờ đê, rồi rủ nhau tìm cỏ gà chơi chọi. Những chú gà bằng cỏ thay nhau đứt cổ vì những cú vụt hiểm hóc. Trò chơi đơn sơ mà mãi không chán. Ngày nào cũng chỉ có một thứ thú vui lặp đi lặp lại mà tuổi thơ trôi qua lúc nào quá nhanh. Bây giờ đâu còn tuổi vô tư nữa. Bao nhiêu những chuyện trên đời. Ra tới chốn phố phường càng nhiều phức tạp. Khổ tâm nhất vẫn là thân phận của cả một dân tộc mất nước. Đúng là lưu vong ngay chính quê hương mình. Rồi người dân mình dựa vào ngoại quốc lại ăn hiếp người mình. Kẻ ăn không hết người lần chẳng ra. Bao giờ dân Việt mới được hưởng không khí tự do, được sống đúng cuộc sống làm người.

Bước chân như thể phiêu du.

Học tạt về nhà giữa lúc ông Hách bà Quỳnh vừa đi làm đồng về.

Trông thấy con, bà Quỳnh quính quáng cả chân tay, vội nói:

– Con ơi, thằng Nho em con nó cũng đi rồi! Nó bảo nó đi sang Sơn Tây theo anh Phó Đức Chính. Con có gặp em con ở đâu không?

– Mẹ ơi, con chưa gặp. Nhưng mẹ cứ yên tâm. Thể nào anh em con cũng gặp nhau.

– Mẹ sốt ruột lắm con ơi. Hai đứa lớn đều đi cả. Nếu mệnh hệ nào thầy mẹ biết sống làm sao?

Bà Quỳnh báo tin thêm:

– Cả Giang cũng về tìm con tối hôm qua. Nó nói sốt ruột không biết tin tức của con ra sao, nên sáng sớm đã đi rồi.

– Thế Giang có nói đi hướng nào không mẹ?

– Cuống lên mẹ cũng chẳng hỏi. Nhưng nói đi tìm con.

Ông Hách buông cửa liếp để nắng đỡ dọi vào nhà rồi mới nói với Nguyễn Thái Học:

– Con về là thầy mẹ mừng lắm! Lúc nào cũng nơm nớp lo cho chuyện an nguy của các con. Minh tình rồi sẽ ra làm sao?

– Thầy mẹ có thấy động tĩnh gì không?

– Chưa thấy gì. Nhưng nghe thiên hạ kháo nhau, ở Hà Nội đang bắt bớ những người tham gia hội kín. Con phải cẩn thận. Hội kín ấy nghe nói táo bạo lắm. Dám ám sát cả người Tây.

Ông Hách không hề biết rằng chính con ông đang đứng đầu hội kín ấy. Qua câu chuyện đứt nối giữa những người bạn của con ông mỗi khi đến nhà, ông cũng lơ mơ hiểu con ông đang cùng với bạn bè làm chuyện gì tày đình lắm. Ông ghét Tây nhưng không có gan chống Tây. Hơn nữa mình già cả rồi, chả thể làm được những việc động trời. Ông không ngăn cấm các con. Chỉ biết khuyên chúng giữ mình. Đề phòng những hiểm nguy, đe dọa đến tính mạng. Ông chỉ biết dặn con:

– Con phải liệu giữ thân.

– Con nhớ rồi. Nhưng con chỉ về thăm thầy mẹ chốc lát rồi lại phải đi ngay. Con cũng muốn gặp em Nho để được yên tâm.

– Đi ngay hả con?

– Con đang dính dáng vào chuyện ám sát Tây đấy. Mật thám đang truy lùng. Không ở nhà được đâu thầy mẹ ạ.

Nguyễn Thái Học qua lối sau nhà tắt sang cánh đồng đi về phía cây đa đầu làng, nơi có quán nước đêm trước đã tỏ tình cùng Giang.

 

*

Qua đò sông Hồng, Nguyễn Thái Học sang đất Sơn Tây, nóng lòng đi tìm Phó Đức Chính. Từ khi tình hình bắt bớ căng thẳng, Phó Đức Chính liên tục chuyển chỗ ở. Đến mấy cơ sở đều nói không thấy Phó Đức Chính ở đâu. Tuy lo cho bạn bị bắt, nhưng Học lại nghĩ khó bắt được anh chàng này lắm. Và Nguyễn Thái Học đoán ngay nơi có thể Phó Đức Chính sẽ đến.

Khó nhận ra Nguyễn Thái Học trong trang phục nâu sồng đầu trọc của một nhà sư đi khuyến giáo. Nhà sư xuống đò Trung Hà vượt qua sông Đà tạt sang làng Võng La. Nơi này là một cơ sở khá vững vàng của của Việt Nam Quốc Dân đảng. Chi bộ ở đây do cụ Nguyễn Bá Đạt là người trung kiên, cả nhà tham gia cách mạng, cùng Nguyễn Đại Tụ lãnh đạo. Đã về đến đây Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính thân thiết như người nhà. Cho nên đến Võng La tìm Phó Đức Chính là phán đoán chuẩn xác có bảo đảm.

Không những tìm thấy Phó Đức Chính mà còn gặp cả Đoàn Trần Nghiệp, lại gặp cả Nguyễn Văn Nho. Mừng quá, Phó Đức Chính ôm lấy Nguyễn Thái Học mà lắc khiến anh suýt ngã.

Đoàn Trần Nghiệp vừa thấy Nguyễn Thái Học đã vội thông báo: Hà Nội bọn chúng lùng bắt người dữ quá. Hầu hết anh em bị mật thám bắt rồi. Trúc Khê, Nhượng Tống, Nguyễn Triệu Luật, Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm…sa lưới cả. Tôi đành phải bật ra Sơn Tây, rồi cùng Phó Đức Chính lánh sang Võng La.

Đoàn Trần Nghiệp kể tiếp:

– Chiến dịch bắt bớ khủng bố của Pháp mở đầu từ ngày 17 tháng 2 năm 1929. Nguyễn Quốc Túy đã phản bội. Hắn là viên thừa phái ở Nghệ An. Hắn đã khai tuốt luốt mọi người. Để tâng công với tây, hắn nói có biết Nguyễn Thái Học, vì Nguyễn Thái Học có rủ hắn vào hội kín. Thế là từ đó bọn mật thám lần ra đầu mối người ám sát Bazin.

– Có phải Nguyễn Văn Viên?

– Đúng thế! Nguyễn Văn Viên cùng với Nguyễn Văn Lân và Nguyễn Đức Lung, hành vi thì dũng cảm, nhưng hành động chưa phải lúc.

– Cho nên, việc không chấp hành kỷ luật của đảng tai hại vậy! Sự liều lĩnh ấy không thể coi là dũng cảm được. Đó là sự liều lĩnh mù quáng.

– Chúng tôi rất mong gặp anh để cho biết chỉ thị của tổ chức.

– Bây giờ thì chúng ta phải nằm im đã. Xuất đầu lộ diện lúc này là sa vào bẫy của chúng nó. Im nhưng vẫn là hoạt động. Để kiểm điểm xem tổn thất thế nào, rồi tiếp tục củng cố, cải tổ lại tổ chức và định ra lề lối phương lược hoạt động mới. Theo hôm trước đã bàn, được cả Nguyễn Khắc Nhu và mọi người nhất trí, Phó Đức Chính từ nay sẽ thay Hoàng Văn Tùng làm Trưởng ban ám sát. Vì anh Tùng ở tận Thanh Hóa. Phong trào ở đó đang được duy trì. Để anh ấy đảm nhiệm cả một vùng tỉnh Thanh cũng là tốt lắm rồi.

– Tôi sẵn sàng đảm nhận.

– Còn vấn đề này nữa. Sau những ngày tạm lánh ở đây, vẫn phải bám sát địa bàn Hà Nội, địa bàn ấy rất quan trọng, phải về bắt mối với những người tin cẩn trong bộ máy của bọn chúng còn chưa bị lộ, để tiếp tục nắm tin tức. Ở Hà Nội mới có điều kiện nắm các động thái của bộ máy cầm quyền và liên lạc với các nơi. Việc này Phó Đức Chính và Đoàn Trần Nghiệp đảm nhiệm. Còn mình sẽ lên mạn Yên Bái xem tình hình. Thật nóng ruột các bạn ạ.

Nguyễn Văn Nho xin vào ban ám sát dưới sự chỉ huy trực tiếp của Phó Đức Chính và Đoàn Trần Nghiệp, được Nguyễn Thái Học đồng ý ngay. Học chỉ dặn em:

– Tuổi trẻ hăng hái, nhưng không được tùy tiện. Phải tuân lệnh cấp chỉ huy. Không được liều. Cha mẹ thương em lắm! Nhớ giữ gìn sức khỏe.

– Em nhớ!

 

*

Pasquier cho gọi Thống sứ Robin, Chánh mật thám Arnoux và Brides Hội đồng Đề hình tới Phủ Toàn quyền để kiểm điểm về kết quả truy lùng và bắt bớ những kẻ phản nghịch, chuẩn bị đưa ra xét xử.

Arnoux đưa ra một danh sách dài những 227 đảng viên Việt Nam Quốc Dân đảng bị bắt. Hắn có vẻ đắc thắng vì những chiến tích đạt được. Có thể nói những kẻ phiến nghịch nằm trong khu vực Hà Nội đã được hắn đối chiếu với lời khai của tên Nguyễn Quốc Túy, đều đã sa lưới mật thám.

– Trong số những tên bị bắt đáng kể là Phạm Tuấn Tài, người Vụ Bản, Nam Định. Tên này vừa là giáo học vừa là nhà văn có bút hiệu là Mộng Tiên. Những trang sách của tên nhà văn này cực kỳ nguy hiểm bởi nó trang bị cho dân chúng tư tưởng phản kháng. Tên Phạm Tuấn Lâm, bút danh Dật Công, anh ruột Phạm Tuấn Tài, một dịch giả thông thạo tiếng Tàu, đã dịch các tác phẩm của Tôn Dật Tiên, tuyên truyền vào xứ Annam. Tên Ngô Văn Triện, nhà văn, bút hiệu Trúc Khê. Tên này người Hoài Đức, Hà Đông, vừa dịch sách vừa viết báo, có nhiều bài viết sắc sảo tuyên truyền chống nhà cầm quyền. Tên Nguyễn Triệu Luật viết văn, làm báo. Từng làm giáo học ở Tuyên Quang, Hải Phòng và Hà Nội. Tên Hoàng Phạm Trân, nhà văn, bút hiệu Nhượng Tống. Tên này viết sách và dịch sách, những trang sách của hắn khơi dậy lòng tự tôn dân tộc, cũng không kém nguy hại. Còn bắt được tên Nguyễn Văn Viên, thủ phạm tổ chức ám sát Bazin. Tên Hồ Văn Mịch bạn rất thân của Nguyễn Thái Học. Trong nam cũng sẽ bắt Trần Huy Liệu, Nguyễn Phương Thảo. Nhưng ta đã để lọt lưới những con cá lớn, những kẻ cầm đầu tổ chức Việt Nam Quốc Dân đảng. Đó là tên Nguyễn Thái Học đảng trưởng và các tên Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính. Sau những đợt truy lùng gắt gao khắp cả nước, nhưng mà chúng vẫn biệt vô tăm tích. Riêng tên Nguyễn Văn Viên bắt vào Hỏa Lò đã tự cắn lưỡi chết.

– Kết quả lục soát đã thu được nhiều tài liệu quan trọng, rất nhiều truyền đơn và cờ của Việt Nam Quốc Dân đảng cất dấu ở nhiều địa điểm trong Hà Nội. Chúng ta phá vỡ hầu hết cơ sở của bọn phản loạn.

– Còn bắt được Nguyễn Văn Kinh, liên lạc viên của Việt Nam Quốc Dân đảng với một bức thư có nhiều điều đáng ngờ.

– Đã đối chiếu nét chữ của Học chưa?

– Đối chiếu rồi! Chữ xấu. Trăm phần trăm nét chữ của Học.

Robin xem bức thư do Arnoux đưa cho, rồi nói:

– Bức thư này có nhiều nội dung phải giải mã. Tôi có thể mạo muội suy luận thế này. Học viết rằng “hôm nay ngày không được trong lành lắm”, có ý là tổ chức của hắn đang bị khủng bố. Học viết “ở đất Tàu rồi” là đánh lừa sự chú ý của ta. Học viết “chăm sóc cha mẹ chu đáo” có ý căn dặn phải bảo vệ cơ quan đầu não của đảng. Học viết “tuy chúng ta đông anh em, nhưng mỗi người mỗi ngả, anh đi chưa hẹn ngày về” là nói tình thế của Việt Nam Quốc Dân đảng hiện tại. Học viết “đừng vì thương nhớ anh ở xa mà chán nản” là động viên mọi người giữ vững ý chí…

– Chúng ta đánh rắn chưa dập đầu, mối hiểm họa còn tiềm ẩn.

Pasquier cay đắng nói:

– Chưa thể bịt mắt bưng tai bọn dân bản xứ này, vì chúng vẫn còn những tên có trí lực, những tên đầu xỏ, vẫn còn những tên dám xả thân liều mình cho lý tưởng của chúng. Nhiều tên được học hành cao, có tiếng trong xã hội, được người Pháp đào tạo hẳn hoi, mà vẫn chống đối. Chứng tỏ bọn trí thức ở xứ sở này rất nguy hiểm. Đáng tiếc, phần lớn những tên khởi nghịch là trí thức và cả người của nhà nước. Kỳ này ta phải bóc hết bọn ăn lương chính phủ thờ ma cách mạng và xử thẳng tay để làm gương cho bọn nổi loạn. Không cần phải chờ đợi hoàn tất hồ sơ. Hội đồng Đề hình cứ việc xử theo quy chế đặc cách mà Bộ thuộc địa đã chuẩn y. Ngài Arnoux và ngài Brides cần thực thi ngay.

– Rõ!

Hai tên đồng thanh nhận lệnh. Phong thái chẳng khác gì các nhà quân sự.

 

Sau khi các thuộc cấp ra khỏi phòng, ngồi lại một mình, Pasquier giở tập hồ sơ “Phúc trình của Sở mật thám ngày 25 tháng 2 năm 1929 gửi Toàn quyền Đông Dương”. Đọc kỹ lưỡng từng chi tiết bản phúc trình, Pasquier thở dài buông một câu “quá mệt mỏi”! Để làm đầy đủ phận sự của mình trong ngày, Pasquier lấy giấy bút thảo báo cáo gửi về Pháp quốc: “…Để đối phó với tình hình xứ thuộc địa Đông Dương, Tòa Đề hình (commission criminelle) đã được thành lập, đây là một quyết định có suy nghĩ chín chắn và mềm dẻo (!) nhằm đàn áp những sự biến chính trị thực sự trầm trọng. Mặt khác, cần thiết phải làm lành mạnh hóa chính trị, thực hiện truy tố và trừng trị một cách bình tĩnh, vào đúng thời điểm thích hợp mà không gây xáo động và phản ứng trong dân bản xứ”!

 

*

Có hai cuộc thẩm vấn xảy ra đồng thời tại Sở mật thám. Một cuộc do Arnoux trực tiếp tra hỏi. Còn một cuộc do Brides thực hiện.

Sau trận đòn nhừ tử của mật thám, không chịu đựng nổi, Nguyễn Văn Kinh đã xin đầu hàng. Hắn khúm núm ngồi xuống chiếc ghế ghẻ do trùm mật thám chỉ. Arnoux hỏi Nguyễn Văn Kinh:

– Bây giờ tao hỏi tiếp. Ai giao nhiệm vụ cho mày?

– Dạ thưa, Nguyễn Khắc Nhu ạ!

– Thư này ai viết?

– Dạ thưa, Nguyễn Thái Học ạ!

– Mày nhận thư này ở đâu?

– Dạ thưa, ở Vĩnh Yên ạ!

– Mày quê Móng Cái, sao lại nhận thư ở Vĩnh Yên.

– Do nhiệm vụ. Và cũng nhằm làm lạc hướng theo dõi của mật thám ạ!

– Nguyễn Khắc Nhu, Nguyễn Thái Học đang ở đâu?

– Dạ thưa, lúc nhận đưa thư này họ đang ở Vĩnh Yên ạ!

– Có chắc chắn như vậy không?

– Dạ thưa, chắc chắn ạ!

– Thư này mày chuyển cho ai?

– Dạ thưa, cho ông Hoàng Văn Đào ở khách sạn ạ!

– Những điều mày khai có đúng sự thật không?

– Dạ thưa, đúng ạ!

– Mày có thể nói những nơi Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu thường lui tới không?

– Dạ thưa, có ạ!

– Giấy bút đây, mày khai cho rõ ràng những cơ sở Việt Nam Quốc Dân đảng mà mày biết. Nếu khai không đúng mày biết hậu quả sẽ thế nào chứ?

– Dạ, vâng ạ! Tôi chỉ xin có một yêu cầu.

– Yêu cầu gì?

– Xin các ngài đừng lộ rằng tôi đã khai báo. Tôi sợ bị họ xử vì “tội phản bội lời thề”.

– Thằng này lo xa nhỉ! Đấy là nghiệp vụ của chúng tao!

Arnoux cười đắc thắng.

Chỉ chừng đó đủ biết Nguyễn Văn Kinh đã bán đứng các lãnh tụ và đồng chí của mình. Hắn run rẩy ngồi vào bàn viết.

 

*

Cuộc thẩm vấn thứ hai do Brides tiến hành.

Trên một chiếc bàn trải tấm thảm màu huyết dụ, có đặt một lọ hoa trông thật lịch sự văn hóa. Brides từ tốn chọn lựa từng câu hỏi.

– Anh Triện đã từng tham gia Nam Đồng thư xã?

– Đúng!

– Anh thân thiết với những ai ở đó?

– Với tất cả anh em Nam Đồng thư xã.

– Khi viết báo anh mang bút danh gì?

– Nhiều bút danh lắm! Trong hồ sơ các ngài điều tra đã biết cả rồi thôi? Tôi chẳng việc gì phải giấu diếm. Trúc Khê, Cẩm Khê, Kim Thượng, Đỗ Giang, Khâm Trai, Ngô Sơn, Hạo Nhiên Đình… đều là bút danh của tôi.

– Trời! Một người đa tài! Tinh thông Hán học lại giỏi Pháp ngữ, giá mà anh đem tài năng ấy phục vụ chính quyền thì tốt biết bao nhiêu.

– Tôi phục vụ dân tộc Việt Nam là diễm phúc lớn nhất của tôi.

Brides chuyển giọng:

– Bây giờ tôi nhờ anh một việc, nếu anh thực hiện, tôi đảm bảo thả anh ra ngay tức khắc.

– Ngài cứ nói.

– Việc vận động Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu ra đầu thú.

– Việc ấy sao tôi làm được?

– Rất đơn giản, anh viết giúp chúng tôi bức thư. Với khả năng chữ nghĩa của anh, tôi tin sẽ thuyết phục được Học và Nhu.

– Tôi đâu dám. Tôi xin phép được từ chối công việc ngài giao. Vì kỷ luật của Đảng tôi là sắt và máu. Ai phản bội sẽ phải chịu tội chết.

– Anh cứ suy nghĩ kỹ đi. Chọn tự do hay chọn ngồi tù mục xương? Với lại, nói có thể các anh trí thức sĩ diện coi là thường, nhưng số tiền thưởng 5 ngàn Đông Dương không nhỏ đâu. Đủ nuôi nhà anh cả đời đấy!

Brides vừa tỉ tê vừa quan sát thái độ của Ngô Văn Triện. Mềm nắn rắn buông. Phương châm xử thế của người Việt là vậy. Phải tạo ra được đòn cân não. Thế mà mang cái chết ra dọa Triện cũng không xong. Triện vẫn thủng thẳng trả lời:

– Việc ngài giao hoàn toàn vượt quá khả năng của tôi.

– Sinh mạng con người cốt ở tự do. Nếu anh giúp được chúng tôi viết thư cho Học và Nhu, không những anh được trả tự do, mà chúng tôi sẵn lòng biếu anh một biệt thự, ở đó tha hồ viết văn viết báo.

Ngô Văn Triện lắc đầu đồng thời với một cú vụt ba toong vào giữa mặt.

– Già lừa ưa nặng này!

– Già lừa ưa nặng này!

Cứ mỗi một tiếng “này” thì máu trên mặt Triện lại ứa ra.

– Mày viết không?

– Không!

– Mày viết không?

– Không!

Hai tên vệ sĩ nhảy vào đấm đá Triện không thương tiếc. Triện mềm nhũn nằm trên vũng máu. Nước lạnh được dội lên khắp người Triện, chuẩn bị hứng  trận đòn tra khảo tiếp.

Brides ngán ngẩm thở dài. Từ sáng đến trưa, không một dòng chữ nào được viết thêm vào trang khẩu cung của Ngô Văn Triện. Còn tên Nguyễn Triệu Luật? Chiều nay hỏi cung tiếp, chắc gì đã có kết quả. Lũ chúng đáng cho đi Con Lôn! Cái lũ dân “An Nam mít” cứng đầu!

 

*

Ở trại con gái Yên Bái, một khu nhà dành cho gia đình các binh sĩ ở, là những ngôi nhà gỗ, vách bằng nứa, lợp lá cọ, nối tiếp nhau thành dãy dài. Ngoài những người có vợ chồng con cái quây quần thì cũng có một số gian nhà dành cho người thân cha mẹ anh chị em đến thăm lính ở. Họ chỉ mới quen biết nhau mà thân như người nhà. Cai Thuyết nhận Nguyễn Thị Bắc là “em gái” ở quê đến Yên Bái bán hàng quà bánh, nên dành được một gian nhỏ thuê ở. Ngày ngày Bắc gánh quả cây, kẹo bánh và nước chè xanh đến bóng mát cây bàng gần khu lính tập để bán, gọi là thêm thắt chút vốn trang trải khi khó khăn.

Mỗi khi luyện tập mệt nhọc, được uống bát chè xanh đặc sánh, nhấm chút kẹo vừng hay bánh đa, cũng đã làm cho các chú lính tỉnh hẳn người. Lại thêm giọng nói ngọt như mía đường của cô gái quê quan họ, càng tăng thêm vẻ thích thú. Những lúc tạm nghỉ giải lao giữa giờ tập luyện được tán dóc, lại có giọng nỉ non đưa đẩy thì mệt nhọc mấy cũng tiêu tan.

Nguyễn Thị Bắc vốn vui tính và đôn hậu, thông minh lại ăn nói có duyên. Chị hay nói đùa nên lính dễ mến. Có lần, gánh nồi nước chè xanh với một bên quà bánh ra gốc cây bàng ngồi bán thì cánh lính phải chạy bôn tập, đợi mãi không thấy trở về giải lao. Bắc vừa giở tấm khăn mỏ quạ sổ mái tóc dài thướt tha ra chải thì cánh lính quay lại, khát khô họng, họ rối rít giục chị mau tay múc nước chè xanh cho họ. Chị đưa cả nồi nước chè xanh cho cánh lính mặc sức uống. Rồi chị nhại giọng thơ của Hồ Xuân Hương đọc mấy câu ứng tác:

           Này này ta hỏi chạy đi đâu?

           Để ta ngồi đợi đã quá lâu

           Cứ tưởng trà xanh hôm nay ế

           Mới sổ tóc ra để chải đầu!

Cánh lính khoái chí cười ngặt nghẽo. Trời ơi, mái tóc dài thế kia, ai mà được chải cho Bắc thì thật là diễm phúc! Cai Hoằng, cai Thuyết và anh em lính khố đỏ càng nể và yêu quý Bắc, hôm nào không thấy gánh hàng của Bắc là họ thấy trống vắng. Họ có biết đâu lòng dạ Bắc có lúc nóng như lửa đốt vì nghĩ đến công việc của tổ chức giao.

 

Đến Yên Bái, mấy ngày liền Nguyễn Thị Giang nằm vùi trong căn phòng nhỏ của Nguyễn Thị Bắc. Sau khi về Thổ Tang không tìm thấy Nguyễn Thái Học, Giang liền quay trở ngược trong nỗi khắc khoải chờ đợi tin tức. Mọi phán đoán dường như bất lực.

Tuy rất mừng là chi bộ trong lính phát triển tốt. Nhiều binh sĩ hăng hái tham gia tổ chức. Nhưng nỗi lo về tính mạng của Nguyễn Thái Học ra sao vẫn làm cho Nguyễn Thị Giang không yên dạ. Giang định ra phía bờ sông Hồng hóng mát cho bình tâm lại, rồi lại thôi, vì lúc này xuất hiện ở bên ngoài không có lợi. Giang lại đành phải ru rú trong nhà.

Thấy Giang có vẻ bồn chồn, Nguyễn Thị Bắc an ủi em:

– Em đừng lo quá, chị tin Học là người tinh nhạy lắm. Mật thám không dễ dàng bắt được cậu ấy đâu.

– Nhưng em vẫn lo. Chỉ trông vào may rủi thôi. Chứ ở xuôi chúng nó xới tung mọi nơi lên rồi.

Từ hôm lên Yên Bái, Giang đã tâm sự với Bắc về tình yêu của của hai người. Theo Bắc đấy là tình yêu đáng trân trọng. Không thuần túy là trai tài gái sắc. Mà vượt lên đó là mối tình cao đẹp gắn với lý tưởng.

Rất may phòng của Bắc cách biệt với khu nhà chung nên dễ chuyện trò. Bắc kể với Nguyễn Thị Giang những hoạt động của anh em binh sĩ Yên Bái, rất tận tâm tận trung với đảng. Cai Hoằng đã cung cấp được bản đồ toàn bộ khu đồn trú và tất cả các vị trí bố phòng của lính. Đó là bản đồ chi tiết các vị trí Đồn Cao, Đồn Thấp, trại lính khố đỏ, trại lính khố xanh, trại lính lê dương, trại giám binh, sở chi ni (hậu cần), tòa chánh sứ, tòa phó sứ, nhà dây thép, sở cẩm, nhà máy đèn, đề lao…Còn cai Thuyết thì cung cấp danh sách, nơi đồn trú từng tên chỉ huy, sĩ quan, hạ sĩ quan Pháp. Chỉ huy toàn bộ khu quân sự này là Trung tá Le Tacon đóng ở Đồn Cao. Công sứ Massini nhiệm sở ở biệt dinh đầu dốc Chánh sứ. Thuyết còn cung cấp cả bản danh sách đảng viên các chi bộ và những người cảm tình với đảng trong lính Việt. Phải nói, cai Hoằng, cai Thuyết là những người có năng lực chỉ huy, có phong cách của người thủ lĩnh quân sự. Tiếng nói của họ rất có sức cuốn hút. Sau khi thuyết phục được cai Hoằng, cai Thuyết vào Việt Nam Quốc Dân đảng, bằng uy tín, họ đã thu nạp thêm được rất nhiều người khác vào đảng.

Hai chị em đang tâm sự với nhau thì có người gõ cửa. Nhìn ra, hai chị em đều sững sờ. Khoác chiếc pardessus và với chiếc mũ phớt che nửa mặt, phải vài giây mới nhận ra đó là Nguyễn Thái Học. Nguyễn Thị Giang sung sướng ngỡ nghẹt lấy tim. Mãi mới thốt lên được câu “ối giời anh Học”!

– Anh đi tìm em, đoán thế nào em cũng đến chỗ chị Bắc.

– Khéo nhỉ? Nhận tôi là chị từ bao giờ thế?

– Không cho nhận thì em đi đây!

– Thế thì chị đừng cho anh ấy vào nhà.

– Đố cậu dám đi đấy!

– Thôi vào trong nhà đi cho tiện nói chuyện.

Sau những lời thăm hỏi thông thường, Bắc đưa cho Học xem danh sách các đảng viên trong chi bộ nhà binh, tấm bản đồ thị xã cùng khu vực đồn trú của binh lính và địa điểm các cơ quan công quyền ở Yên Bái. Nguyễn Thái Học xem xong rất mừng, nói:

– Chị Bắc thật là tuyệt vời. Những tư liệu này thật đáng quý. Bản đồ rất chi tiết. Rất cần thiết. Ở một số nơi khác chưa thể làm được việc này, dù rằng rất tích cực.

– Cũng nhờ sự giúp đỡ rất đắc lực của cai Hoằng, cai Thuyết.

– Rất đáng hoan nghênh! Chị có thể cho em gặp được những nhân vật này không?

– Tất nhiên là được. Chưa đến giờ điểm danh nhà binh, tôi có thể báo các anh ấy ra chỗ gốc bàng chừng vài chục phút.

– Thế thì hay quá!

Bắc đi khỏi. Nguyễn Thị Giang ôm chầm Nguyễn Thái Học. Họ không nói được gì hơn. Cứ ôm chặt lấy nhau tưởng chừng không muốn rời.

– Lo cho anh quá!

– Lo cho em quá!

Giang khoe vừa đan xong tấm áo len cho Học. Học mặc thử. Giang ngắm nghía và bảo rằng, mấy ngày ém mình ở đây, Giang đã tháo tấm áo len của mình để đan áo cho Học. Thiếu len đan hai cánh tay, phải nhờ chị Bắc đi mua thêm, cho nên màu áo hai cánh tay có hơi khác một chút. Học bảo rằng không sao. Nhưng rét sắp tới, sao Giang không để lại mặc. Giang bảo, áo len này có hơi của Giang, đan áo cho Học để lúc nào cũng như thấy Giang bên mình.

– Em lo cho anh hơn cả bản thân mình.

– Có gì đâu anh, đấy là bổn phận của em mà!

Họ chẳng muốn rời nhau.

Nước mắt Nguyễn Thị Giang bỗng chan hòa lên tấm ngực vạm vỡ của Nguyễn Thái Học. Giây phút hiếm hoi quý giá. Học nói, vì việc trọng đại, sau khi gặp cai Hoằng, cai Thuyết xong, cần phải đi ngay.

 

Nguyễn Thị Bắc đã tìm được Ngô Hải Hoằng và Nguyễn Văn Thuyết ra gặp Học. Hai người lính nai nịt gọn gàng. Chỉ có thể gặp nhau ít phút, còn phải về doanh trại trước giờ điểm danh. Bắc giới thiệu Nguyễn Thái Học là đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân đảng, đến kiểm tra tình hình tại Yên Bái, tranh thủ gặp gỡ các anh. Nguyễn Thái Học siết chặt tay hai người và nói:

– Cách mạng rất cảm ơn sự cố gắng của các anh. Chỉ mong các anh thường xuyên liên lạc cung cấp tin tức cho cách mạng. Vì công cuộc cứu lấy dân tộc, cứu lấy giang sơn, xứng đáng với nòi giống Lạc Hồng. Công trạng của các anh sẽ được Tổ quốc non sông lưu dấu.

– Làm được gì tốt cho cách mạng chúng tôi xin cố gắng.

– Tôi đã nghe Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang nói tới công việc các anh đã làm. Thật xứng đáng là con dân nước Việt. Tuy đứng trong hàng ngũ của lính Pháp, nhưng trái tim vẫn của con người Việt Nam.

– Đi lính cho tây chẳng qua là bó buộc. Sỹ quan họ rất khinh lính bản xứ. Lắm lúc họ chửi mắng thậm tệ, mất hết sĩ diện dân tộc mình. “Sale Annamite” là câu cửa miệng của họ. Nhục lắm!

– Các anh có kiến thức về quân sự, hãy lên kế hoạch chiến đấu, chuẩn bị tốt vũ khí, điều tra và nắm vững bố phòng của chúng, phân công chu đáo nhiệm vụ cho từng người và đặc biệt là phải giữ được bí mật bất ngờ, chờ lệnh của cách mạng, nổi dậy đánh chiếm nơi này, cùng cả nước vùng lên dành quyền độc lập tự do cho dân tộc.

– Chúng tôi sẵn sàng đợi tới ngày vinh quang đó.

Cai Hoằng, cai Thuyết tranh thủ chỉ cho Nguyễn Thái Học xem về địa hình và cách bố phòng của quân lính trong thị xã Yên Bái. Nếu khởi sự sẽ chiếm khu vực Đồn Thấp trước, làm bàn đạp tấn công Đồn Cao. Vì ở đây tập trung cơ sở hậu cần và kho khí giới. Dù trong đêm trăng mờ, Nguyễn Thái Học vẫn có thể hình dung ra toàn bộ hình thế của thị xã Yên Bái. Trước khi chia tay với cai Hoằng và cai Thuyết, Nguyễn Thái Học siết chặt tay hai anh và nói:

– Tôi không phải là nhà quân sự, nhưng qua phân tích của hai anh, tôi chỉ xin góp ý, nếu khởi sự cần chú trọng hiệp đồng chiến đấu. Kế hoạch thật chặt chẽ, tránh tối đa các tổn thương.

– Chúng tôi sẽ bí mật họp bàn để có phương án chính thức.

– Tốt lắm! Tin tưởng ở hai anh. Vì điều kiện không cho phép gặp tất cả mọi người, cho tôi thăm hỏi tất cả đảng viên. Mong chi bộ phát triển thêm nhiều đảng viên trung kiên hơn nữa.

– Chúng tôi xin lĩnh ý.

– Vùng đất này là vị trí sung yếu, là cái yết hầu, ngả lên Lào Cai, ngả xuôi Hà Nội. Đánh chiếm được Yên Bái là ta bóp vào yết hầu của đối phương. Tổ chức rất tin tưởng ở các anh. Mong các anh chuẩn bị mọi mặt chu toàn.

– Chúng tôi tuân lệnh.

– Đảng trưởng trẻ quá! Thật là trẻ!

– Cám ơn hai anh! Gửi lời chào tin tưởng.

Họ chia tay nhau, khi Nguyễn Thái Học và mấy người đều giơ tay xem đồng hồ.

Không thể ở lại Yên Bái, để kịp chuyến tàu xuôi về Vĩnh Yên, Học và Giang chào chị Bắc, phải đi ngay trong đêm. Ra tới ga Yên Bái định vào phòng  mua vé. Thấy mọi người xúm đến xem bản cáo thị dưới ánh đèn điện nhập nhòa, Nguyễn Thị Giang cũng len vào xem. Bỗng thấy Giang quay ra ngay, kín đáo ra hiệu cho Nguyễn Thái Học rút khỏi ga. Bảng “cáo thị” có ảnh Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu với lời yết cáo, ai bắt được Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, là hai tên phản loạn, trong tổ chức Việt Nam Quốc Dân đảng, sẽ được nhận thưởng! Ai bao che sẽ bị xử tù!

Thật hú vía! Rất may không ai phát hiện được Nguyễn Thái Học. Giang kéo Học lần ra phía bờ sông thuê đò dọc sang Âu Cơ, Phú Thọ. Từ đấy về Thanh Sơn bạt ngàn rừng núi, tha hồ ngang dọc, không sợ gì kẻ nào theo dõi.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương XIII

                                               BÃO TRONG BÃO

 

                                                           Trong phù sa thấy sóng tự thượng nguồn

                                                           Chảy lai láng trên cánh đồng quá vãng

                                                           Những giọt máu không tên còn đọng

                                                           Trong xương cốt đất đai

 

Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang luồn rừng rồi chiếu theo hướng Thanh Thủy về Võng La. Rất may, gặp Nguyễn Khắc Nhu cũng mới từ Lâm Thao sang, đang muốn tìm Nguyễn Thái Học.

Nguyễn Khắc Nhu nói rằng:

– Tôi sang đây đã vài hôm, gặp Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp và cả Nguyễn Văn Nho nữa. Các chàng sốt ruột muốn về Hà Nội ngay. Các cậu ấy nói ý anh cũng là thế. Tôi dặn Phó Đức Chính đã được giao làm Trưởng ban ám sát thì cứ tự quyết trong những khi cần thiết. Thời điểm thực hiện cũng vậy. Đã xử vụ nào phải điều tra cho thật kỹ. Không để ai chết oan. Nhớ, không để ai chết oan. Họ sẽ oán. Lên phương án cẩn thận. Cần nhất là thận trọng. Việc thứ hai là bắt mối lại với các em nữ sinh nội thành giúp tiếp tế cho anh em mình đang bị giam ở Hỏa Lò. Việc móc nối với anh em Hỏa Lò cần lắm. Tôi nghĩ chúng ta sẽ bàn kế hoạch giải thoát cho những người đang bị giam giữ tại đây.

– Anh thật là thấu đáo. Những việc anh đặt ra rất sáng suốt. Tôi nghĩ rằng, chúng ta tuy bị tổn thất trong những ngày vừa qua, đó chính là bài học xương máu. Cơ sở của ta trong lòng Hà Nội bị phá vỡ thì ta lấy hoạt động của các tỉnh để gây lại cơ sở, bù đắp những gì đã mất. Hơn nữa, chúng ta hoạt động ở các tỉnh, bọn mật thám phải xé lẻ lực lượng khó kiểm soát hết. Phải tạo thêm những nhân tố mới, bổ sung vào lực lượng chỉ đạo. Còn ở Hà Nội, chúng ta giao cho Đoàn Trần Nghiệp, cậu ấy thạo phố sá, sẽ dần gây lại cơ sở.

Nguyễn Thị Giang đề nghị:

– Tôi thấy ý kiến của anh Học rất phù hợp, ta rất cần những nhân tố tích cực hoạt động cho đảng. Lực lượng của ta giờ đã mỏng nhiều, rất cần thêm người chỉ đạo ở các địa bàn. Một số các anh chủ chốt đã bị bắt, còn anh Nguyễn Ngọc Sơn, anh Hồ Văn Mịch, đi hải ngoại vừa về đều sa lưới. Tôi thấy rằng các anh Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Đôn Lâm rất trẻ, rất hăng hái, rất linh hoạt, có thể bổ sung vào đội ngũ lãnh đạo.

– Ý kiến rất kịp thời. Rất đáng lưu tâm là các địa phương đều đã có “phương lược tiến công” sẽ được trình bày trong phiên họp tới. Còn các anh Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Đôn Lâm, chúng ta sẽ giao việc và sẽ mời các anh ấy dự bàn công tác của chúng ta. Anh Nhu thấy thế nào?

– Tôi rất đồng ý. Chỉ có điều chúng ta phải nhấn mạnh việc dùng bạo lực chống lại bạo lực. Thấy chúng ta im, bọn chúng càng lên nước, dân chúng dao động, sẽ nhụt hết ý chí của mọi người. Việc cần quan tâm nữa là cần sớm thực hiện “chính đảng cương, minh đảng nghĩa”, rà soát nội bộ, thanh trừng những kẻ ăn ở hai lòng. Chúng ta phải tranh thủ hoạt động khi đang tự do, không thể ngồi chờ chúng đến bắt tra tay vào còng.

– Việc đó ta sẽ bàn để đi đến quyết định. Bây giờ tôi nghĩ nhiệm vụ tiếp tế, bắt liên lạc, tiến tới giải thoát cho anh em tù ở Hỏa Lò là rất cần kíp. Việc này có thể Giang về Hà Nội cùng cộng tác với Đoàn Trần Nghiệp thực hiện sẽ phù hợp hơn. Bởi vì việc thanh vận rất cần tiếng nói của phụ nữ. Hơn nữa chị em nữ sinh Hà Nội đã từng cộng tác với Giang trong nhiều đợt rải truyền đơn, treo biểu ngữ trước đây, như vậy rất hợp lý. Làm sao kết hợp ngoài giúp sức, trong nổi dậy để anh em tù Hỏa Lò chạy thoát. Giang thấy sao?

– Thấy thế là sáng suốt! Nhưng như vậy em và anh lại phải xa nhau rồi.

– Anh sẽ lại vẫn đi tìm em!

– Còn tôi thì sao nhỉ? – Nguyễn Khắc Nhu hỏi:

– Bác sẽ lại cùng tôi sắm vai lý trưởng và người hầu, không phải vào “lữ quán mộng mơ”, mà sang Lạc Đạo chuẩn bị cho hội nghị tới của chúng ta.

Họ cười vang, như chẳng có gì đang đe dọa.

 

*

Phó Đức Chính điểm qua mặt những tên phản đảng, chuẩn bị bản án “không giữ lời thề”. Bùi Tiến Mai, thừa phái ở Thái Bình. Nguyễn Quốc Túy, thừa phái ở Nghệ An. Đội Tảo ở Nam Định. Còn Nguyễn Văn Kinh, ở Hà Nội. Những bản án đã được gửi đi các nơi để các thành viên ban ám sát thực thi nhiệm vụ. Ám sát xong tên nào, người thi hành đều đặt bản luận tội lên mặt hoặc trong túi áo túi quần kẻ phản bội. Bản án thống nhất một mẫu nội dung do Phó Đức Chính soạn, chỉ việc điền tên kẻ phản bội hoặc tên kẻ gây tội ác với cách mạng. Người ra lệnh thi hành án ghi Trưởng ban ám sát đã duyệt. Một chữ ký loằng ngoằng không thể đoán tên người ra lệnh là gì.

Sau khi được Pháp thả, Nguyễn Văn Kinh nằm im chờ, bị Pháp gọi ra để thực hiện việc chỉ điểm. Kinh ung dung nghĩ rằng tổ chức chưa biết mình phản bội, nên hắn nhởn nhơ đi lại giữa phố phường, không cần giữ ý.

Ở Hà Nội, Đoàn Trần Nghiệp trực tiếp thi hành bản án Nguyễn Văn Kinh.

Làm sao cho Kinh không nghi ngờ gì để dẫn hắn vào tròng. Những người đồng sự vẫn rủ hắn đi chơi và vẫn bàn chuyện hoạt động. Mật thám Pháp cũng giữ kín chuyện hắn phản bội, để mong cất mẻ lớn.

Được bạn rủ ra vườn Bách Thảo chơi rồi tối đi hát cô đầu, Kinh chải chuốt xong đi luôn. Dáng vẻ phởn phơ, hắn vừa đi vừa hát, mấy câu hát không đầu không cuối hắn nhớ lõm bõm mỗi lần ngồi nghe cô đầu. Thật ra hắn thích nghe hát để ngắm mấy cô đào non. Chưa bao giờ hắn dám cầm chiếc roi trống chầu. Hắn sợ mình dốt, lóng ngóng, bị bạn bè chê cười. Vào trong Bách Thảo, hắn chọn một chiếc ghế đá vừa ngồi vừa ngóng người hẹn hắn. Nhớ tới lời dặn dò của Arnoux và Brider, hắn nghĩ phen này sẽ lập công lĩnh thưởng. Hắn đang nghêu ngao thì Đoàn Trần Nghiệp và Nguyễn Văn Nho đến ngay bên cạnh. Chưa kịp chào hỏi thì súng đã nổ. Phát đạn từ khẩu súng ngắn Nguyễn Văn Nho bắn vào giữa trán Kinh. Hắn chỉ ớ lên một tiếng rồi đổ vật xuống thành ghế. Đoàn Trần Nghiệp nhồi thêm phát đạn thứ hai, rất nhanh chóng nhét bản án “không giữ lời thề” vào trong túi áo Kinh. Nghiệp cùng Nho mất hút vào khoảng đêm lờ nhờ ánh điện. Những người dạo trong công viên ngỡ ngàng chạy tới nơi có tiếng súng, đã thấy Nguyễn Văn Kinh tắt thở. Bản án tử hình lòi ra ngoài túi áo. Nội dung bản án vắn tắt:

 

Tòa án cách mạng họp ngày 5  tháng 10  năm 1929, quyết định:

Tên Nguyễn Văn Kinh, phạm tội phản bội, “không giữ lời thề”.

Cơ quan ám sát Hà Nội phụ trách hành hình theo quyết định này.

Hành hình tại Hà Nội ngày 6 tháng 10  năm 1929.

Trưởng Ban ám sát (đã ký).

 

*

Hội đồng Đề hình mở phiên xử công khai vào ngày 3 tháng 7 năm 1929, tuyên án 78 người, trong đó 26 người bị tù từ 2 đến 5 năm án treo, tuyên vắng mặt 3 người, trong đó có Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu mỗi người 20 năm khổ sai, 47 người bị cấm cố, người bị đày ra Côn Đảo, người bị đày tận Guyane. Chỉ có 2 người trắng án. Trước đó, Thống sứ Louis Réne Robin thân hành vào Hỏa Lò thăm các tù nhân bị bắt kể từ ngày Bazin bị ám sát. Ông ta chuẩn bị một gương mặt thật từ tốn, thái độ thật nhã nhặn để tiếp chuyện những địch thủ đã sa cơ.

Robin nghĩ, hãy đi nốt nước cờ cuối cùng xem có lay chuyển được ý chí của mấy tên tội hình này không. Nếu họ đầu hàng thì sẽ gây được phản ứng lan truyền, làm nhụt ý chí của những kẻ vẫn thờ quốc gia, dân tộc.

Vào cái giờ lần đầu tiên từ khi bị bắt đã 4 tháng, các tù nhân mới được ra ngoài trời hưởng “không khí tự do”. Robin được giám thị đưa tới trịnh trọng giới thiệu với mọi người. Tên lính hầu cận vội đỡ lấy chiếc mũ phớt và chiếc ba toong. Lúc ấy Mộng Tiên và Trúc Khê đang ngồi giữa sân bắt rận cho nhau. Những con rận no nê mập trắng, lẩn trong các mép áo rách bươm của những thân xác gầy giơ xương sườn, đang được các chiến sĩ cách mạng “truy lùng” ráo diết. Chúng trốn vào các mép vải. Bắt được con rận nào các anh lại đặt nó lên nền sân, dùng hòn đá nhỏ siết mạnh, máu lũ rận tịm đỏ tóe ra ướt nhòe hòn đá.

Sau câu chào hỏi các tù nhân đang đứng ngồi lộn xộn trên sân, Robin  kéo chiếc ghế từ tay giám thị đến ngồi trước mặt Mộng Tiên và Trúc Khê với câu mở đầu lịch lãm:

– Chào hai nhà văn.

– Chào ngài!

– Biết tên tuổi các ông đã lâu. Tôi cũng đã đọc một số tác phẩm các ông viết và những cuốn các ông dịch từ sách nước ngoài. Nay mới có hân hạnh tiếp kiến. Không hiểu rằng như thi hào Nguyễn Du của các ông đã nói: “Trăm năm biết có duyên gì hay không”?

– Ngài nói quá lời. Có phải ngài gặp chúng tôi là để tiếp tục phủ dụ không? Chúng tôi đã được các ngài giám quản ở đây tiếp đãi bằng tra khảo quá chu đáo rồi, ngài còn cần gì nữa?

– Có phận sự ấy, nhưng tôi có thể đoán trước được thái độ của hai ông. Hai ông cũng nên biết điều, nghe lời chúng tôi hai ông sẽ được thả ngay, không phải ra toà Đề hình xử nữa.

– Ngài vừa nhắc tới một câu trong Truyện Kiều, hẳn ngài nhớ câu: “Bó thân về với triều đình, hàng thần lơ láo…”

Mộng Tiên chưa đọc hết câu thì Robin tiếp “…phận mình ra đâu” chứ gì? Mộng Tiên và Trúc Khê cùng phá lên tiếng cười.

– Ngài quả là am tường Truyện Kiều đấy!

– Tôi thuộc Kiều là do tính hấp dẫn của ngôn ngữ, giàu biểu cảm, giàu hình tượng mà Nguyễn Du sử dụng trong đó.

– Vâng, đất nước các ngài tự hào vì có Victor Hugo, Balzac thì đất nước tôi cũng tự hào vì có Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm.

– Tôi cho rằng muốn hiểu một dân tộc, một quốc gia, không đâu hơn là tìm hiểu về văn hoá và danh nhân văn hoá của họ.

– Đấy có phải là kinh nghiệm nhà nghề của mấy ngài thực dân?

– Không hoàn toàn như thế. Đấy là điều tôi nghiệm ra thôi. Tôi thắc mắc điều này, không hiểu sao trí thức nhà văn các ông thường là những người hay phản kháng?

– Phản kháng là bản chất cách mạng.

– Chà chà! Cách mạng?

– Ngài chớ nên nhạo báng. Có cuộc cách mạng nào không cần đến trí thức và tri thức.

– Tôi đâu nhạo báng? Tôi chỉ hoài nghi về sự điên rồ.

– Vâng, ngài nghĩ sao cũng được, cứ cho rằng chúng tôi điên rồ, nhưng ngài thử nghĩ xem, các nhà cách mạng thời nay có ai không phải là trí thức?

– Đã đành…

– Họ mới là những người tiên phong.

– Thú vị thật! Các ông tự nhận mình là những người tiên phong?

– Chúng tôi không nhận điều đó với riêng chúng tôi. Nhưng ngài có thể thấy đấy, từ Montesquieu, Diderot, Rousseau đến Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Lénin lãnh tụ của công nhân, cho tới Tôn Dật Tiên, họ đều là trí thức cả đấy chứ, thưa ngài?

– Hai ông thông tuệ vậy, sao không giữ chức vụ gì cao trong đảng?

– Chúng tôi đóng góp trí tuệ là được rồi. Ngài đòi hỏi đảng tôi quá đáng đấy. Vì đất nước, vì dân tộc Việt Nam, vì sự nghiệp của đảng, chúng tôi tình nguyện là đủ rồi.

– Các ông không nghĩ tới quyền lợi của riêng mình?

– Có chứ! Quyền lợi của nhân dân, của dân tộc là tối thượng. Trong đó có quyền lợi của chúng tôi.

Robin thầm nghĩ, nhiều tên quan lại mới chỉ gợi ra một tý quyền lợi là chúng vội vàng vồ lấy, hơn ếch vồ hoa mướp. Rồi mua quan bán tước nhố nhăng. Chẳng có một chút liêm sỉ. Đằng này, chỉ yêu cầu họ hợp tác một chút là sẽ được ra khỏi tù, là có quyền lợi, vậy mà họ không làm. Giá bọn quan lại có một phần liêm sỉ của những người này, thì chính quyền đã được trông cậy. Nghĩ vậy, Robin nói:

– Cuộc chuyện trò này thật thú vị. Tôi rất ấn tượng…

– Ngài vẫn ý thức được vai trò của kẻ đi thống trị nước khác chứ?

– Với riêng tôi là sự phân thân, khi buộc phải làm bổn phận của tên thực dân, và khi là con người của cuộc sống thường. Tôi chỉ lạ là, quan lại nước các ông quá hèn hạ, chỉ thích vinh thân phì gia, tham lam vô độ, họ ít nghĩ tới sĩ diện quốc gia.

– Ngài nói có phần đúng, nhưng quan lại nước tôi vẫn còn có Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Quang Bích cơ mà. Họ đâu có thuộc hạng người các ông đánh giá? Còn những ai cam tâm theo đóm ăn tàn thì bản tính của họ rất đê hèn. Đã hèn thì tham. Hèn nên mới phải bám vào các ông để sống. Chúng tôi coi khinh những kẻ bán nước cầu vinh, không mảy may thương nước thương dân, cam tâm làm nô lệ cho ngoại bang.

– Các ông có quá cố chấp không? Chúng tôi đến đây cũng đồng cam cộng khổ với người Annam đấy chứ.

– Và các ngài cũng đã vơ vét bao nhiêu tài nguyên, giết hại bao nhiêu người yêu nước trên đất nước chúng tôi.

– Sao các ông hay nói tới những người yêu nước, có phải thế là kích động không?

Mộng Tiên thấy Robin quả là con người ghê gớm. Khi nói chuyện luôn nắm bắt tâm lý của người đối diện. Ông ta vừa ra vẻ tỉ tê tâm sự, vừa tinh nhậy ngón nghề. Chỉ cần chi tiết sơ hở là ông ta xoắn vào khai thác. Nghĩ thế nên Mộng Tiên tìm cách trả lời sao cho khẳng định nhất.

– Yêu nước là tài sản lớn nhất của người Việt Nam chúng tôi. Sống chết cũng vì điều đó. Sẽ vô cùng xấu hổ đối với người Việt Nam nếu không nhớ và không nhắc tới những người yêu nước thời nào cũng có. Cũng như ngài yêu nước Pháp của các ngài vậy.

Robin thấy rằng có nói gì thêm cũng không thể lay chuyển được thái độ và suy nghĩ đã ăn vào tim óc của hai tên trí thức này. Ông ta đứng dậy, vỗ vỗ lên vai Mộng Tiên và Trúc Khê để kết thúc câu chuyện:

– Dù sao tôi vẫn nể trọng các ông. Cuộc thương thuyết này, tôi là người chiến bại. Tôi không thể nào đấu khẩu nổi với hai người. Nhưng tôi vẫn có cảm giác dễ chịu. Thật dễ chịu!

Và…Robin lưỡng lự một chút, rồi nói:

– Các ông đã được báo tin sẽ ra toà Đề hình vào sáng ngày 3 tháng 7 sắp tới rồi chứ?

– Ha ha! Vì thế hôm nay chúng tôi mới “vinh hạnh” được gặp ngài Thống sứ? Thật là như bắt được vàng…thau!

– Các ông thật là hài hước!

– Và, ngài cũng thật là đa sự!

– Thôi, chúng ta chia tay. Nhưng dù sao tôi vẫn mong hai người nghĩ lại. Tôi vẫn chưa hết hi vọng ở quyết định cuối cùng của hai người.

Mộng Tiên và Trúc Khê không nói gì thêm. Robin đội mũ và cầm lấy chiếc ba toong từ tay hầu cận. Vừa lúc giám quản đốc thúc tù nhân trở lại phòng giam.

 

*

Trông thấy ảnh mình được dán lên tấm phên treo ở ngã ba vào phố huyện, cho mọi người nhận dạng kẻ chống nhà nước bảo hộ, để bắt nộp nhà chức trách lấy thưởng, Nguyễn Thái Học nói với Nguyễn Khắc Nhu:

– Ồ! Ảnh này mà mang về treo ở ruộng thay bù nhìn giữ dưa ở quê em thì thật đắc dụng!

– Thế thì bọn chim quạ phải bay thất tán, không dám quay lại ăn dưa!

– Giá thưởng 5.000 đồng một người, to đấy nhỉ? Một trăm tạ gạo cơ mà!

– Thế mà vào Lạc Đạo họp vẫn được dân bảo vệ. Dân ở đây mà tham tiền đi báo mật thám thì chúng mình đâu có được phởn phơ như bây giờ?

– Cách mạng mà thành công, ta có bù đắp mấy cũng không xứng với sự hy sinh của nhân dân đối với chúng ta.

– Thế là ta có thể yên tâm về nghị quyết chúng ta đưa ra lần này.

– Chỉ có hai người không biểu quyết là Lê Hữu Cảnh và Nguyễn Đôn Lâm. Hai người này do Giang đề xuất đưa vào hàng ngũ lãnh đạo, họ chưa thật hiểu quyết tâm chung của tổ chức. Làm cách mạng mà do dự vậy thì đáng xử lý lắm.

– Tôi cũng đã trao đổi với Phó Đức Chính, xử lý như thế nào sẽ tùy anh ấy, miễn là những điều quyết định của ta không bị lộ.

– Tôi vẫn nghĩ hẳn có gì chưa thông suốt, chứ đã một lòng một dạ với cách mạng sao lại còn đắn đo? Sợ gì chết?

– Tôi tin cô Giang không nhìn nhầm người đâu. Nhưng cũng phải chờ xem. Phải chờ.

– Thôi đến chỗ chia tay rồi, chúng ta mỗi người rẽ một đường, anh lên mạn ngược chỉ đạo các tỉnh Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái. Thường xuyên bắt liên lạc với anh Phó Đức Chính ở Sơn Tây nhé. Tôi về vùng Hải Dương, Hải Phòng. Tôi sẽ liên lạc với Giang ở Bắc Ninh, Bắc Giang. Lại còn làm sao liên lạc với Nguyễn Thế Nghiệp đang được cử sang Vân Nam tập hợp người Việt bên đó. Tôi thấy lo lắm. Còn bao nhiêu việc phải làm. Hết đợt này ta còn vài cuộc nữa để đi đến quyết định cuối cùng, anh thấy được chứ?

– Được rồi, ta chia tay! Thế mà đã là ngày 1 tháng 7 năm 1929 rồi đó. Nghe nói ngày kia là Tòa Đề hình xử anh em mình bị bắt sau vụ giết chết Bazin. Không kịp thực hiện kế hoạch giải thoát như đã bàn đâu anh ạ! Còn quá nhiều việc chưa làm trọn vẹn.

Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu ra khỏi Lạc Đạo muộn nhất.

 

Với khăn đóng áo the, diện mạo ra dáng nho sĩ về làng, Nguyễn Thái Học tới Hải Dương, tìm đến nhà phó tổng Vinh làng Quỳnh Khê (huyện Kim Thành) một cơ sở tin cậy để tá túc trước khi đi Hải Phòng. Lâu ngày mới thấy Nguyễn Thái Học trở lại, Vinh niềm nở tiếp cơm và mời Nguyễn Thái Học nghỉ lại.

– Cơ màu rồi sẽ thế nào hả anh Học? Chúng tôi nóng lòng quá!

– Khí thế khắp các tỉnh dâng cao lắm. Tuy vừa rồi Pháp khủng bố. Nhưng tinh thần chống Pháp không có gì thay đổi. Các nơi đang ráo riết chuẩn bị cho ngày Tổng công kích cách mạng. Đánh một đòn thật mạnh vào hệ thống cai trị của người Pháp.

– Thế thì tốt rồi. Làng quê chúng tôi đang chờ đón ngày đó.

– Chỉ mong mọi người đồng lòng hợp sức.

–  Đi đường chắc mệt, anh Học đi nghỉ sớm đi!

 

Nằm trên chiếc chõng tre, Nguyễn Thái Học chưa thể nào ngủ được ngay, bao hình ảnh và diễn biến cuộc họp ở Lạc Đạo chẳng khác nào đoạn phim cứ hiện ra trước mắt. Học cố gắng phân tích những ý kiến của mọi người xem hay dở thấu đáo thế nào.

Phải nói là lúc đó anh đã nóng mặt. Bao công phu cho ý đồ hoạt động chuẩn bị Tổng công kích mà vẫn có người không đồng thuận. Lê Hữu Cảnh và Nguyễn Đôn Lâm đã nêu ý kiến trái ngược. Ý kiến phát biểu của Lê Hữu Cảnh đại thể là:

– Tôi đồng ý cần phải bạo động mới dành được chính quyền. Nhưng trước mắt chúng ta nhiều bất lợi, trận công phá truy nã vừa qua của chính quyền thực dân đã làm đảng ta tổn thất quá lớn, lực lượng chúng ta quá mỏng, lại phân tán. Trang bị vũ khí của ta thô sơ, không thể chỉ trông vào vũ khí trong tay lính khố đỏ. Điều kiện chỉ huy hạn chế, địa bàn lại quá rộng. Vậy cũng không nên nóng vội. Chúng ta cần phải đi từ hòa bình cách mạng đến bạo lực cách mạng. Tôi đề nghị Tổng bộ phải tiến hành cải tổ, mở lớp luyện tập quân sự cho những cán bộ dân sự, chỉnh đốn lại lực lượng cho thật hùng mạnh, lúc ấy ta tiến hành tổng công kích cũng không muộn.

Bằng tâm huyết của mình, Nguyễn Thái Học đã nói những lời rút ra từ gan ruột, từ nỗi bất bình nung nấu từ lâu:

“Thực dân Pháp đem sắt và máu đô hộ Việt Nam, chúng ta không thể nào dùng lối khoanh tay đối phó với súng đạn được. Xem cái gương Đông Kinh Nghĩa Thục ngày trước thì biết. Một nhóm nhỏ tay không có tấc sắt, chỉ biết lập nên một hội giáo dục quần chúng, bỏ cũ theo mới mà cũng có vô số người bị chết chém, bị đày ra Côn Đảo. Ngày nay còn chủ trương hòa bình cách mạng là đi vào vết xe cũ, chết uổng mạng vô ích mà thôi! Không thành công cũng thành nhân! Chúng ta phải ghi nhớ lấy điều ấy. Ai không dám xả thân vì cách mạng thì phải chịu kỷ luật theo điều lệ của đảng”.

Nguyễn Đôn Lâm nói:

– Nhưng hiện nay ta quá nhiều bất lợi.

Nguyễn Thái Học khảng khái:

– Tổ chức chúng ta được như bây giờ là do những đảng viên bị bắt rất kiên trung, không ai chịu khai báo. Nếu họ khai báo, hẳn ta không thể được yên ở đây. Cho nên, ta không được phụ lòng, không để mất niềm tin đối với đồng chí của chúng ta. Tôi xin được nói thêm “không thành công cũng thành nhân”, nghĩa là chúng ta vì lý tưởng chiến đấu, đó là ta “xả sinh thủ nghĩa”, “sát thân thành nhân”, hy sinh để làm điều nhân đức, hy sinh vì nghĩa nhân, vì dân tộc. Kẻo hậu sinh lại hiểu lầm thành tâm của chúng ta.

Nguyễn Đôn Lâm cũng vẫn đưa ra ý riêng mình:

– Chúng ta phải tính đến các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Thiệt hại của đảng chúng ta vừa rồi là lớn. Âu rằng ta hãy tổ chức lại đảng, bảo toàn lực lượng, nhằm tính kế đấu tranh mới, chắc chắn hơn.

Nguyễn Khắc Nhu đối đáp ngay:

– Ta đang bị dồn vào thế chân tường rồi. Phải bật dậy mới có sức. Ta không thể ngồi chờ để bọn chúng đến tra tay chúng ta vào còng. Phải khởi nghĩa mới có con đường thoát. Không thể để lỡ kế hoạch. Chết thơm danh còn hơn để âm thầm tan rã.

Nguyễn Thái Học bổ sung thêm:

– Đúng, thời thế không thuận lợi cho ta, tình thế không chiều ta, nhưng chúng ta không thể bó tay. Không thể gieo vào quần chúng lòng sợ sệt không dám hành động. Không thể để mất sự hăng hái của mọi người. Không để mất lòng tin tưởng ở đảng. Ta không hành sự lúc này, đảng sẽ mất hết.

Lê Hữu Cảnh vẫn đeo đẳng ý kiến:

– Tôi e rằng sự chuẩn bị của chúng ta chưa thật đầy đủ, rất dễ không đảm bảo được thắng lợi.

Lúc này Nguyễn Thị Giang mới lên tiếng:

– Chưa hành động chưa thể lường hết được thành bại ra sao. Để đảm bảo chắc chắn hơn, tôi đề nghị chuẩn bị kỹ hơn nữa mọi kế hoạch, theo sát tình hình và bổ sung những điều cần thiết. Sau khi nắm chắc tình hình các địa phương, chúng ta cần họp với nhau lần nữa để thống nhất kế hoạch tổng công kích. Ngoài lực lượng binh sĩ, ta còn hàng nghìn chi bộ đang hoạt động khắp mọi nơi. Không được để đảng tan rã. Không được phép để phong trào tan rã. Tôi tin anh Cảnh, anh Lâm cũng nghĩ như vậy.

Nguyễn Thái Học kết thúc:

– Không ai còn ý kiến, tôi xin tóm tắt thành nghị quyết những nội dung sau:

Kể từ giờ phút này, mọi quyết định sẽ do Tổng Bộ khởi nghĩa được lập ra hôm nay đảm trách. Tổng Bộ khởi nghĩa có trách nhiệm hoàn chỉnh “kế hoạch Tổng công kích”, sẽ được trình bày trong phiên họp tới.

Một: Ấn định khởi nghĩa vào khoảng tháng 2 năm 1930, trong dịp xuân Canh Ngọ. Mọi nỗ lực chuẩn bị khởi nghĩa phải chuẩn bị gấp rút.

Hai: Chỉnh sửa bản kế hoạch Tổng công kích phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của cách mạng. Phân công trách nhiệm cho từng người phụ trách từng địa phương. Sẽ thông qua kế hoạch cụ thể vào hội nghị tới sau khi nắm chắc tình hình các nơi.

Ba: Soạn thảo Hịch khởi nghĩa trình bày trong Hội nghị tới. Đảm bảo tuyệt đối giữ bí mật Lịch trình khởi nghĩa và các nội dung hội nghị hôm nay. Thời gian và địa điểm kỳ họp tới sẽ thông báo sau. Ai đồng ý biểu quyết bằng giơ tay.

Chỉ có hai cánh tay không giơ lên.

 

Bây giờ tĩnh tâm lại, Nguyễn Thái Học thấy Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Đôn Lâm nói cũng có nhiều điểm đúng, nhưng nói vậy là làm nhụt ý chí chiến đấu của mọi người, không có lợi cho cách mạng, nhất là sau đợt khủng bố tàn khốc của nhà cầm quyền, nhiều người đang dao động, tính toán. Nguyễn Thái Học cũng băn khoăn, không hiểu Phó Đức Chính xử lý việc này ra sao? Nếu đã hạ sát Lê Hữu Cảnh và Nguyễn Đôn Lâm để giữ bí mật thì thật là ân hận. Nhưng kỷ luật của tổ chức quy định thế, biết làm sao được!

Mải với những suy nghĩ mông lung, Nguyễn Thái Học chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết.

Không rõ có phải bị lộ hay không, mà ngay đang đêm Nguyễn Ngọc Liễn tri huyện Kim Thành, mang lính về làng mật phục ở cổng nhà phó tổng Vinh. Đợi sáng sẽ vào khám xét nhà. Thấy có biểu hiện lạ, phó tổng Vinh đánh thức Nguyễn Thái Học dậy. Đang ngáy như sấm, Nguyễn Thái Học bật dậy ngay, xuống nhà tá điền đang ngủ, mượn quần áo tá điền để thay, nhẹ nhàng chuồn cửa sau ra ruộng ngô trốn thoát ngay trong đêm.

Lần mò mãi tới chiều mới ra đến đất Hải Phòng. Định đi bộ cho thảnh thơi, hơn nữa cũng phải tiết kiệm đồng tiền. Ai ngờ vừa đến Cầu Rào thì gặp cảnh sát. Đã thấy run. Phen này thật khó thoát. Nguyễn Thái Học nhác thấy bên kia đường có người phu xe tay đang đỗ chờ khách, anh liền chạy sang thuê. Không phải thuê để chở anh, mà thuê mũ áo. Làm người kéo xe chở người phu xe. Người phu xe biết ý nhanh chóng vào nơi khuất chuyển đổi y phục, ngồi lên xe để Nguyễn Thái Học kéo. Chiếc xe tay qua mặt cảnh sát, thấy hắn vẫy xe đứng lại, Nguyễn Thái Học thót tim. Anh phu xe xuống nói với hắn, hôm nay đi ăn giỗ, nhờ bạn đồng nghiệp kéo một cuốc xe cho oai. Và thấy anh phu xe dúi vào tay tên cảnh sát đồng bạc. Hắn lặng lẽ cho tiền vào túi, không hỏi han gì thêm. Hết chỗ nguy hiểm, Nguyễn Thái Học dừng trả lại xe và cảm ơn người phu xe đã giúp mình vượt qua khúc thật sự hiểm nghèo. Anh phu xe nói, không phải cảm ơn, vì anh được Chủ tịch đảng bộ Hải Phòng phân công thường xuyên đón các đảng viên Quôc Dân đảng đến Hải Phòng làm việc.

Đến phố Cát Cụt đã thấy Nguyễn Chí Chữ, Chủ tịch đảng bộ Hải Phòng, Phạm Văn Tình, ủy viên đảng bộ Hải Phòng và Nguyễn Thị Giang đang chờ.

Làm việc với Chủ nhiệm đảng bộ Hải Phòng, Nguyễn Thái Học rất mừng vì phong trào yêu nước vẫn giữ vững, tổ chức vẫn hoạt động, vẫn giữ được bí mật. Đây là vùng đất nữ tướng Lê Chân thời Hai Bà Trưng đã đã cùng dân lấn biển khai khẩn. Hình bóng nữ tướng đã thành huyền thoại. Mỗi bước đi, mỗi căn nhà, góc phố, Nguyễn Thái Học như thấy có đôi mắt của nữ tướng đang dõi theo mình. Làm việc xong, Nguyễn Thị Giang nói với Nguyễn Thái Học:

– Em lo cho anh quá! Biết anh đi Hải Phòng, em liền đi tàu hỏa xuống đây ngay để bàn phương án bảo vệ anh.

– Ôi, em chu đáo với anh quá. Không thể khinh suất. Đúng là đi tới đâu cũng nhan nhản cảnh sát và mật thám. Anh vô cùng cảm kich trước sự chu toàn của em và đảng bộ Hải Phòng.

– Đấy là trách nhiệm của tổ chức.

– Và cả sức mạnh của tình yêu nữa? Đúng không?

– Chả vậy thì sao? Anh mà có mệnh hệ gì là em sẽ chết theo ngay.

– Nghiêm trọng thế ư?

– Em nói thật đấy. Khẩu súng anh tặng luôn ở bên em. Tự vệ khi cần. Và, sẽ chết theo anh nếu anh không còn trên đời này!

Học ôm choàng lấy Giang, không muốn Giang nói thêm những lời bi thiết.

 

*

Nghe tin Nguyễn Đôn Lâm bị ám sát, vết thương phần mềm ở bắp tay, Lê Hữu Cảnh liền tới thăm.

Vừa trông thấy nhau, hai chàng trai đồng quan điểm trong hội nghị Lạc Đạo đã vội kéo nhau lên căn phòng nhỏ trên gác để dễ trò chuyện.

Lê Hữu Cảnh hỏi:

– Vết thương còn đau không?

– Đắp thuốc nam, nó hút chất độc rất nhanh, vết thương còn hơi đau thôi. Chắc là sẽ rất chóng lành.

– Chúng ta đều cao số. Theo đúng quy định kỷ luật của tổ chức là mạng ta khó được bảo toàn.

– Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng bây giờ chắc là mọi chuyện đã yên.

Sau hội nghị, trên đường ra về Lê Hữu Cảnh thấy có gì chờn chợn. Không khí thật nặng nề. Không ai nói với ai câu nào. Phó Đức Chính đi cùng đường, thỉnh thoảng lại lùi về phía sau. Trong thâm tâm, Cảnh chờ một phát súng. Nhiều lúc cảm giác thấy lành lạnh sau gáy. Nhưng mọi chuyện xấu nhất đã không xảy ra với Cảnh. Khi chào nhau mỗi người đi một ngả, Phó Đức Chính siết tay Lê Hữu Cảnh rất chặt. Cảnh đi một đoạn khá xa, quay nhìn lại vẫn thấy Phó Đức Chính đứng nguyên chỗ đó như phân vân điều gì.

Nguyễn Đôn Lâm nói:

– Tôi bị Cai Hồng hạ sát ở Hải Phòng. Lúc ấy Cai Hồng đứng gần tôi lắm, nhưng anh ta bắn chệch. Tôi nghĩ anh ta không cố tình bắn chết tôi. Chứ nếu cố tình nổ thêm phát súng nữa hẳn là tôi đã toi mạng. Một xạ thủ đã từng học võ bị trường tây ra, không thể nào bắn trượt.

– Tôi cũng nghĩ vậy, chúng ta chỉ là người bất đồng chính kiến chứ không phải những tên phản bội. Nếu là tên phản bội mà có nhận phát súng cũng đáng đời. Kỷ luật của đảng là vậy, anh em người ta phải thi hành thôi. Khi vào đảng, ta đã chấp nhận những quy định ấy rồi. Cho nên bị “xử lý” cũng là lẽ thường tình.

Nguyễn Đôn Lâm cười:

– Ngày xưa Tào Tháo bên Tàu, tự xử tội mình vì để ngựa ăn hoa màu của dân bằng cách lấy gươm xén tí tóc coi là đã bị xử trảm. Đấy là xử mà không xử. Xử nêu gương giả vờ. Chứ ngày nay tôi bị xử thật. Chuyện này chắc chắn sử sách nước nhà sẽ ghi lại. Đấy là chuyện đáng tự hào về lòng trung thành của người cách mạng với tổ chức của mình.

– Niềm tự hào của những người yêu nước chứ đâu có thường?

– Tất cả là vì đại cuộc, vì đại cuộc!

Trầm ngâm một lúc, Nguyễn Đôn Lâm hỏi Lê Hữu Cảnh:

– Sau hội nghị anh có gặp ai trong tổ chức không?

Sực nhớ, Lê Hữu Cảnh trả lời:

– Có đấy! Gặp Nguyễn Thị Giang. Cô ấy nói việc giải thoát cho anh em tù ở Hỏa Lò không thành. Kế hoạch không thể thực hiện được, vì bọn cai tù quản chặt lắm. Chúng thay đổi người gác và lịch sinh hoạt của tù nhân liên tục. Không làm thế nào bắt liên lạc được với anh em trong Hỏa Lò.

Nguyễn Đôn Lâm nói:

– Đường cách mạng còn cam go trắc trở lắm. Nhiều việc còn lỗm bỗm. Chưa thể thành công được đâu.

Lê Hữu Cảnh chỉ biết nói thêm: “Biết là khó. Khó lắm! Nhưng lúc này không thể thoái lui, không thể bỏ mặc mọi người trước cơ sự của đảng, của đất nước được”.

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương XIV

                       KHÔNG THÀNH CÔNG CŨNG THÀNH NHÂN

 

                                                                       Câu thơ rớm máu đêm trường

Thấm vào cát bụi gió sương ướt đầm

Nuôi trong mạch đất âm thầm

Máu xương thành cỏ rì rầm mọc lên

 

Liền một lúc bao nhiêu tin cả vui cả không vui ập tới, khiến Nguyễn Thái Học choáng váng. Trên đường đến gặp gỡ một số người đi tiền trạm chuẩn bị cho hội nghị ở Võng La, mọi người tạt vào Đền Hùng. Trong những ngày sôi sục này mọi người muốn vun vén cho mối tình của Học với Giang nên đã mời cả ông Nguyễn Văn Hách, cha của Nguyễn Thái Học đến chứng kiến đám cưới danh dự của Nguyễn Thái Học với Nguyễn Thị Giang do tổ chức sắp đặt ở Đền Thượng.

Cùng lúc đó được tin mật thám Pháp đã phát hiện ra nhiều cơ sở sản xuất bom mìn. Chúng ra sức lùng sục vào tất cả những nơi chúng tình nghi có cơ sở hoạt động của Việt Nam Quốc Dân đảng.

Ngày 30 tháng 10 năm 1929 một vụ nổ bom tại nhà Lương Văn Trạm ở làng Mỹ Điền, làm sập nhà, ông Trạm bị tuần phu bắt trói giải lên huyện, ông vẫn không khai báo, đang bị giam giữ. Ngày 20 tháng 11, mật thám phát hiện 150 trái bom chôn dấu ở Bảy Chùa và làng Phao Tân, 180 trái bom ở ngoại thành Hà Nội. Ngày 23 tháng 12, phát hiện 150 trái bom ở Nội Viên. Ngày 26 tháng 12 chúng phát hiện 290 trái bom ở ấp Thái Hà. Chúng còn tìm thấy rất nhiều truyền đơn ở Lục Nam…

Tại Đền Hùng trong cuộc gặp do Nguyễn Khắc Nhu chủ trì có dủ mặt những người được triệu tập. Đó là các chàng trai trẻ Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp, Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân. Họ vừa đóng vai trò phù dâu, lại đóng cả vai trò phù rể. Lại đóng cả vai trưởng ban tổ chức đám cưới.

Lên Đền Thượng là một lối mòn phải ngược qua Đền Hạ, Đền Trung, cây cối um tùm, nơi lưu dấu nhiều truyền thuyết về thời khai mở đất nước của dân tộc mà người dân Việt gọi là Đất Tổ, không ai quên ngày Giỗ Tổ thiêng liêng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, thường xuyên hương khói, cầu cho đất nước thái bình. Người dân về Đất Tổ với tấm lòng thành tâm với đất nước, mượn chút hương khói để bày tỏ với tổ tiên, quyết thề gìn giữ non sông giống nòi.

Phần thứ nhất được hội ý và thống nhất nhanh chóng. Ai cũng cho rằng chọn Võng La để mở hội nghị là phù hợp trong hoàn cảnh hiện tại. Ở đây địa thế rất thuận tiện, có thể quan sát từ xa tận bờ sông Đà, có con đường thoát ra phía sau làng rất ngoắt ngoéo. Đây có cơ sở mạnh, dân tình nhiệt tâm ủng hộ cách mạng, có chi bộ vững vàng, nhiều đảng viên trung kiên. Biểu quyết rất nhanh, không có ý kiến gì phản đối.

Việc thứ hai rất cảm động và đơn sơ. Đó là đám cưới danh dự. Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang phải thắp hương lễ trước Vua Hùng, thề trung kiên, trung hiếu và chung thủy. Ông Nguyễn Văn Hách khấn trước bàn thờ Quốc Tổ, trước cột đá thề, công nhận đôi vợ chồng Học và Giang với mấy lời căn dặn mộc mạc, sâu nặng tình cha con.

– Các con của ta, từ nay các con đã là vợ chồng, có trời đất chứng giám, có bạn bè anh em chứng minh, các con phải xứng với tổ tông gia tộc, xứng với đất nước, với anh em. Cây có cội, nước có nguồn, các con hãy ghi nhớ. Vì điều kiện loạn lạc, chưa thể tổ chức đám cưới tại nhà, thầy thay mặt cha mẹ hai bên coi đây là đám cưới chính thức.

Chưa có một đám cưới nào nghi thức lại đặc biệt thế.

Sau những lời chúc tụng của các đồng sự, Phó Đức Chính nói:

– Tôi đã được bác Nhu giao nhiệm vụ chuẩn bị cho anh chị một túp nhà dưới chân núi, ở đó hai anh chị tha hồ mà tâm sự.

Mọi người cười ồ:

– Thế là chu đáo rồi! Hoàn cảnh như vậy thì chấp thuận như vậy!

Phó Đức Chính vui vẻ tuyên bố kết thúc lễ thành hôn:

– Thưa bố Hách, xin phép cho chúng con được “bãi trào” ạ!

 

Trong căn lán của người coi đền, Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang đã hưởng những giây phút vợ chồng nồng nàn.

Nguyễn Thái Học ghì sát Giang vào lòng và nói trong hơi thở: “Cảm ơn giời đất đã ban em cho anh. Giờ phút này anh có thể quên hết. Để chỉ có một mình em. Một mình em và anh”. Nguyễn Thị Giang bảo: “Phải cảm ơn cha mẹ hai bên mới có chúng mình chứ!”, Nguyễn Thái Học cười sung sướng: “Ừ nhỉ, phải cảm ơn cha mẹ, cảm ơn tổ tiên, bằng cách không ai dậy này mà nối dòng nối giống mãi mãi”. Rồi một lúc bỗng Học cười khục khục, ghé sát vào tai Giang, nói: “Cụ Nguyễn Du tài tình thật! Trời ơi, “dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”! Cảm ơn em cho anh chiêm ngưỡng “tòa thiên nhiên” là thế nào”. Bàn tay Học cũng không vừa. Anh nghĩ, mình làm gì vẫn là con người, không phải thánh, làm sao cưỡng được quy luật của tự nhiên, quy luật của sinh tồn?

– Anh thật là tai quái!

– Thế mới xứng đáng là chồng em chứ!

– Ơ này, anh có nốt ruồi đỏ ở ngay chỗ kín.

– Nốt ruồi đỏ sẽ có quý tử đấy!

– Ờ, thế nào cũng có quý tử.

Một giấc thật say thật sâu sau những phút cực kỳ sung mãn.

Hai người trở dậy khi trời vừa sáng.

Nguyễn Thái Học trịnh trọng:

– Anh không có gì làm vật đính ước. Vậy anh trao cho em khẩu súng lục này, để em phòng thân và dùng nó trong những khi cần thiết. Đây, nó thay vật đính ước của anh.

– Em sẽ thấy an toàn hơn khi có vật này bảo đảm.

– Nó sẽ bên em như người bạn đường thân thiết.

– Và như kỷ vật đặc biệt. Còn em đưa anh lọn tóc này, anh hãy giữ bên mình để lúc nào cũng như có em bên cạnh.

Nguyễn Thị Giang đưa cho Nguyễn Thái Học chiếc khăn thêu gói lọn tóc. Học áp chiếc khăn có lọn tóc của Giang lên ngực:

– Ôi, em thật tuyệt vời!

– Và chồng em cũng thật tuyệt vời!

Hai vợ chồng trẻ ngắm và tán tụng nhau không biết chán! Nhưng không thể dùng dắng, vì những việc rất cần kíp đang chờ.

 

*

Hội nghị Võng La đã được tổ chức đúng thời gian đã định.

Như kế hoạch đã trù bị, hội nghị này tiếp nối hội nghị Lạc Đạo, bàn những việc thiết cốt cho ngày Tổng khởi nghĩa.

Đầy đủ các gương mặt yếu nhân của đảng. Phạm Thành Dương đến sớm lắm. Săng sái chạy đi chạy lại. Trông Dương thấy lạ, vừa hấp tấp, vừa như nôn nóng điều gì, thỉnh thoảng lại thấy anh ta nhìn ra phía đường cái. Cử chỉ ấy không lọt qua con mắt của Nguyễn Khắc Nhu.

Phó đức Chính cũng thấy hành vi của Dương thật đáng khả nghi. Anh ra hiệu cho Nguyễn Thái Học cảnh giác. Vờ ra ngoài đi tiểu, anh nhắc Nguyễn Văn Nho làm nhiệm vụ bảo vệ cuộc họp phải để mắt tới Phạm Thành Dương. Anh cũng nhắc các thành viên khác kỷ luật hội nghị, đề phòng và xử lý linh hoạt nếu tình huống xấu xảy ra.

Thấy Phạm Thành Dương liên tục xem đồng hồ. Gương mặt căng thẳng, mồ hôi rịn ra, da mặt lúc xám lúc tái ngắt.

Vừa bước vào phần mở đầu hội nghị, Nguyễn Thái Học đứng dậy, không hiểu sao tay phải anh lại cầm chặt chiếc chén trong tay.

Anh vừa nói “thưa các đồng chí”, thì Phạm Thành Dương thò tay vào túi rút súng. Rất nhanh, Nguyễn Khắc Nhu co chân đạp chiếc bàn trước mặt, chiếc bàn văng mạnh chặn ngang bụng Phạm Thành Dương, phát súng của hắn chệch lên xà nhà. Chiếc chén trong tay Nguyễn Thái Học cũng bay vèo về phía Phạm Thành Dương. Nguyễn Văn Nho nhanh chóng nổ súng sượt qua tai Phạm Thành Dương, hắn vùng dậy bỏ chạy.

Trong khi đó một chiếc xe jeep của mật thám qua bến phà Trung Hà, lao như điên về phía làng Võng La. Phạm Thành Dương bỏ chạy khá xa, đã đón đầu chiếc xe jeep, nhảy lên dẫn về nơi hắn vừa manh động hành xử.

Thời gian vừa đủ để mọi người dự hội nghị chạy đến những nơi an toàn.

Phạm Thành Dương đã ngầm báo mật thám tới để bắt gọn những người dự hội nghị, sau khi hắn bị Giáo Du bắt phải đi khai báo hết với Chánh mật thám Arnoux. Arnoux đã bày cho hắn cách lập công. Sẽ bắt gọn bè đảng của Nguyễn Thái Học. Phen này kiến bò miệng bát, thoát sao được! Khi đến hội nghị, tự dưng Dương thấy hoang mang. Thật sự đơn độc. Một ý nghĩ chợt lướt nhanh trong đầu hắn, rằng hắn phải hành sự, lấy công đầu, không để bọn mật thám lau nhau đến tranh mất công. Hắn sợ Nguyễn Thái Học đổi ý, cảnh giác, sẽ chuyển địa điểm khác họp, mất công khai báo của hắn. Mật thám nào còn tin hắn nữa?

Hắn đã tính toán sai. Khi thấy mọi người chĩa sự chú ý về hắn. Sợ lộ, hắn đã rút súng, định nhằm vào Nguyễn Thái Học. Mọi việc đã diễn ra thật nhanh chóng, tất cả ngoài dự kiến của Dương.

Mật thám vào làng Võng La không dám lùng sục tiếp vì sợ bị mai phục. Bọn chúng cho tập hợp dân làng lại, đá đít mấy bà già, bạt tai mấy ông lão, rồi cho nổi lửa đốt cả làng. Nhà dân lợp lá cháy rần rật trong tiếng kêu khóc thảm thiết của đàn bà con trẻ.

Bọn chúng điên tiết cho triệt phá hết những gì có thể triệt phá. Bắt dân làng nộp phạt 50 đồng xăng xe ô tô chở lính đàn áp chính dân Võng La! Đập phá thỏa sức đến tận trưa chúng mới chịu bỏ đi.

Việc Phạm Thành Dương phản bội, đã gây sự bất bình lớn trong nội bộ đảng. Không thể không trừng trị đích đáng. Tòa án cách mạng lập tức được họp tại Vĩnh Yên do Nguyễn Khắc Nhu điều hành, đã ra phán quyết xử tử vắng mặt hai cha con Phạm Thành Dương và Phạm Huy Du, đã can tội phản bội tổ chức và làm mật thám cho Pháp. Trước khi phán quyết, Nguyễn Khắc Nhu phân tích rất ngắn:

– Hai cha con Phạm Thành Dương là kẻ lạc loài. Ngay từ hội nghị lần trước ở 38 Hàng Bông – Hà Nội, Dương đã có biểu hiện của một tên ganh ghét đố kỵ. Hắn đã dấn sâu vào tội lỗi. Đó là tội phản bội Tổ Quốc, phản lại nhân dân. Xử tử cha con Phạm Thành Dương là trừ hậu họa cho cách mạng.

Bản án chuyển đến Đoàn Trần Nghiệp, ủy viên Ban ám sát, tiếp tục giao cho Nguyễn Văn Nho và Nguyễn Xuân Huân thực hiện.

 

*

Bắt hụt Nguyễn Thái Học và những kẻ phiến nghịch họp tại Võng La đã làm cho giới quan chức thực dân quá đau đầu. Pasquier cho gọi Robin tới quở trách. Robin gọi Arnoux đến quở trách. Arnoux gọi Chánh cẩm Hà Nội lên quở trách. Nguyên văn lời quở trách được lặp lại gần như nguyên bản, chỉ có điều  càng cấp bé tội lỗi càng nặng hơn, mức độ bị rủa xả càng đậm đà hơn!

– Các anh là đồ vô dụng! Cá nằm trong lưới còn để sổng!

– Các anh là đồ vô dụng, vô dụng! Cá nằm trong lưới mà còn để sổng, cơm tới tận miệng mà còn để mất!

– Các anh là đồ vô dụng, vô dụng, vô dụng! Cá nằm trong lưới mà còn để sổng, cơm đến tận miệng mà còn để mất. Đồ bị thịt. Ăn hại cơm của nhà nước.

Chánh cẩm Hà Nội cho gọi Phạm Thành Dương tới, quát:

– Anh là cái đồ vô dụng. Đã nói rằng phải khôn khéo, phải để chúng nó vào lưới mới cất. Đằng này anh lại nổ súng trước, khác nào xua hươu nhảy vào rừng. Anh có biết như vậy là ngu xuẩn không?

– Dạ, tôi biết mình ngu thì đã muộn. Xin sếp cho tôi lập công lần sau, để tôi có dịp sửa chữa cái ngu.

– Đã ngu rồi thì sửa sao nổi? Ngu, ngu!

Thực ra trước mặt Chánh cẩm, Dương khúm núm vậy thôi, nhưng trong bụng hắn nghĩ: bây giờ ngươi bắt nạt ta, chứ chức vụ như ngươi đáng kể gì. Sẽ có lúc ta sẽ vượt qua đầu nhà ngươi. Lúc ấy hẳn là ngươi sẽ biết tay ta! Bởi chỉ cần khai báo số bom 250 trái ta giấu ở Bạch Mai, ta đã được Pháp thăng lên chức đội. Bây giờ là Đội Dương, chứ không phải là anh lính quèn nữa! Tương lai của ta đang rất là hứa hẹn, tên chánh cẩm vừa rủa ta ngu kia có biết không?

Phạm Thành Dương ngồi thần người ra nghĩ lại, hắn đã không giữ lời hứa trước tổ chức, trước Nguyễn Thái Học, cũng là vì một phần Giáo Du cha hắn cấm đoán, dọa báo với mật thám. Phần nữa, khai báo có quyền lợi ngay. Được thăng lên Đội, có tiền sài, chả tội đếch gì không khai. Chứ chờ cách mạng của ông Học thành công liệu quyền lợi có về tay mình không? Tội gì mà phải khổ sở, sướng lúc nào hay lúc ấy. Chứ lúc nào cũng nơm nớp lo bị mật thám bắt thì còn gì là người! Bây giờ ai động đến ta đâu có được?

 

*

Trong khi đó Arnoux thấy cần phải củng cố địa vị của mình ở Đông Dương liền quay trở lại xin gặp Toàn quyền Pasquier. Một kế hoạch Arnoux cho rằng đã được soạn thảo khá tỉ mỉ nhằm tiêu diệt lực lượng chống đối của Việt Nam Quốc Dân đảng và các tổ chức phản nghịch khác, lúc này cần trình bày để Pasquier thẩm quyết.

Sau khi nghe xong bản kế hoạch của Arnoux, viên Toàn quyền Pasquier nhếch mép cười:

– Ồ! có khác mấy những điều tôi đã chỉ thị cho cơ quan mật thám các ông phải làm đâu? Ông thật khéo vẽ chuyện! Hết văn bản này đến văn bản khác chỉ là sự sao chép thô thiển.

– Vâng, phải trên cơ sở cái nền ấy, tôi mới soạn thảo kế hoạch mới theo sát ý ngài.

– Này ông Chánh mật thám, ông có biết câu ngạn ngữ này của người Annam không?

– Tôi chưa hiểu.

– Đó là câu: “sôi hỏng bỏng không” ấy mà! Người Annam nói câu ấy để chỉ những việc làm vô ích, vô ích, vô ích! Nhưng tôi vẫn lưu ý, trong bản kế hoạch trú trọng nhất là dùng người Việt trị người Việt.

– Tôi hiểu, tôi hiểu ạ.

– Vì thế, việc tên Phạm Thành Dương làm hỏng chuyện bắt Nguyễn Thái Học vừa rồi, đáng lẽ phải khử, nhưng xem ra thằng dị mọi này rất thành khẩn, cho nó chức Đội và có thể cho nó lên chút nữa, nó càng hung hăng, càng trung thành. Trung thành nó sẽ gắng sức lập công. Xem ra nó là đứa tinh ranh lọc lõi. Xử dụng nó đến mức độ nào thôi. Ông cứ xem con chó săn thì biết. Phải biết nuôi chó và dùng chó. Khi chó không làm được việc thì, ông biết rồi đấy, theo cách làm của người Annam là thịt, là thịt! Lúc ấy cũng không muộn.

 

*

Để thật bất ngờ Nguyễn Thái Học lại cho triệu tập cuộc họp ngay ở Võng La. Mọi phương án không phương án nào tối ưu hơn. Bọn mật thám đã cho người dăng kín khắp nơi. Chỉ có Võng La thì chúng cho rằng vừa bị bắt hụt ở đây, có cho ăn kẹo Nguyễn Thái Học cũng không dám bén mảng trở lại chỗ này.

Khi trao đổi với Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính, hai người đều cho rằng phương án này tuy có mạo hiểm, nhưng cũng là  tương kế tựu kế, họp ở nơi nơi chúng ít ngờ nhất, là một nước cờ cao. Nhưng dù sao cảnh giác vẫn không thừa.

Lần này, yêu cầu cẩn trọng hơn. Phải lường hết mọi tình huống xấu nhất. Phương án bố phòng tỉ mỉ hơn. Phải cho canh gác hết các đường ngang lối tắt. Có người báo tín hiệu từ xa nơi họp.

Khỏi phải trình bày rườm rà mất thời gian. Hội nghị bàn ngay vào nội dung chính. Yêu cầu mọi người nói thực ngắn.

 

Nguyễn Thái Học đọc soạn thảo Hịch hiệu triệu khởi nghĩa:

Hỡi Quốc Dân đồng bào!

Thực dân Pháp cướp nước và đã thống trị dân ta suốt hơn sáu chục năm.

Dân ta thống khổ cơ hàn vì thực dân Pháp đàn áp và vơ vét tài nguyên, bắt phu bắt lính, giày xéo non sông gấm vóc của nhân dân ta.

Trong khi đó, vua quan thì cam tâm làm tay sai, đẩy dân vào vòng nô lệ tủi hận. Hơn hai chục triệu con cháu Lạc Hồng ngày càng chồng chất đau thương.

Cảnh tình này, ai không bất bình? Cơ sự này, ai không căm phẫn? Ai nỡ ngồi yên nhìn đất nước cơ nhục?

Hỡi Quốc Dân đồng bào!

Vâng lệnh Tổ quốc, các đảng viên Việt Nam Quôc Dân đảng xin cùng Quốc Dân đồng bào hợp sức đứng lên đánh đuổi thực dân ra khỏi Đông Dương.

Đuổi người Pháp về nước Pháp, đem nước Nam trả lại người Nam.

Độc lập, Tự do phải về tay người Việt.

Bình đẳng, Bác ái phải trong tay người Việt.

Toàn thể Quốc Dân đồng bào hãy nghe theo tiếng gọi non sông cùng chúng tôi đồng lòng cứu nước.

Lời hiệu triệu này được viết bằng tâm huyết của những người Việt Nam

yêu nước.

 

Thay mặt Việt Nam Quốc Dân đảng

NGUYỄN THÁI HỌC

 

Đọc xong lời hiệu triệu Nguyễn Thái Học nhìn mọi người, bắt gặp những ánh mắt tin cậy, những giọt nước mắt không kìm được bởi không khí thật trang nghiêm, thật linh thiêng.

Không ai bổ sung điều gì, bởi mỗi chữ trong hiệu triệu đều được đúc kết từ nguyện vọng sâu xa của mỗi người.

Nguyễn Khắc Nhu đọc Nhật trình khởi nghĩa:

– Thời gian thống nhất toàn quốc khởi nghĩa đêm 9 rạng 10 tháng 2 năm 1930 (nhằm vào ngày 11 tháng Giêng Canh Ngọ).

– Lực lượng khởi nghĩa huy động tại chỗ, gồm binh lính nổi dậy, lấy vũ khí địch đánh địch, kết hợp với sự hỗ trợ của các chi bộ dân sự, xử dụng bom mìn tự tạo, đồng loạt tiến công.

– Quân kỳ khởi nghĩa là lá cờ nửa đỏ nửa vàng.

– Quy ước quân khởi nghĩa nhận nhau: đeo băng vàng tay trái, có dòng chữ đỏ “cách mạng quân”.

– Địa bàn khởi nghĩa gồm: khu vực trung du dọc sông Hồng có Yên Bái, Phú Thọ, Hưng Hóa, Lâm Thao, Sơn Tây. Khu vực đông bắc và đồng bằng có Hải Dương, Phả Lại, Hải Phòng, Kiến An, Phụ Dực và khu vực Hà Nội.

– Mục tiêu tiến công là những nơi đồn trú của Pháp, các huyện lỵ, tỉnh lỵ, những nơi cơ quan công quyền của Pháp.

Việc phân công chỉ huy từng khu vực sẽ do Nguyễn Thái Học cùng Tổng Bộ khởi nghĩa nghiên cứu sở trường và hoàn cảnh từng người để phân công cụ thể sau.

Để giúp tổ chức của chúng ta về việc thu thập tình hình và làm Tham mưu đắc lực cho Nguyễn Thái Học, tôi đề nghị cử Nguyễn Thị Giang làm Tổng thư ký cho đảng. Mọi người nhanh chóng nhất trí.

Cuộc họp kết thúc khi chủ nhà đem ra một bát rượu trắng. Thay cho lời thề, mỗi người nhỏ từ ngón tay mình một giọt máu vào bát. Bát rượu máu được truyền từ người này sang người khác, uống đến cạn.

 

*

Từ khi được giao nhiệm vụ trừ khử hai cha con Giáo Du và Phạm Thành Dương, nhóm cảm tử thành Hà Nội nghiên cứu rất kỹ phương án ám sát hai cha con tên phản bội này, nhưng bế tắc hoàn bế tắc.

Đoàn Trần Nghiệp cùng với Nguyễn Văn Nho và Nguyễn Xuân Huân ngồi trong ngôi nhà tận hẻm nhỏ phố Hàng Bạc để bàn tính thực hiện nhiệm vụ khó khăn này.

Nguyễn Văn Nho nói:

– Đối với Giáo Du thì không khó, vì lão ta tuy cảnh giác, nhưng nghề dạy học, nhiều lúc phải đi ra phố. Chứ còn Đội Dương, hắn có lính bảo vệ, không mấy khi hắn đi một mình.

Nguyễn Xuân Huân đưa ra ý kiến:

– Muốn đánh rắn thì phải dụ ra khỏi hang. Việc diệt Phạm Thành Dương cũng vậy. Hắn từng trong hàng ngũ của ta nên hắn rất biết về ta, hắn sẽ rất nhiều mưu mẹo đối phó.

Đoàn Trần Nghiệp khẽ reo lên:

– Đúng rồi, đúng rồi! Đánh rắn phải dụ khỏi hang. Tôi đề xuất phương án thế này nhé. Ta theo dõi kỹ Giáo Du, có điều kiện tốt là ta diệt, ở một vị trí vừa dễ hành sự, vừa dễ tẩu thoát, đồng thời tìm cách báo tin gấp cho Đội Dương, thế nào hắn cũng đến ngay. Lúc ấy ta tiêu diệt nốt. Tôi phân công thế này. Tôi thông thạo Hà Nội hơn, tôi sẽ theo dõi quy luật đi về của Giáo Du, biết chắc chắn rồi thì ta sẽ gây ra một vụ lộn xộn trên phố, nhân lúc ấy Nguyễn Văn Nho trừ khử luôn Giáo Du. Khi Đội Dương đến, Nguyễn Xuân Huân ra tay, vì tay súng anh thiện xạ hơn. Bởi lúc ấy sẽ rất nhốn nháo dễ bắn nhầm.

Đã vào giờ tan tầm chiều, trời Hà Nội xám xịt, báo hiệu sẽ có một trận mưa giông. Ai cũng vội vàng trở về nhà. Người và xe cộ rầm rập, bỗng một chiếc xe đạp đâm vào một chiếc xe tay ngược chiều ngõ Hồng Phúc. Người ngồi trên xe tay mập mạp, cất lời chửi thằng đi xe đạp mù à? Ngay lúc đó một tiếng súng nổ. Tên béo mập đổ sập người xuống. Đó chính là Giáo Du. Trong lúc mọi người nhốn nháo, bản án tử hình vẫn được nhét vào túi tên phản phúc. Tin tức được đưa nhanh tới Đội Dương. Hắn vội phóng đi ngay. Nhưng chợt nhớ ra điều gì, hắn vòng trở lại vơ lấy khẩu súng ngắn và dắt theo một thằng lính bảo vệ. Thằng con hiếu thảo với bố nó, chạy thẳng đến nơi Giáo Du bị hạ sát. Đội Dương thấy bố quằn quại trên vũng máu. Hắn kêu: “Ối bố ơi!”. Cùng lúc ấy một phát súng từ cự ly xa hơn đã bắn về phía Đội Dương. Hắn không biết đối phương ở hướng nào mà bắn trả.

Dân chúng tò mò xúm đông xem, xì xào: “Táo bạo gớm!”

Còi báo động rầm rĩ đường phố. Xe cứu thương nhà binh rú còi gắt gỏng. Dòng người xe dạt ra hai bên đường. Nhưng Giáo Du chưa kịp đến nhà thương thì tắt thở. Hôm đó là ngày 22 tháng 1 năm 1930.

Phải đến sau Khởi nghĩa Yên Bái, vào ngày 30 tháng 5 năm 1930, Nguyễn Xuân Huân và Nguyễn Văn Nho mới bắn Dương lòi ruột ngay giữa ban ngày ở Cửa Đông.

 

 

 

Chương XV

                                                     GIỜ QUYẾT ĐỊNH

 

Yên Bái, đây là cái điều nhắc nhở ta rằng, không thể bịt miệng một dân tộc, mà người ta không thể khuất phục bằng lưỡi kiếm của đao phủ.

                                                                                                           Louis Aragon

 

Chỉ còn chưa đầy một tháng là đến ngày Tổng khởi nghĩa, tại làng Mỹ Xá, Nam Sách, Hải Dương lại đón các yếu nhân Quốc Dân đảng về mở hội nghị. Lặng lẽ và quyết liệt, gương mặt ai cũng bừng bừng một niềm khát khao hành động. Nguyễn Thị Giang mặc chiếc áo len xanh thẫm. Trông chị thật đoan trang với mái tóc chải bồng dày mượt thả xuống hai bờ vai. Hôm nay chị không vấn khăn mỏ quạ. Chị không mặc tân thời như chị em sống ở đô thị thường mặc. Vẫn chiếc áo nâu kín đáo trong chiếc áo len khít sát thân người, nổi rõ những đường cong duyên dáng. Đó là một phụ nữ thật ưa nhìn, hiền thục, nhưng cũng là một người dám vượt lên lễ giáo cổ xưa, dám hoạt động xã hội chẳng khác gì nam giới. Nguyễn Thái Học mê đắm Giang cũng vì lẽ đó. Lắm lúc Học thấy Giang chẳng khác gì nữ tướng chỉ huy. Những ý kiến rất ngắn nhưng hàm chứa sự suy tính chín chắn. Ngay chuyện Giang đề xuất đưa Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân vào vị trí nòng cốt lãnh đạo của đảng cũng rất xác đáng. Quả thật, nếu cứ máy móc rằng ai không đồng chính kiến thì loại trừ, hẳn đảng đã mất những người trung kiên có chính kiến, dám nói thẳng nói thật suy nghĩ của mình, nhưng tính kỷ luật lại rất cao. Dám xả thân vì đảng, không tính toán thiệt hơn, không mưu toan giả dối.

Bây giờ thấy Lê Hữu Cảnh luôn sát cánh trong cuộc đấu tranh chung, Nguyễn Thái Học rất trân trọng, rất nể phục. Đến với hội nghị, Lê Hữu Cảnh nói với Nguyễn Thái Học:

– Tôi không có gì đối kháng với anh đâu. Thấy tình thế sao thì tôi phát biểu vậy. Còn sự lựa chọn là ở anh, anh Nguyễn Khắc Nhu, anh Phó Đức Chính, những người trong Tổng bộ khởi nghĩa.

– Tất cả vì sự nghiệp chung, vì đại cuộc, anh Cảnh ạ. Tôi biết tình thế không thuận lợi. Nhưng chúng ta như hành khách trên một con tàu đang lao về phía trước. Không thể dừng lại, đành chấp nhận. Chúng ta phải tạo tiếng vang trong nước và chấn động ra nước ngoài để chứng tỏ tổ chức ta còn… đang sống!

Chiều xuống. Điểm mặt đông đủ mọi người, Nguyễn Thái Học mở đầu như một lời tâm sự sâu xa:

“Người ta bảo cần phải đứng trước ở chỗ không thua! Nhưng chúng ta thì đứng trước chỗ thua mất rồi. Thế nhưng, liệu chúng ta hãy hoãn để tổ chức lại rồi mới đánh có được không? Tôi tin rằng không thể được! Cuộc đời là cả một canh bạc. Gặp canh bạc đen, người ta có thể thua sạch hết cả vốn. Gặp thời thế không chiều mình, đảng chúng ta có thể tiêu hao hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã xen vào trong đầu óc quần chúng, khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng, thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục, trại giam. Âu là chết đi để lại gương hy sinh phấn đấu cho người sau nối bước…”

Không để xen vào đầu óc quần chúng lòng sợ sệt, với suy nghĩ ấy, tôi tuyên bố thời gian khởi nghĩa vẫn giữ nguyên.

Về địa điểm khởi nghĩa không đổi. Tôi chỉ phân tích thêm, Yên Bái là địa bàn trọng yếu, trọng tâm của cuộc khởi nghĩa. Tôi đã được chị Bắc đưa cho nghiên cứu kỹ bản đồ bố phòng của quân đội và các cơ quan trong thị xã. Ở đây có chi bộ nhà binh rất mạnh, là lực lượng chủ yếu nổi dậy khởi nghĩa. Lực lượng hỗ trợ là chi bộ đảng Xuân Lũng, Cao Mại… cùng nhân dân thị xã Yên Bái. Nếu không có gì khác, sẽ có viện binh của Nguyễn Thế Nghiệp từ Lào Cai về. Chỉ huy dân sự ở đây là anh Thanh Giang, cùng chị Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang, kết hợp với Cai Hoằng, cai Thuyết chỉ huy quân sự. Nếu kết hợp thật tốt, ta sẽ chắc thắng.

Ở Hưng Hóa, chỉ huy là anh Nguyễn Khắc Nhu.

Ở Lâm Thao, chỉ huy là anh Phạm Khắc Nhận.

Ở Đồn Thông, Sơn Tây, chỉ huy là anh Phó Đức Chính.

Chú ý, giành được thắng lợi xong, các địa phương hợp quân ở Sơn Tây. Nếu đủ sức ta sẽ tiến về Hà Nội.

Ở Hải Phòng, Kiến An, Phụ Dực, chỉ huy là anh Vũ Văn Giản, Nguyễn Văn Chấn, Phạm Văn Tình.

Còn ở Hải Dương, Phả Lại sẽ do tôi và anh Trần Quang Riệu đảm nhiệm.

Riêng Hà Nội, anh Đoàn Trần Nghiệp sẽ chỉ huy đánh Sở Mật thám, Sở Sen đầm, Hỏa Lò và các cảnh sát quận, giữ chân địch và chia lửa với các địa phương.

Trên đây là sự phân công chỉ huy. Mong tất cả mọi người hãy vì Tổ quốc thiêng liêng mà hết lòng phụng sự.

Cuộc họp kết thúc vào tối 26 tháng 1 năm 1930. Mỗi người lại đi mỗi ngả. Công việc chuẩn bị khởi nghĩa đang chờ đợi họ.

 

*

Họp xong, Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang trở về Vĩnh Yên ngay. Kể từ ngày tổ chức lễ cưới ở Đền Hùng, hai người cứ biền biệt, chưa có dịp về lại để thăm Thổ Tang lần nào. Chắc mọi người mong lắm. Nhất là mẹ, và cả các em nữa. Nguyễn Văn Nho thì đã xung vào đội cảm tử ở Hà Nội. Hai em gái đã lấy chồng. Nguyễn Văn Lâm cũng đã lớn, chắc vài tuổi nữa cũng sẽ chẳng ở nhà. Chỉ có Nguyễn Thái Nỉ còn nhỏ.

Về Thổ Tang lần này, Nguyễn Thái Học định ra mắt con dâu với mẹ chồng. Chắc là mẹ vui lắm lắm. Lần ông Hách lên Đền Hùng lo đám cưới bí mật cho Học và Giang, bà đã nhắn là, bảo chúng nó sắp xếp mà về thăm mẹ và gia đình, ít ra cũng làm mâm cơm con gà nén hương trình tổ tiên cho phải phép chứ.

Bây giờ, phải quyết tâm lắm Học và Giang mới dứt mọi việc để về thăm nhà. Không dám đi tàu, hai người cuốc bộ nhằm đường tắt qua Vĩnh Yên để về quê. Đi qua quán nước gốc đa Đồng Vệ, thấy người lố nhố đứng ngồi chỗ bà chủ quán mà không dám dừng lại, vẫn phải cảnh giác. Bị bắt lúc này là hỏng hết những việc lớn đang chờ.

Chưa tối hẳn, về nhà lúc này cũng không tiện. Học và Giang vòng qua cánh đồng như người thăm ruộng.

Đã chớm rét, cánh đồng đang mùa gieo trồng vụ đông xuân. Những thửa mạ non xanh mơn mởn rải rác đang chờ nhổ cấy. Mùi bùn hăng hăng xộc lên từ những chân ruộng sâm sấp nước, vừa được cày bừa xong. Bất giác Nguyễn Thái Học nhớ tới ngày đến đầu làng Song Khê, gặp mấy cô gái đi cấy, trong đó có Giang. Anh hỏi Giang:

– Hôm mới gặp nhau ở làng Song Khê, quê của Nguyễn Khắc Nhu, em có cảm tưởng về anh thế nào?

– Cảm tưởng anh là chàng ngốc!

– Ôi, thế mà đeo đuổi mãi chàng ngốc mới chấp nhận cho làm vợ đấy!

– Thế hôm đó anh cảm tưởng về em thế nào?

– Cũng ngốc!

– Thế thì hai người cùng ngốc, lấy nhau là phải rồi!

Bỗng Nguyễn Thái Học dừng lại, nắm chặt bàn tay Giang. Anh nói trong hơi thở rưng rưng:

– Chúng mình yêu nhau, lấy nhau trong thời buổi loạn lạc, thật không may chút nào. Bước đường phía trước chưa biết ra sao? Mọi mối nguy hiểm đang rình rập trước mắt. Chẳng lúc nào chúng mình được vô tư như đám mây kia, như dòng sông kia. Nếu chẳng may mệnh hệ nào, lúc ấy chúng ta không còn, thì đám mây kia vẫn cứ trôi, dòng sông kia vẫn cứ chảy.

– Nhưng chúng ta cũng đã tròn bổn phận.

– Lúc ấy, linh hồn ta có thể nhập vào những đám mây rực đỏ phía chân trời hay ngôi sao nào đó giữa cõi mênh mông bao la kia.

– Chẳng biết có thể nhập vào ngôi sao nào không, nhưng biết được quy luật sống chết thì không còn biết sợ.

– Anh cũng nghĩ thế! Sợ thì ai dám làm cách mạng?

– Em tin…sẽ còn bao nhiêu người yêu nước như chúng mình.

– Nhưng mối tình như em và anh chỉ có một.

– Em tin… Anh ngốc ơi! Anh có biết hôm nay em định báo cho anh một tin quan trọng không?

– Tin gì mà quan trọng?

– Đố anh biết!

– Sao không nói trước với anh lúc ở hội nghị để anh còn liệu hướng giải quyết.

– Ôi, ngốc ơi là ngốc! Em nói quan trọng là trong người em đang có dòng máu của anh.

Nguyễn Thái Học chỉ biết kêu “Ôi! Tuyệt diệu! Tuyệt diệu”. Rồi cứ thế ôm lấy Giang mà hôn lấy hôn để. Giang kéo tay Học áp vào bụng mình, thì thầm:

– Anh có thấy cảm giác ấm nóng? Em hạnh phúc quá! Được bên anh giờ phút nào là quí giá giờ phút ấy!

– Anh thấy! Anh thấy! Anh thương nó phải chịu vất vả cùng mẹ nó.

– Cũng chả thể khác được đâu anh!

– Anh biết! Vì thế, anh càng thương em.

Chiếc hôn dài làm tan biến mọi lo lắng. Giữa cánh đồng lộng gió, hai người đi sát bên nhau. Thỉnh thoảng Học dừng lại, ôm chặt Giang. Hôn nhau nồng nàn như chưa bao giờ được yêu.

Chập choạng tối hai người mới về đến nhà.

Bà Quỳnh cuống quýt cả lên khi thấy con giai và con dâu xuất hiện. Bà ra đóng cổng, rồi mới quay trở lại, hỏi:

– Hai con đã ăn uống gì chưa?

Nhận ra câu hỏi của mình chẳng ra đâu, bà xuýt xoa:

– Đói lắm rồi hả? Mẹ chỉ vào bếp nấu ù một tí là xong.

Ông Hách thì bảo:

– Bà rõ thật! Gì mà cứ cuống cả lên? Thấy con nó về thì lo cơm nước, chứ việc gì phải hỏi “đã ăn uống gì chưa?”.

– Mẹ mừng thấy mặt con dâu con giai mà!

– Thế các con về ở nhà có lâu không?

– Mai chúng con lại đi rồi thầy mẹ ạ!

– Tết nhất đến nơi rồi, mươi ngày nữa thôi, cố gắng ở thêm ít ngày có được không?

– Tình thế gấp lắm. Mai chúng con phải đi thật sớm, chứ ở nhà bọn mật thám phát hiện được là rất phiền phức. Chúng con về thế này cũng là liều lắm!

– Thầy mẹ biết rồi! Biết rồi! Bữa trước thầy nghe nói Công sứ Vĩnh Yên có giấy sức về Tri phủ Vĩnh Tường yêu cầu phải lùng bắt con nộp lên sở cẩm. Thằng chánh cẩm Riner ở Vĩnh Yên là một tên khét tiếng tàn ác. Cha chỉ sợ con rơi vào tay nó thì khốn.

– Bữa trước, mẹ ra chợ Vĩnh Tường thấy chúng treo ảnh truy nã con và ông Nguyễn Khắc Nhu, mẹ bủn rủn cả người.

Bà Quỳnh ngồi ngắm con dâu như muốn nuốt trọn hình ảnh của gương mặt sương gió trẻ trung ấy vào lòng. Bà cứ ngồi vuốt tóc và nắn tay nắn vai con dâu cho đến lúc mọi người đi ngủ.

 

*

Như thường hàng năm, cứ sau tết ít ngày, dân Phú Thọ đổ lên Yên Bái bán rau quả và đi lễ đền chùa tấp nập. Trong số những người đi lễ đền chùa ấy đông nhất vẫn là dân Xuân Lũng.

Năm nay, người ta bảo hội Đền Tuần Quán mở to lắm. Đền Tuần Quán cách ga Yên Bái chừng hơn một cây số, nằm ngay cạnh sông Hồng, nổi tiếng linh thiêng. Đền này thờ “Diệp phu nhân Bách Lẫm”, vị nhân thần được tôn danh vì tấm lòng nhân từ, bao dung dân chúng.

Dân đi lễ Tuần Quán đầu năm để lấy may, đinh ninh câu ca được truyền tụng về cảnh đẹp: “Nền xưa đất cổ đền thiêng dựng. Trầm tích tâm linh chẳng phai mờ. Dân an nước thịnh người chân thiện. Tuần Quán danh truyền một cõi thơ”. Đất này nổi tiếng từ thời thuộc Trấn Hưng Hóa, nên thường được dân khắp nơi đến chiêm bái.

Người tứ xứ kéo về đền đi lễ nườm nượp. Cùng những người đi lễ hội, các đảng viên Xuân Lũng, Cao Mại đã bố trí cho chị em dưới mỗi gánh hoa quả và hương nhang đi lễ là dao mác, súng ống và bom tay. Chị em lặng lẽ chuyển cho các nghĩa binh.

Nguyễn Thị Giang đón mọi người ở sân ga, rồi như mọi người đi đón mua hàng từ xuôi lên bán. Chị cũng mặc cả mua mớ rau mớ dưa, bí mật hướng dẫn mọi người vào vị trí tập kết.

Nguyễn Thị Giang cùng Nguyễn Thị Bắc chạy đi chạy lại, động viên mọi người cứ bình tĩnh. Giờ khởi sự ai mà không hồi hộp. Phải hết sức kín đáo, đừng để bọn lính kín nghi ngờ hỏng việc. Đêm nay ngoài những người nam nhi trực tiếp chiến đấu, thì phụ nữ sẽ treo cờ lên các công sở thị xã Yên Bái, hoặc làm cứu thương, tiếp tế. Nguyễn Thị Bắc dẫn mọi người đến Đồi Sơn hội kiến trước giờ khởi sự.

Thị xã Yên Bái cùng với tỉnh Yên Bái vốn xưa thuộc Trấn Hưng Hóa, được thành lập từ ngày 11 tháng 4 năm 1900 theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương, chuyển từ đạo lỵ sang thị xã tỉnh lỵ, gồm 4 phố: Yên Lạc, Yên Hoà, Yên Bình và Yên Thái. Nơi này có vị trí quan yếu về mặt quân sự, được thực dân Pháp chọn làm thủ phủ của đạo quan binh 3, ra đời từ 20 tháng 8 năm 1891. Tuy chuyển thành thị xã, nhưng nhà cửa hầu hết vẫn là nhà gỗ lợp lá cọ. Chỉ có nhà thờ, những công sở và khu vực đồn trú của lính Pháp là có nhà xây.

Đoạn sông Hồng chảy qua thị xã Yên Bái suốt từ Dinh chánh sứ đến Bách Lẫm như thể vòng cánh cung, ôm gọn thị xã vào lòng. Ở đây có đường thủy từ Lào Cai về xuôi tận Hà Nội, ra tới biển. Có đường sắt từ Hà Nội sang tận Côn Minh bên đất Tàu. Lại có con đường quan binh chạy từ Tuyên Quang, qua Yên Bái, vào tận Nghĩa Lộ, Than Uyên. Người Pháp chọn nơi này làm vị trí trung tâm quân sự là có tầm nhìn chiến lược rõ ràng.

Đánh chiếm được Yên Bái sẽ có ảnh hưởng rộng lớn. Chính vì thế Nguyễn Thái Học chọn nơi này làm quyết chiến điểm là có ý đồ lớn. Hơn nữa, nơi này cũng là nơi Pháp chủ quan ít đề phòng, nghĩa quân cách mạng sẽ gây được thế bất ngờ.

Giở tấm bản đồ thị xã Yên Bái, Nguyễn Thị Giang hướng dẫn cho Thanh Giang, Nguyễn Nhật Thân và Nguyễn Như Liên cùng các nghĩa sĩ từng vị trí để ghi nhớ, cùng với phương án hiệp đồng tiến công, nơi giao liên chỉ dẫn, nơi tập kết thương binh tử sĩ, đường rút ra khỏi thị xã nếu cuộc khởi nghĩa không thành công.

Mười giờ đêm các nghĩa sĩ hợp quân ở Đồi Sơn, có thể nhìn rõ ánh điện khu Đồn Cao. Cuộc họp chớp nhoáng để kiểm điểm quân số trang bị, đọc Quân lệnh và Hịch khởi nghĩa. Trong ánh trăng lên muộn lờ nhờ của ngày 10 tháng Giêng Canh Ngọ, có thể nhìn thấy  từng người đội mũ lưỡi trai, tay trái đeo tấm băng vàng, với dòng chữ “cách mạng quân”, trong tay mỗi người đều có khí giới. Không khí nghiêm trang bao trùm. Có thể phân biệt rất rõ tiếng dế đực dế cái rỉ rả trong bụi cỏ. Mọi người im lặng nín thở để nghe Quân lệnh. Tiếng Thanh Giang  khàn khàn, nhưng mọi người nghe rõ từng chữ.

Yên Bái, ngày 9 tháng 2 năm 1930.

– Hỡi các nghĩa sĩ!

Giờ phút đền nợ nước trả thù nhà đã đến!

Chúng ta không tiếc máu xương cho Độc lập, Tự do!

Vì vận mệnh của Tổ quốc, chúng ta chỉ có tiến không chịu lùi.

Vì danh dự của các nghĩa sĩ Việt Nam hãy xông pha giành lấy thắng lợi!

Đúng 2 giờ, 10 tháng 2 năm 1930, lệnh nổ súng.

Việt Nam vạn tuế, vạn tuế, vạn tuế!

Đọc xong Quân lệnh, Thanh Giang nói thêm:

– Chúng ta bắt đầu khởi sự. Phải phối hợp chặt chẽ dưới sự chỉ huy của cai Hoằng, cai Thuyết. Cứ mỗi người bên nhà binh kèm hai người dân sự. Cai Hoằng ra lệnh: Bây giờ ta chia làm hai cánh quân tiến sát về mục tiêu như đã phổ biến. Đây là mệnh lệnh của Tổ quốc, ai do dự sẽ bị trừng trị giống như cây sơn này!

Một nhát dao đứt phăng cây sơn bằng cổ tay.

Cai Hoằng không quên nhắc kỷ luật chiến đấu:

Một: gặp giặc mà lùi, chém!

Hai:cướp đoạt của dân, chém!

Ba: hãm hiếp phụ nữ, chém!

Bốn: ngầm ý gúp giặc, chém!

Năm: liên lạc với giặc, chém!

Sáu: tiết lộ bí mật của đảng, chém!

Bảy:Bất tuân luật chỉ huy, chém!

Mọi người vừa phấn khích vừa hồi hộp trước giây phút thiêng liêng: xung trận.

 

Trong khu Đồn Cao. Trung tá LeTacon vẫn chưa ngủ.

Mới hồi chiều, tên đội Vinh hốt hoảng lên thưa rằng, khả năng có biến. Hắn nghe lỏm, trại lính khố đỏ số 5 số 6 đang có động dạng nổi dậy. Có người tuyên truyền hắn nhưng hắn không theo. Hắn nói, đáng lẽ Quản Cầm chỉ huy khởi nghịch, nhưng Quản Cầm bị ốm phải về tận Đồn Thủy chữa bệnh, chưa biết ai thay thế.

Để cảnh giác phòng mọi bất trắc, Le Tacon đã tống cánh lính Annam canh gác đi chỗ khác, thay thế lính gác khu Đồn Cao toàn là Lê dương. Nhưng Le Tacon vẫn chưa thật yên tâm. Le Tacon gọi cận vệ cùng ông ta đi kiểm tra bố phòng lần nữa. Cảnh vật im lìm, không thấy động thái gì ngoài tiếng dế đất ri rỉ kêu trong đám cỏ. Yên tâm nhất là cho đổi mật khẩu gác, không kẻ nào có thể trà trộn được. Nghĩ vậy, Tacon thực hiện ngay.

Trở về phòng nghỉ đã quá khuya.

Quá nửa đêm rồi vẫn yên tĩnh.

Mệt mỏi, Le Tacon để nguyên nai nịt lên giường nằm.

Chưa kịp ấm chỗ thì phía Đồn Dưới lửa cháy rần rật. Tiếng súng, tiếng bom tay nổ hỗn loạn. Tiếng kêu ơi ới. Tiếng thét vang động. Đèn điện tắt ngấm. Đường dây điện thoại bị cắt đứt. Không thể liên lạc được bất cứ đâu.

Le Tacon chạy ra sân đốc thúc binh lính vào vị trí bắn trả. Nhiều vệt đạn xanh lẹt bắn lên phía Đồn Cao. Cả tiếng reo hò tấn công không ngớt. Le Tacon động viên binh lính hãy cố thủ. Đêm tối không biết đâu mà lần. Đợi đến sáng nếu thế yếu thì rút, nếu đủ sức thì phản công.

Lính Lê dương mắt nhắm mắt mở cứ hướng Đồn Dưới nã súng.

Các nghĩa binh sau khi rời Đồi Sơn theo đúng phân công, đã áp sát mục tiêu. Mọi người nằm chờ. Mỗi người ngay phút đầu phải diệt được một địch thủ, đó là yêu cầu phải làm. Đúng hai giờ, sau phát súng lệnh, tất cả đồng loạt xả súng, nổ bom mìn và dùng dáo mác xông vào chém đối phương.

Lính nội ứng mở kho vũ khí cho nghĩa quân. Nghĩa quân ào vào kho, không cần chọn, mỗi người vơ một khẩu súng cùng ít đạn chạy về vị trí chiến đấu được phân công. Tiếng súng liên thanh ràn rạt. Tiếng người chạy huỳnh huỵch xen lẫn tiếng gào khóc thảm thiết của vợ con quan tây lính tây.

Bọn lính trúng đạn kêu ằng ặc. Lính bị thương thì rên la. Có tên lính bị chém tới mười mấy nhát dao.

Bộ phận lính Pháp chốt giữ Đồn Dưới không ai kịp trở tay khi đang ngon giấc ngủ. Nghe rõ tiếng cai Hoằng:

– Tất cả xông lên Đồn Cao! Xông lên Đồn Cao!

Tiếng súng bắn trả chát chúa. Nghĩa quân khựng lại không thể tiến nổi. Đã thêm những nghĩa quân thương vong. Giằng co và bế tắc. Bộ phận do Nguyễn Thị Bắc cầm đầu, phục kích phòng lính Đồn Cao tiếp viện, vẫn tiếp tục nhả đạn lên Đồn Cao.

Gần sáng, cai Hoằng, cai Thuyết cho hợp quân, kiểm điểm quân số, chờ sáng tấn công tiếp..

Trong thị xã Yên Bái, nhân lúc kịch chiến ở Đồn Dưới, Nguyễn Thị Giang đã kịp cho treo cờ các công sở suốt từ nhà ga đến tận nhà dây thép đầu tỉnh. Đó là những lá cờ nửa đỏ nửa vàng, biểu trưng của Độc lập, Tự do.

Mới 6 giờ sáng máy bay Pháp đã tới quần đảo gầm rú trên bầu trời Yên Bái. Chúng xả đạn vô tội vạ xuống thị xã và khu Đồn Dưới.

Cai Hoằng, Cai Thuyết  lệnh rút quân. Nghĩa sĩ nhanh chóng tỏa đi, tốp chạy vào đồi núi, tốp chạy vượt sang sông Hồng. Một số con đò đã đợi sẵn. Qua bên sông đến đất Âu Lâu, Hợp Minh, chạy tuốt vào tận rừng xanh núi đỏ

Lợi dụng máy bay yểm trợ, Le Tacon cho lính Đồn Cao phản kích, xuống đến Đồn Dưới không còn thấy nghĩa quân nào, ngoài mấy xác chết và những người lính bị thương đang quằn quại trong máu. Thu dọn chiến địa, tìm thấy xác của Đại úy Jourdan, Trung úy Robert, Chuẩn úy Cunéo, Thượng sĩ Chevalier, Thượng sĩ Damour, Chuẩn úy Bouhier. Còn Đại úy Gainza, Trung úy Reul, Thượng sĩ Renaudier, Thượng sĩ Rolland, Chuẩn úy Troutoux bị thương nặng. Le Tacon lệnh một phút tưởng nhớ những chiến binh xấu số. Mắt Le Tacon đỏ ngầu, thỉnh thoảng lại lấy mousoa lau kính.

Ở Hà Nội, Thống sứ Bắc Kỳ nhận được bản điện tín số13 lúc 13 giờ 35 phút  ngày 10 tháng 2 năm 1930 của Massini Công sứ Yên Bái báo cáo: “Sự liên lạc bị phá vỡ và cách li với bưu điện. Những kẻ nổi loạn đã trốn về khắp các ngả. Lệnh của Công sứ đã được ban hành để đảm bảo an ninh. Tình hình của tỉnh Yên Bái trở lại bình thường vào lúc 10 giờ15”!

 

*

Trong khi tiếng súng khởi nghĩa Yên Bái đang nổ ra thì theo lịch trình khởi nghĩa, Nguyễn Khắc Nhu cũng trực tiếp chỉ huy tiến công khu đồn binh Hưng Hóa. Đây là khu đồn nằm gần sông Hồng thời bấy giờ, nhằm bảo vệ thị trấn Hưng Hóa, có hầm hào kiên cố và hệ thống công sự, hàng rào bảo vệ liên hoàn, rất khó phá vỡ. Chỉ huy ở đây là viên Đồn trưởng người Pháp đã cho lính cố thủ. Công sở Đại lý hành chính của Công sứ Hưng Hóa bị quân khởi nghĩa tấn công.

Quân khởi nghĩa bị chống trả quyết liệt, không làm sao vượt nổi cổng đồn. Những người lính giác ngộ làm nội ứng bị tình nghi đã phải chuyển đi nơi khác từ mấy hôm trước. Một số nghĩa binh không đến kịp hẹn, cũng đã gây khó khăn cho cuộc tiến công. Sau hơn nửa giờ giao tranh, không chiếm được đồn, Nguyễn Khắc Nhu cho quân khởi nghĩa rút sang sông hợp quân với Phạm Khắc Nhận đánh chiếm thị trấn Lâm Thao.

Quân khởi nghĩa hò hét xông lên, khiến Tri phủ Đỗ Kim Ngọc phải bỏ chạy trốn. Lá cờ nửa đỏ nửa vàng được treo lên nóc phủ đường. Quân khởi nghĩa thu súng ống, đốt kho hồ sơ giấy tờ lưu trữ của dinh phủ.

Làm chủ Lâm Thao đến 10 giờ ngày 10 tháng 2 năm 1930 thì Chauvet, Phó công sứ Hưng Hóa đem quân tới tấn công chiếm lại Lâm Thao. Cuộc giao tranh quyết liệt. Chauvet bị thương nhẹ, vẫn chỉ huy cho lính giao tranh.

Lực lượng và vũ khí chênh lệch, nghĩa quân đã phải rút lui.

Bị truy kích, Nguyễn Khắc Nhu vấp ngã trên luống cày. Để quyết không chịu sa vào tay quân đối phương, Nguyễn Khắc Nhu đã nằm đè lên trái mìn tự tạo giật nổ. Nhưng công phá của trái mìn không đáng kể. Ông bị bắt. Trên đường lính cáng giải về trại giam, ông đã nhảy xuống sông. Lính vớt ông lên, gặp người dắt trâu đi cày, ông lại lao vào đầu trâu, nhưng lính giữ lại.

Đêm ấy, tại nhà giam Hưng Hóa, Nguyễn Khắc Nhu đã tự đập đầu vào tường quyên thân.

Cũng đêm ấy, ở Hà Nội, Đoàn Trần Nghiệp đã cho các nghĩa sĩ cắt hết đường dây điện tín, làm tê liệt hệ thống liên lạc toàn thành phố. Nhóm cảm tử 5 đảng viên ở Trường Bách nghệ là Nguyễn Quang Triêu, Nguyễn Văn Liễm, Nguyễn Duy Xứng, Nguyễn Minh Luân và Nguyễn Bá Tâm đã ném bom vào nhà Chánh mật thám Arnoux, sở Mật thám, sở Sen đầm, trại giam Hỏa Lò, Cảnh sát quận I và quận II, nhưng không gây thiệt hại gì lớn.

Trên cầu Doumer, lúc 12 giờ 40, Phó đội trưởng cảnh sát đô thị Saint Genis đang canh gác, kiểm tra giấy tờ của người đi đường, đã bị người đi trên ô tô bắn hai viên đạn xuyên cánh tay và đùi. Người trai cảm tử ấy là Lương Ngọc Tôn, cảnh binh đang ráo riết truy lùng.

Những tin tức ấy đã đến với Nguyễn Thái Học khi anh vừa tới Dốc Láp – Vĩnh Yên, định đi vào Núi Đinh để gặp một đồng sự. Thế là mọi công phu chuẩn bị cho cuộc chiến đấu một mất một còn đã lỡ dở. Bước đường tới lo tính toán sao đây? Câu hỏi ấy ám ảnh mà chưa sao trả lời.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương XVI

                                               CON ĐƯỜNG CHIẾN BẠI

 

                                                                       Những cơn gió độc

                                                                       Thường đến lúc không ngờ

                                                                       Những bộ mặt hiểm ác

                                                                       Đâu phải dễ nhận ra?

 

Tìm gặp được Nguyễn Đức Trạch, thường gọi Sư Trạch trong hoàn cảnh thật sự bế tắc, Nguyễn Thái Học như được trút những tâm sự cay đắng về những ngày tháng đầy cam go thử thách. Tin tức trên những trang nhật báo về những thất bại của Quân khởi nghĩa như khía mũi dao vào tim Nguyễn Thái Học.

Chỉ một mình trước mặt Sư Trạch mà anh thấy như một cuộc đại kiểm điểm trước bao nhiêu đồng sự, người bị bắt bớ tù đày, người bỏ thân mình nơi chiến địa. Anh thấy mình đã không làm tròn được phận sự, để tổn thất lớn quá. Thần kinh phải vững vàng lắm, không thì rất dễ phát điên.

Là một người hễ đặt mình là ngáy như sấm, vậy mà mấy ngày liền Nguyễn Thái Học không sao chợp mắt được. Sư Trạch động viên:

– Anh Học ạ! Ai mà không đau xót trước hoàn cảnh tang thương của tổ chức chúng ta. Anh cũng nên bình tâm. Cả tổ chức nhìn vào anh. Anh mà đổ gục là ảnh hưởng lắm. Nên nghỉ ngơi lấy lại sức. Anh gầy rộc đi rồi đấy.

– Nhưng mà đau lắm Sư Trạch ơi. Tôi đã suy nghĩ và phân tích tình hình kỹ lắm khi đưa ra quyết định hoãn ngày khởi nghĩa đến 15 tháng 2, để đồng loạt khởi sự cùng với khu vực đông bắc và đồng bằng. Lý do là quân của Nguyễn Thế Nghiệp ở Vân Nam qua Lào Cai chi viện cho Yên Bái chưa thể về kịp. Một số cơ sở trước khi ta động binh đã có xáo trộn, người làm nội ứng cho ta bị chuyển đổi đi nơi khác. Chính vì vậy mà tôi đã viết thư cho Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính cho  lui ngày khởi nghĩa ở Yên Bái, Phú Thọ, Sơn Tây. Nhưng liên lạc đưa thư đã bị bắt, thư không đến tay người nhận. Bây giờ lỡ dở hết. Làm sao tôi chịu nổi. Kẻ thù của chúng ta quá thâm độc. Tôi đã căn dặn liên lạc kỹ càng lắm. Vậy mà vẫn bị lộ. Chắc chắn là có kẻ chỉ điểm.

– Có thể thế lắm. Trong tổ chức chúng ta cũng lắm kẻ dao động bảo mạng. Nhưng sự thể đã thế. Anh cứ nghỉ ngơi đã.

– Nghỉ ngơi sao được? Chúng ta phải bằng mọi cách gấp rút thực hiện kế hoạch tiếp theo. Không thể hoãn tấn công những vị trí đã định và phải bắt mối lại với những ai trong tổ chức còn đang tự do. Rồi sớm muộn phải lo giải thoát cho những người bị bắt đang bị giam ở các nơi.

– Từ nay, tôi sẽ trực tiếp làm vệ sĩ cho anh. Tôi sẽ bảo vệ anh chu đáo.

– Tôi với anh là bạn. Mãi mãi là bạn. Cùng nhau làm việc nghĩa. Đừng phân biệt gì. Anh giúp tôi khi chúng ta lâm vào thế cùng.

Nhớ ngày mới gặp Sư Trạch, anh đã múa bài sáo “Thiết địch Phồn Xương”, Nguyễn Thái Học hỏi:

– Anh vẫn luyện môn võ đó chứ?

– Tôi vẫn luyện. Vẫn mang theo cây sáo đây anh ạ!

 

Vào đúng ngày Nguyễn Thái Học ấn định lui khởi nghĩa vào 15 tháng 2, thực dân Pháp đã đề phòng nên tăng cường phòng thủ, đốc thúc các nơi kiểm soát chặt các ngả, ngăn chặn làn sóng cách mạng và quyết không để ai lọt lưới. Các địa phương Hải Dương, Đáp Cầu, Phả Lại, Ninh Giang, Kiến An, Hải Phòng không nơi nào quân khởi nghĩa động binh nổi.

Khi ấy ở Phụ Dực nghĩa quân nổi dậy đã chiếm được huyện lỵ không mấy khó khăn. Tri huyện Trương Trọng Hiền bỏ trốn. Huyện đường như chỗ không người. Nghĩa quân thu súng ống và cho đốt kho công văn giấy tờ. Tổng đốc Thái Bình Vi Văn Định nổi tiếng tàn ác, trực tiếp đưa lính về lùng sục, khủng bố. Ông ta bắt tất cả dân làng An Dục là nơi căn cứ của nghĩa quân ra hết ngoài đường để nhận mặt những ai tham gia nổi loạn. Hàng chục người bị bắt. Lính phát hỏa đốt làng. Lửa cháy lem lém những ngôi nhà tranh. Chả mấy chốc thành đống tro.

Ở Vĩnh Bảo, Trần Quang Riệu dùng kế rung cây dọa khỉ, phao tin tấn công huyện lỵ, kéo tri huyện Hoàng Gia Mô ra khỏi huyện đường, chạy đến đồn binh Ninh Giang xin quân hỗ trợ. Hoàng Gia Mô vừa đi khỏi huyện, lập tức nghĩa quân chiếm nơi đồn trú của lính canh và văn phòng huyện sở. Khi xe của Hoàng Gia Mô cùng viện binh trở về bị nghĩa quân phục giữa đường, buộc Mô phải trốn vào đống rơm của dân mà không thoát. Cậy là cháu ruột của Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu, nên Mô gây quá nhiều tội ác, chiếm đoạt ruộng đất và hà hiếp dân chúng. Hoàng Gia Mô đã bị Tòa án nhân dân cách mạng xử tử ngay tại chỗ. Lực lượng nghĩa quân rút quân về làng Cổ Am, quê hương của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn trú.

Sáng 16 tháng 2 năm 1930, thực dân Pháp cho 5 phi cơ trút xuống làng Cổ Am 57 trái bom. Lửa cháy rực trời. Cổ Am nhuốm trong máu. Xác người lớn trẻ em, cùng quần áo, nong nia thúng mủng bay tứ tung. Đấy là toàn bộ tin tức Nguyễn Thái Học biết được sau ngày 15 tháng 2. Anh buồn rầu nói với Sư Trạch:

– Thật bi thương Sư Trạch ạ! Tôi như thấy gánh nặng đè trên vai mình. Cơ đồ tan nát. Mọi sự nghiệt ngã đều do tôi gây ra cả. Chỉ vì tình yêu nước non này, yêu dân tộc này, mà tôi dấn thân, nhưng càng ngày càng túng bí.

Sư Trạch chỉ biết an ủi Nguyễn Thái Học:

– “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, anh Học ạ! Có thể đời ta chưa thành thì đời con cháu ta sẽ thành mà anh.

– Dù sao thì chúng ta vẫn còn nợ với đất nước, nợ với những người đã oanh liệt ngã xuống cho Độc lập Tự do của Tổ Quốc. Ta vẫn phải tập hợp những người còn lại để làm trọn bổn phận với tổ chức, với lý tưởng.

– Điều đó thì chúng ta tất phải làm.

– Tôi chắc chắn anh em còn lại đang muốn tìm chúng ta.

– Tôi cũng nghĩ thế.

– Tôi nóng lòng cho Giang quá! Có cô ấy lúc này cũng đỡ cho khối việc.

– Tôi tin sẽ liên lạc được với mọi người.

– Thực ra lúc này, chúng ta chỉ là những kẻ đi trốn. Khốn khổ và nhọc nhằn. Không biết rằng chúng ta sẽ sa lưới lúc nào. May mà hôm trước, khi chưa gặp anh, tôi được dân làng cứu thoát, khi bọn mật thám lùng sát nơi tôi ẩn náu. Không được người cho mượn chiếc nón mê giả làm dân đánh dậm rồi lẩn sang đồng bên kia thì khéo hôm nay đang nằm trong đề lao rồi, Sư Trạch ạ.

Nguyễn Thái Học cùng với Sư Trạch lúc luồn lách trong các ngõ xóm, lúc băng đồng để tìm về vị trí an toàn cuối cùng.

 

*

Thôn Trụ, Lương Tài, Bắc Ninh trong những ngày nước sôi lửa bỏng, mật thám Pháp chưa đặt chân tới. Cuộc đại truy lùng của chúng khắp rừng nhưng không thể khắp búi. Vẫn còn những nơi chúng chưa kiểm soát được hết. Cuộc họp chóng vánh ở đây đã có mặt Nguyễn Thái Học, Sư Trạch, Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Đôn Lâm và Nguyễn Thị Giang. Cuộc họp cũng chỉ bàn cách đối phó trước tình hình ngàn cân treo sợi tóc, như cố vớt vát những gì có thể vớt vát được. Chí ít là những gì còn lại của tổ chức. Giống như lửa đã tắt thì phải giữ lấy bếp than, giữ lấy con bùi nhùi lửa, giữ lấy tro trấu.

Có được cuộc gặp mặt này là nhờ Giang đã đến nhà Lê Hữu Cảnh, để từ đấy lần ra từng đầu mối.

Họ đã bí mật đến Thôn Trụ, vì Giang phán đoán, theo phương án cuối cùng, chừng Học đang ở đó.

Không còn những ý kiến tranh luận hay dở, mà là những lời nói thấm thía của cuộc chiến bại, của những người chiến bại.

Ai cũng nhất trí phải cải tổ đảng, phải thay đổi phương thức đấu tranh.

Nguyễn Xuân Huân phát biểu chính kiến:

– Anh Nguyễn Thái Học là linh hồn của đảng, uy tín của anh rất lớn, vẫn phải đứng mũi chịu sào. Chỉ có điều chúng ta rút vào hoạt động bí mật. Nằm yên, không bạo động ở bất cứ nơi nào, để cứu lấy đảng.

Nguyễn Đôn Lâm nói:

– Chỉnh đốn đảng là chuyện sống chết lúc này. Tôi đồng ý, phải chuyển phương thức đấu tranh. Tập hợp những người tâm huyết với đảng lại, phát triển đảng từng bước, kết nạp đảng viên phải chọn lọc, tránh tình trạng phát triển đảng dễ dãi, tạo cơ hội cho bọn phản động chui vào đảng. Qua cơ sự vừa rồi, tôi thấy ra một điều, không ai phá hoại đảng nhanh bằng chính đảng viên mất phẩm cách trong đảng. Không ai làm tổn thương danh dự của đảng bằng chính những đảng viên bất tài và tham vọng đen tối chui vào đảng.

Nguyễn Thị Giang thì nói:

– Bây giờ cũng nên kiểm điểm lại lực lượng, ai còn ai mất, những người trung kiên còn lại những ai? Bác Nguyễn Khắc Nhu đã hi sinh oanh liệt. Anh Phó Đức Chính thì chưa biết tin tức thế nào. Anh Đoàn Trần Nghiệp vẫn bám trụ với Hà Nội. Còn anh Vũ Văn Giản nghe tin sau khởi sự ở Hải Phòng không thành, đã  vượt lên Vân Đồn sang Tàu rồi.

Lê Hữu Cảnh đề xuất:

– Để bảo toàn lực lượng và tính kế lâu dài, tôi đề nghị anh Nguyễn Thái Học xem có thể hãy lánh sang Tàu một thời gian. Được không? Đợi yên ắng hãy quay trở lại hoạt động tiếp. Bảo vệ anh cũng là bảo vệ sự tồn tại của đảng. Tôi e bọn mật thám bủa vây khắp nơi, ở trong nước khó mà thoát khỏi.

Sư Trạch nói:

– Chúng ta đang trong tình trạng dở đi mắc núi dở lại mắc sông. Mỗi chúng ta hãy bảo toàn lấy tính mạng của mình, để còn lo cho việc lâu dài…

Nguyễn Thái Học chỉ biết ngồi yên lắng nghe. Đôi khi thấy anh thở dài đau đớn. Đến lúc này anh mới ngúc ngắc ho, rồi nói:

– Tôi rất cảm động trước những lời phát biểu của mọi người. Tôi thấy thật là thấm thía. Tôi thành thật xin lỗi về những gì chưa phải với đảng, với anh em. Riêng việc đi sang Tàu thì không thể được. Không thể được! Việc này, trước đây anh Vũ Văn Giản đã khuyên tôi, nhưng tôi đã nghĩ kỹ, không nên. Không thể chỉ đạo phong trào nếu không ở trong phong trào. Tôi sang bên đó rồi sẽ như kẻ mù kẻ điếc vậy. Hơn nữa, tôi không muốn mang tiếng là kẻ bỏ mặc anh em đồng đội, tôi không muốn mọi người coi tôi là kẻ đào tẩu. Bỏ Tổ quốc lúc này là hành vi dao động trốn chạy. Có thể đi trốn để bảo toàn bí mật chứ không thể trốn chạy. Cách làm của anh Vũ Văn Giản cũng là sự trốn chạy. Tôi không tán thành. Riêng anh Lê Hữu Cảnh từ nay sẽ thay nhiệm vụ của anh Phó Đức Chính. Còn anh Nguyễn Xuân Huân, anh Nguyễn Đôn Lâm lo tổ chức lại cơ sở đảng.

Bàn bạc công việc xong, mọi người phân tán, mỗi người đi mỗi ngả.

Lúc ấy Nguyễn Thị Giang mới ôm chầm lấy Nguyễn Thái Học mà nức nở:

– Chị Bắc bị bắt rồi anh ơi! Chị bị mật thám nó phục ở quê Phủ Lạng Thương, khi chị vừa bước tới sân nhà thì chúng ập vào bắt.

– Tội nghiệp chị ấy quá, không hiểu có chịu đựng nổi những đòn tra khảo của quân tàn ác sắp tới không.

– Em tin chị Bắc bản lĩnh lắm. Không đánh gục nổi chị ấy đâu.

– Còn anh với em bây giờ lại phải chia tay nhau, đi gây lại cơ sở thôi.

– Em thương anh quá. Sự nghiệp dở dang mất rồi.

– Anh thương em lắm, gắng giữ sức khỏe, giữ gìn giọt máu của anh. Anh còn phải nhờ cậy em nhiều.

– Mỗi giây phút bên nhau lúc này vô cùng quí giá. Em chẳng muốn rời xa anh. Nhưng nhiệm vụ của con dân nước Việt…

Nguyễn Thái Học thấy mắt vợ đỏ hoe càng thương xót. Anh cố tìm lời động viên, mà cảm thấy câu gì cũng vô nghĩa.

– Thôi gắng lên em ạ! Anh không biết nói với em thế nào! Mỗi giây phút bên nhau bây giờ quý giá lắm! Phải chia ly đến nơi rồi. Nếu anh có mệnh hệ gì thì em nhớ về nói với thầy mẹ là anh đã sống xứng đáng là đứa con hiếu trung.

Nguyễn Thị Giang cũng nghẹn lời:

– Anh ơi, đất nước mình sao khổ đau vậy? Chỉ thấy chia ly và chờ đợi. Nơi thì Tô Thị nơi thì Vọng Phu. Biết bao giờ mới gặp lại anh?

Yêu nhau trong chia ly

Ta nhìn vào mắt nhau

Ta nói một câu thề

Trung trinh cùng đất trời

Anh còn nhớ bài thơ anh tặng em không?

– Anh nhớ, anh nhớ! Bài thơ ấy anh tặng em sau cái đêm ở Đền Hùng.

– Cùng với khẩu súng lục, như vật đính ước!

– Giữ gìn sức khỏe em nhé!

Hai người ghì siết nhau. Không gian như chết lặng.

Không đếm được lần chia tay này là lần thứ bao nhiêu. Chỉ biết đó là chiều ngày 19 tháng 2 năm 1930.

 

*

Sáng sớm 20 tháng 2, từ Thôn Trụ hai người mặc quần áo nâu gánh đôi bồ giả làm thợ mộc đi qua đồn điền Cổ Vịt, giáp chân núi Côn Sơn, Hải Dương, để sang Đông Triều. Đồn điền này của chủ tây tên là Clébert. Dân địa phương và tuần phu ở đây đã được phát ảnh Nguyễn Thái Học để nhận dạng, nếu gặp thì bắt nộp nhà chức trách lấy thưởng. Khi hai người rảo bước qua một nương sắn thì bị mấy người địa phương chặn lại hỏi giấy tờ. Họ không biết chữ nhưng cứ hỏi để dừng chân hai người lại. Một tên giở ảnh trong túi ra đối chiếu, thấy một người quá giống người trong ảnh. Hắn reo: “Đúng Nguyễn Thái Học rồi!”. Chúng yêu cầu hai người vào nhà lý trưởng Định. Thấy tình thế bất lợi, Nguyễn Thái Học hô Sư Trạch chạy. Bọn chúng đuổi theo. Nguyễn Thái Học đành phải nổ lựu đạn, khói bụi bay mù. Mấy người địa phương chạy dạt đi. Lúc ấy, tên Lý Thiềm tay chân của Clébert đang đi tuần kiểm tra đồn điền, thấy động liền nổ súng.

Bọn tuần phu đang chơi bài ăn tiền trong nhà lý trưởng Định thấy súng nổ chạy túa ra, vây lấy Sư Trạch. Buộc lòng Sư Trạch phải ra tay. Môn võ “thiết địch Phồn Xương” của Sư Trạch đã khiến cho mấy tên tuần phu mất mạng. Chẳng khác gì khi thao luyện, cây côn sáo trong tay Sư Trạch vun vút như gió, bọn tuần phu không biết tránh lối nào, liền nằm bẹp xuống. Sư Trạch cương quyết liều thân để bảo vệ Nguyễn Thái Học chạy. Anh xông tới quật tới tấp cây sáo lên đầu mấy tên tuần phu.

Tên Ba Long trong nhà lý trưởng Định cũng chạy ra đuổi theo, bắn Nguyễn Thái Học bị trúng thương . Nguyễn Thái Học rút súng định bắn trả, nhưng chợt nghĩ đằng nào cũng bị bắt nên không bóp cò. Đến như người địa phương còn có ảnh mật thám truy nã anh thì sớm hay muộn chúng cũng truy lùng anh bằng được. Nguyễn Thái Học liền bị trói lại. Lý trưởng Định chạy ra dùng súng bắn Sư Trạch. Vì bất ngờ không kịp tránh, Sư Trạch đã bị trúng một viên đạn vào đùi.

Bị đưa vào nhà lý trưởng Định, Nguyễn Thái Học nói: “Tôi là người vì dân. Làm cách mạng cho dân ta thoát khỏi ách nô lệ lầm than. Thả tôi ra tôi biếu các anh ít tiền”. Nhưng bọn bắt người còn muốn món tiền thưởng quá lớn nên chúng không chấp nhận.

Lát sau, Clébert chủ đồn điền đến bắt tay Nguyễn Thái Học và nói chuyện với Nguyễn Thái Học bằng tiếng Pháp. Nguyễn Thái Học yêu cầu gặp quan sứ Hải Dương, chứ không thèm gặp quan huyện.

Clébert nói:

– Tôi nghe danh ông đã lâu, trong lòng cũng có ngưỡng mộ. Tôi chỉ là một điền chủ thuần túy. Không liên can tới chính trị. Và tôi cũng không muốn liên can đến chính trị. Tôi chỉ muốn yên ổn để làm ăn. Do tối hôm qua ở đồn điền tôi mất trộm, nên tôi mới yêu cầu gia nhân đi tuần bắt trộm. Không ngờ hại đến ông.

– Bây giờ tôi đã sa cơ, ông cứ việc nộp cho mật thám mà lĩnh thưởng.

– Tình thế này, do tuần phu bắt được ông nên tôi cũng không thể làm gì khác được!

Clébert bảo Thiềm cho người cáng Nguyễn Thái Học và Sư Trạch nộp Đồn Ngái.

Trong lúc bị cáng đi dọc đường Nguyễn Thái Học chỉ kịp nói với Sư Trạch:

– Nén đau anh Trạch nhé. Tình thế này rồi sẽ khó gặp nhau. Không ngờ hôm nay lại rủi ro thế!

– Số mình chỉ đến vậy. Trời hại ta rồi! Đành vậy thôi anh Học ơi!

– Mong anh vững lòng.

– Điều đó thì anh yên tâm.

– Nếu chúng tra hỏi cứ nói do tôi xúi giục nhé. Mình tôi chịu là đủ.

– Anh không phải lo điều ấy. Tôi chịu đựng được mà!

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương XVII

                                                    DƯ CHẤN BI HÙNG

 

                                                      Bấy nhiêu năm nấm mộ chôn chung

                                                      Các anh bên nhau như tượng đài trong lòng đất

                                                      Các anh bên nhau trong hơi gió mát

                                                      Cùng vầng trăng khuya khoắt đến nao lòng

 

Nằm trong nhà lao Hỏa Lò, Nguyễn Thái Học nghĩ ngợi mông lung. Đây là thời gian dài và vô vị nhất. Chân tay đều bị cùm kẹp, chỉ còn mỗi cái đầu là được tự do, có gì nữa để mà không nghĩ ngợi?

Hồi mới bị giam ở nhà lao Yên Bái, anh đã viết bức thư gửi Nghị sĩ Hạ Nghị viện Pháp. Chẳng biết thư ấy có đến được tay các ngài Nghị sĩ không? Nhưng nội dung thì Nguyễn Thái Học nhớ như in:

 

“Cùng các ông Nghị!

Tôi ký tên dưới đây là Nguyễn Thái Học người Việt Nam, 26 tuổi, Chủ tịch và sáng lập viên Việt Nam Quốc Dân đảng, hiện đang bị giam ở ngục Yên Bái, Bắc Kỳ, Đông Dương, trân trọng bày tỏ như sau:

Theo công lý, ai cũng có quyền bênh vực Tổ Quốc mình khi bị nước khác xâm lược. Theo nhân đạo, ai cũng có nghĩa vụ phải cứu vãn đồng bào ở trong vòng nguy hiểm, khó khăn.

Như tôi, tôi thấy rằngTổ Quốc tôi bị người Pháp các ông chiếm lĩnh hơn 60 năm nay, tôi thấy rằng dưới ách chuyên chế của các ông, đồng bào tôi khốn khổ vô cùng và dân tộc tôi dần dần sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn theo luật tự nhiên và đào thải. Bởi vậy quyền lợi và nghĩa vụ đã thúc giục tôi phải tìm hết cách để bênh vực Tổ Quốc tôi đương bị người chiếm lĩnh , và dân tộc tôi đương ở trong cảnh gian nguy.

Trước hết tôi định cùng các người Pháp ở Đông Dương mà làm việc cho đồng bào, Tổ Quốc và dân tộc tôi, nhất là việc mở mang trí thức cùng kinh tế. Về phương diện kinh tế, năm 1925 tôi đã gửi cho viên Toàn quyền Varenne một bức thư gồm có những nguyện vọng xin bênh vực, che chở cho nền công thương bản xứ, và nhất là lập một trường Cao đẳng công nghệ ở Bắc Kỳ.

           Năm 1926 tôi lại gửi một bức thư nữa cho viên Toàn quyền Đông Dương, trong đó có một dự án giúp cho dân nghèo có thể dễ sống.

Năm 1927 tôi lại gửi cho Thống sứ Bắc Kỳ một bức thư xin ra một tờ báo, mục đích là bênh vực và khuyến khích cho nền công thương bản xứ.

Về phương diện tri thức, năm1925, tôi đã gửi Toàn quyền Đông Dương yêu cầu:

1- Quyền tự do mở các trường dạy không lấy tiền cho dân hạ cấp đến học, nhất là cho thợ thuyền và nông dân.

           2- Quyền tự do mở các bình dân thư xã ở các làng và các tỉnh công nghệ.

Khốn nỗi cái gì họ cũng cự tuyệt!  Thư tôi chẳng thấy trả lời, dự án của tôi chẳng thấy thực hiện, các lời yêu cầu của tôi chẳng thấy ưng chuẩn, mà đến các bài tôi viết lên báo cũng bị kiểm duyệt xóa bỏ nốt!

Cứ những chuyện cự tuyệt đó, tôi thấy rõ ràng rằng: người Pháp không hề có thực lòng với người Việt, và tôi chẳng giúp ích gì được Tổ Quốc tôi, đồng bào tôi, dân tộc tôi cả, trừ khi là đuổi người Pháp ra khỏi đất nước tôi.

Bởi vậy, năm 1927 tôi bắt đầu tổ chức một đảng cách mạng, lấy tên là Việt Nam Quốc Dân đảng, mục đích là đánh đổ cường quyền áp bức ra khỏi đất nước tôi và lập nên Chính phủ Cộng hòa Việt Nam gồm những người thực lòng tha thiết đến hạnh phúc của quần chúng.

…Hiện nay trong các miền Kiến An, Hải Phòng, Bắc Ninh, Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái có hàng vạn người đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con vô tội bị giết. Hoặc bởi chính phủ dội bom xuống làng, hoặc bởi chết đói chết khát do chính phủ Đông Pháp đã đốt mất nhà mất cửa. Vậy nên tôi trân trọng lấy nước mắt, nhờ các ông làm cho tỏ rõ nỗi bất bình ấy, là cái nó làm cho dân tộc tôi sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt; là cái nó làm mất hết danh dự của nước Pháp; là cái nó làm giảm cả giá trị của loài người!

Sau nữa tôi trân trọng bảo cho các ông biết: Tôi xin chịu tất cả mọi sự chính biến phát sinh trong nước tôi và chỉ huy bởi đảng tôi từ năm 1927 đến giờ! Vậy chỉ cần giết một mình tôi là đủ mà đừng làm tội các người khác hiện nay đương bị giam ở các cửa ngục. Vì chỉ có tôi là thủ phạm thôi, còn những người khác đều vô tội cả. Họ vô tội vì trong số đó thì một phần là những đảng viên nhưng sở dĩ vào đảng là vì họ nghe lời tôi khuyến khích cho họ biết, thế nào là nghĩa vụ của mỗi người dân đối với nước; thế nào là những nỗi khổ của một tên vong quốc nô…

Sau cùng, tôi kết luận bức thư này bằng việc nói với các ông rằng: Nếu người Pháp muốn ở yên Đông Dương mà không phải khốn đốn vì phong trào cách mạng, thì: phải thay đổi cái chương trình chính trị hung tàn và vô đaọ hiện hành ở Đông Dương; phải cư xử cho ra vẻ những người bạn của giòng giống Việt Nam, chứ đừng có lên vẻ là những ông chủ bạo ngược và áp chế; phải để lòng giúp đỡ cho những nỗi đau khổ về tinh thần và vật chất của người Việt Nam, chứ đừng có khắt khe thâm độc nữa.

Thưa các ông nghị, xin hãy nhận lấy tấm lòng tôi trân trọng cảm ơn!

Kẻ thù của các ông!

Nhà cách mạng Nguyễn Thái Học”.

 

Còn thư nữa anh viết cho Toàn quyền Pasquier được gửi đi cùng ngày cũng biệt vô âm tín, không thấy trả lời.

Dòng suy nghĩ gần như không dứt, trừ lúc mệt mỏi ngủ thiếp đi.

 

Nhớ lại hôm Tòa Đề hình ngày 23 tháng 3 năm 1930, xử khép tội những người tham gia khởi nghĩa ở Yên Bái. Kể từ ngày bị bắt, hôm đó Nguyễn Thái Học mới được nhìn lại những đồng sự của mình. Ai cũng hốc hác vì đau ốm, vì những đòn tra khảo tàn khốc. Nhìn nhau chỉ biết gật đầu chào. Không ai nói với ai được câu nào, chỉ ánh mắt là hiểu ý nhau rồi. Tất cả bị còng tay và chân khóa bằng dây xích sắt, cứ hai người một cặp, sáu giờ sáng đã bị giải từ nhà lao qua con đường đá gồ ghề tới tòa án. Những nghĩa sĩ vừa đi vừa chuyện râm ran, cười đùa vui vẻ, không ai tỏ ra sợ hãi. Lính áp giải phải phải quát tháo, giữ trật tự!

Bao nhiêu lần Tòa Đề hình xử những đảng viên Việt Nam Quốc Dân đảng, nhưng đây là phiên tòa xử tới 83 người! Có 45 binh sĩ, 37 thường dân và 1 phụ nữ. Nhiều án tử hình nhất! Có đến 39 người án tử hình! Còn lại là án khổ sai chung thân lưu đày biệt xứ, chỉ có 1 án tù giam 5 năm. Phiên tòa chật cứng người xem, phải hai đội lính khố xanh võ trang dưới quyền chỉ huy của giám binh Cases và rất đông phụ tá là thám tử do thanh tra mật thám Reiner phụ trách. Viên chánh án Poulet Osier phải vất vả lắm mới điều hành nổi phiên toà.

Tên lục sự được lệnh gọi người đầu tiên ra vành móng ngựa, hắn vừa xướng rõ to: Nguyễn Thái Học! Lập tức tiếng trả lời: Có mặt đây! – Làm nghề gì? -Nghề cách mạng! – Tiếng trả lời dõng dạc, khiến bọn quan tòa cũng phải ngơ ngác. Rồi Nguyễn Thái Học đứng phắt dậy, lê bước chân bị xích xủng xoảng. Nhìn thẳng vào viên Chánh thẩm, trả lời từng câu gãy gọn, đanh thép.

Tòa Đề hình thẩm vấn Nguyễn Thái Học. Anh nhận hết trách nhiệm, và nhấn mạnh lý do chính trị của cuộc khởi nghĩa, bị quan toà chặn không cho nói, Nguyễn Thái Học đã lớn tiếng:

– Thì ra, toà án này là nơi đem cường quyền đàn áp công lý. Ta nói làm gì nữa? Ta cũng không cần ai biện hộ!

Nguyễn Thái Học không khỏi nghĩ tới bao chiến hữu đang bị tù đày suốt từ Sơn La, Côn Đảo, đến tận Guyane xa lắc xa lơ. Họ cũng đang phải đối mặt với bất công, đối mặt với cái chết.

Nguyễn Thị Bắc, người phụ nữ duy nhất bị đưa ra xét xử. Trông chị xanh xao, dáng đi thật mệt mỏi. Thương chị quá. Từ chỗ tòa đang xử đến chỗ “trại con gái” mấy tháng trước chị ở, chị đã đưa cho Học và Giang xem tấm bản đồ thị xã Yên Bái, có xa lắm đâu? Chắc chỉ dăm trăm mét thôi. Chỉ khác, hôm đó chị là người tự do. Còn hôm nay, chân xích, tay còng. Chị hãy nhìn sang Học đi, để lấy can đảm. Nhưng không. Nếu nhìn sang Học chị sẽ khóc. Mà khóc lúc này thì thật là không nên. Bỗng thấy chị rành rẽ từng câu:

– Hỡi những người đại diện Tòa Đề hình, đại diện công lý của nước Pháp, nếu xử ta thì hãy về giật đổ tượng thánh nữ Jeanne d’ Arc đi!  Jeanne d’ Arc yêu Tổ quốc Pháp chống ngoại xâm. Ta yêu Tổ quốc Việt Nam chống xâm lược, sao các người lại đem xử?

Quan tòa cúi mặt. Cảm tưởng như chị Bắc mới chính là người xử án.

Lạ, chỉ thẩm vấn có hai người, quan tòa dừng lại, vào phòng trong bàn luận. Mươi phút sau ra cứ thế tuyên án! Thì ra, bản án đã được định sẵn! Không ai bảo ai, tất cả hô lớn: “Đả đảo thực dân! Đả đảo quân dã man!”.

Như thần giao cách cảm, Nguyễn Thái Học thấy gương mặt Giang đang dõi theo anh, lúc này chắc đang khổ đau và đang cố gắng sống để tranh đấu. Anh cầu mong cho Giang vượt qua cơn hoạn nạn và từng giờ từng phút cầu mong cho Giang được an lành. Chiếc khăn thêu với lọn tóc của Giang trong túi ngực anh như đang cựa quậy. Anh cố hình dung đứa con Giang đang có với anh sẽ ra đời thế nào? Rồi đến ngày sinh nở sẽ ra sao? Không chỉ một mình Giang phải chịu đựng hi sinh. Còn nhiều phụ nữ nữa hăng hái tham gia cách mạng không hề tính toán cũng đang phải hi sinh. Như lướt qua mắt anh những gương mặt trẻ trung, hồn hậu và kiên trung của Đỗ Thị Tâm, Nguyễn Thị Tình, Nguyễn Thị Vân…mới mười bảy mười tám tuổi mà chẳng sợ gì cái chết, sẵn sàng tham gia đảng cách mạng. Phụ nữ Việt Nam thật đáng kiêu hãnh!

Anh đau đớn nhớ tới câu Giang nói lúc chia tay: “Đất nước mình sao đau khổ vậy? Chỉ thấy chia ly với chờ đợi. Nơi thì Tô Thị nơi thì Vọng Phu”.

Còn Phó Đức Chính, anh bạn yêu quý đã cùng Nguyễn Khắc Nhu, Nguyễn Thái Học và bao đồng sự kề vai sát cánh trong suốt những ngày gian khó, trẻ trung và thông minh, giờ thân hình tiều tụy thế kia. Giờ này cụ Phó Đức Chân ở quê tận Hưng Yên có hình dung nổi con cụ đang bị đày đọa thế nào? Chợt nhớ ngày được hầu chuyện cụ. Cụ đã đọc câu thơ của Chu Thần Cao Bá Quát:

           “Trường sa phục trường sa

           Nhất bộ nhất hồi khước”

Bãi cát dài lại bãi cát dài. Bước một bước như lùi một bước! Chao ôi! Đường đời thăm thẳm. Lúc này có phải là lúc lùi một bước? Nhưng kìa, khi Poulet Osier hỏi sao không chống án? Phó Đức Chính dõng dạc:

– Tôi không chống án. Việc tôi làm tôi nhận. Đại sự không thành. Chết là vinh. Còn chống án làm chi vô ích!

Nguyễn Thái Học cũng tuyên bố:

– Chúng tôi là những người chiến bại chứ không hề có tội! Các ngài quan tòa thử nghĩ mà xem. Chả lẽ yêu nước mình, chống ngoại xâm lại là tội lỗi?

 

Trong những ngày ở xà lim Hỏa Lò, Nguyễn Thái Học nhiều khi phải tiếp những khách không mời. Khi thì một “bà đầm” hiếu kỳ muốn xem mặt Nguyễn Thái Học ra sao mà dám làm việc tày đình là chống người Pháp, làm chấn động cả xứ Đông Dương, lan sang tận Pháp quốc. Khi thì người đại diện tổ chức “nhân đạo” đến tỏ lòng thương xót, muốn xin ân xá cho tù nhân. Chả biết họ có thực lòng không, nhưng Học vẫn cám ơn. Lúc thì các nhà báo đến hỏi han, chụp hình, ghi ghi chép chép.

Có lần, Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu vào tận xà lim gặp Nguyễn Thái Học. Ông ta là con giai Hoàng Cao Khải, “khâm sai đại thần” của triều đình nhà Nguyễn, một người trung thành với Pháp cao độ. Khi Hoàng Cao Khải giữ chức “kinh lược sứ” đã giúp Pháp bình định khắp các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, tiêu diệt nghiã quân Bãi Sậy, đã cho xử trảm tới 1800 người trong 3 tháng. Công lớn nhất của Hoàng Cao Khải là năm 1893 đã xây được khu dinh thự và lăng mộ ở Thái Hà ấp cho chính ông ta!!! Chả lạ gì Hoàng Trọng Phu, nên Nguyễn Thái Học tỏ thái độ khinh bỉ.

– Gớm, ngài Tổng đốc thân chinh vào tận ngục thất thăm tôi? Hân hạnh quá! Ngài không định bắt tôi khai những điều phản lại đảng tôi đấy chứ?

– Đã bị bắt lại còn giở giọng mỉa mai! Thật điên rồ!

– Tôi điên rồ hay ông điên rồ? Mà nếu tôi không nhầm thì trong tiếng Pháp gọi “phu” (fou) là “rồ” phải không?

– Hỗn láo!

– Này, ông là quan Tổng đốc, ông nên ăn nói cẩn thận.

– Tao lại phải “ăn nói cẩn thận” với mày? Đồ phản nghịch!  Muốn xin ân xá cho mày mà mày ăn nói vô lễ!

– Cám ơn ngài Tổng đốc quá kìa! Nhưng thà chết chứ sao tôi lại phải nhờ loại bám đít Tây như ngài xin ân xá?

– Thằng nhãi ranh, mất dạy! Tao thì vả gẫy răng.

– Này ngài Tổng đốc! Ngài có biết ngài đang nói chuyện với ai không? Ngài đang nói chuyện với Chủ tịch Việt Nam Quốc Dân đảng đấy nhé! Mà Việt Nam Quốc Dân đảng là đối thủ của thực dân Pháp, của Toàn quyễn Đông Dương cơ, chứ ta không phải đối thủ của anh Tổng đốc quèn đâu!

– Tao hỏi, tại sao chúng mày giết Hoàng Gia Mô, cháu ruột tao?

– Hoàng Gia Mô tự giết hắn đấy chứ! Chỉ vì hắn gian ác! Cũng như họ tộc hắn gian ác!

– Mày nói láo! Thằng mất dạy!

– Này ngài Tổng đốc! Ngài tránh xa không nước bọt của tôi không nể mặt ngài đâu!

Nguyễn Thái Học cố tình chọc tức Hoàng Trọng Phu. Anh biết tỏng rằng, các sĩ phu đương thời rất coi thường và khinh miệt Hoàng Cao Khải, cha đẻ ra Hoàng Trọng Phu. Trong cuốn “Việt Nam vong sử quốc”, Phan Bội Châu đã từng gọi Hoàng Cao Khải là “người Việt làm chó săn…những tên côn đồ vô nghĩa vô hạnh, mặt khỉ ruột lợn mà người dân Việt rất ghét”. Thấy Hoàng Trọng Phu vẫn còn chưa bẽ mặt, Nguyễn Thái Học tiếp tục khiêu khích:

– Ngài có biết bài thơ “Vịnh Hoàng Cao Khải” cha của ngài không? Tôi đọc hai câu cho ngài Tổng đốc nghe nhé!

“Nay hạt Hà Đông còn biếu lợn

Mai dân Nam Định lại dâng bò”

Cha của Tổng đốc đó! Có sạch sẽ gì đâu?

Chạm đúng vào sĩ diện của Tổng đốc. Không thể chịu nổi, Hoàng Trọng Phu điên tiết lấy ba toong quật mạnh vào mồm Nguyễn Thái Học. Ông ta gầm lên như thú dữ:

– Câm mồm! Câm mồm!

 

*

Không thể không chạm mặt với Arnoux, Chánh mật thám Bắc Kỳ. Ông ta vẫn được tiếng là người Pháp nói thạo tiếng Việt nhất. Nguyễn Thái Học luôn chuẩn bị trong tư tưởng rằng thế nào cũng có lần đấu khẩu với trùm mật thám xem con người này ra sao. Cũng chả phải chờ lâu, Arnoux xuất hiện trong một buổi sớm, Hỏa Lò đang cho tù nhân dùng bữa sáng.

Nguyễn Thái Học đang uể oải nhai miếng bánh mì dai ngoách. Arnoux kéo ghế bệ vệ ngồi ngay trước mặt Nguyễn Thái Học. Nguyễn Thái Học đồ rằng ông ta chuẩn bị tư thế như vậy cốt tạo ra vẻ oai nghiêm áp đảo đối phương. Arnoux lên tiếng trước:

– Chào ông Nguyễn Thái Học, ông biết tôi là ai không?

– Là ông Tây cướp nước!

– Ồ, người Bắc Kỳ vẫn được tiếng là nói năng lịch lãm, vậy mà sao ông lại dùng những lời cộc cằn với tôi như vậy?

– Đối với thực dân cướp nước như ông, tôi không có cách nói khác!

– Người Pháp đến xứ Annam để khai hóa văn minh, sao ông lại nói chúng tôi là cướp nước?

– Khai hóa văn minh? Người Pháp các ông ưa hài hước thật! Khai hóa hay vơ vét tài nguyên? Văn minh hay ngu dân? Tù đày cướp bóc mà lại gọi là khai hóa văn minh?

– Tôi muốn nói với ông rằng chúng tôi “bần cùng bất đắc dĩ”, “cực chẳng đã” mới phải bắt bớ tù đày. Vì các ông chống lại nhà nước Đại Pháp. Ông hiểu điều đó chứ?

– Chúng tôi không lý gì lại sang Pháp chống nước Pháp. Mà chúng tôi chống những tên thực dân xâm lược trên đất nước tôi.

– Các ông là những tên “già đòn non nhẽ”, ương bướng cục cằn. Ông bị tra tấn có đau đớn lắm không? Mà mồm ông vẫn sưng thế kia!

– Sao ông hỏi ngu xuẩn vậy? Bị tra tấn sao không đau đớn? Tôi đâu có phải là gỗ đá? Còn mồm tôi, bị chó nó cắn, ông biết rồi còn gì?

– Ồ, “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”. Chắc người thân của ông, đồng chí của ông, giờ này cũng đau đớn lắm!

Quả là vốn liếng tiếng Việt của Arnoux không tồi. Hắn dùng những câu ngạn ngữ dân gian Việt khá chuẩn xác để đối đáp. Nguyễn Thái Học trích huyệt kẻ đối địch:

– Các ông là những kẻ tàn ác, quân giết người man rợ!

– Thì các ông cũng giết người chúng tôi đấy thôi?

– Có cuộc cách mạng nào không phải giết người, cách này hay cách khác. Nhưng với chúng tôi không phải đấy là chuyện giết người, mà là trừ khử những tên gieo họa. Là trị cái ác, trị cái họa cho dân nước tôi.

– Thì vẫn là ác, là bẩn thỉu.

– Còn các ông là những con thú, ăn thịt cả lông cả cứt!

– Ông Học, khuyên ông đừng “cả giận mất khôn”.

– Tôi giận ông thì ích gì? Tôi căm ghét cả cái chế độ thực dân thối nát của các ông ấy chứ! Vô cùng thối!

Nguyễn Thái Học không muốn kéo dài cuộc đối thoại lải nhải, nên cố chọc tức để Arnoux phải bỏ cuộc. Quả nhiên Arnoux đùng đùng nổi cơn tức tối:

– Thằng mọi rợ cứng đầu. Tao giết mày! Tao giết mày!

– Arnoux, ngài hãy nên lễ độ một chút!  Tôi không tin cách xử sự như ngài lại là đại diện văn minh của người Pháp!

Arnoux thét lên:

– Đồ…đồ… phiến nghịch! Rồi mày biết tay!

– Tôi biết ngay mà! Trước sau ông vẵn phải bộc lộ tính thú.

Arnoux tím mặt đùng đùng bỏ đi giữa những tiếng cười nhạo báng đuổi theo hắn.

 

*

Kể từ khi thành án, Nguyễn Thái Học luôn bị cùm cả chân cả tay. Lúc nào cũng ngóng tin từ bên ngoài trại giam. Nhưng bọn lính cẩm ma tà canh gác nghiêm ngặt, không tin tức nào lọt qua ngục tối. Lắm lúc Nguyễn Thái Học thực sự thèm khát bạn bè đồng sự. Nguyễn Thái Học tự thán: Ta là con hổ đã sa bẫy! Còn mong gì trở lại rừng xanh! Đã có lần Arnoux bố trí Nguyễn Văn Ngọc, một tên nội phản, được sắm vai thường phạm đến biệt giam của Nguyễn Thái Học dọn vệ sinh, để thăm dò tâm lý, khai thác thêm tin tức.

Nguyễn Văn Ngọc đưa tấm bản đồ thu nhỏ khu vực Hỏa Lò, rồi nói:

– Anh Học ạ, tôi được các anh Cảnh, chị Giang cử liên lạc với anh, bàn cách để anh trốn khỏi đây. Mong anh xem kỹ bản đồ này, rồi ta cùng bàn phương án để giải thoát cho anh!

Nguyễn Thái Học nhìn như thôi miên vào đôi mắt tên Ngọc, rồi nói:

– Tốt thôi! Nhưng ta bàn thế nào?

– Anh Cảnh, chị Giang nói rằng anh viết cho mấy chữ, tôi sẽ có trách nhiệm chuyển thư ra đưa tận tay các anh chị ấy.

– Anh có gì bảo đảm là người liên lạc của tổ chức?

Một thoáng lúng túng, Nguyễn Văn Ngọc nói bừa:

– Lời tuyên thệ!

Chỉ riêng thái độ và cách trả lời của Ngọc, Nguyễn Thái Học nhận ra ngay trò lừa. Nếu là đồng chí cần liên lạc phải bằng tín hiệu được qui ước chứ không thể bằng những lời nói trơn tuột vậy. Biết rằng đây là chiêu cài bẫy của bọn mật thám, để chúng tìm ra nơi các đồng chí còn đang hoạt động chưa bị lộ. Nguyễn Thái Học thản nhiên:

– Được, tôi sẽ chỉ chỗ cho anh dẫn mật thám đến bắt thêm những người đồng chí của tôi đang còn tự do!

Mặt Nguyễn Văn Ngọc tái ngoét.

Nguyễn Thái Học nghiến răng:

– Đồ mạt hạng!

Ít lâu sau Nguyễn Văn Ngọc đã bị những người cùng phòng giam xiết cổ chết, trừ hậu họa.

 

Ở trong ngục tối Hỏa Lò, Nguyễn Thái Học không hề biết rằng có một sự kiện không kém hệ trọng, không kém táo bạo ở bên ngoài đang được thực hiện. Đó là những đảng viên trung kiên của đảng vẫn không ngừng hoạt động.

Lê Hữu Cảnh đã cùng Nguyễn Thị Giang, Đoàn Trần Nghiệp, Nguyễn Xuân Huân, Đỗ Thị Tâm nhóm họp nhau đề ra chủ trương hoạt động mới.

Phải mất chừng vài ngày Lê Hữu Cảnh với Nguyễn Thị Giang mới soạn thảo xong kế hoạch “hậu Yên Bái”. Kế hoạch này được thông qua các đảng viên nòng cốt, có trách nhiệm trực tiếp thi hành. Nguyễn Thị Giang phân tích:

– Mọi tội ác gây ra trên đất nước Việt Nam đều tập trung ở Toàn quyền Đông Dương, cho nên diệt được viên Toàn quyền sẽ khiến cho hệ thống cai trị nao núng, không dám ra tay đàn áp những người yêu nước.

Do lực lượng còn quá mỏng, không đủ sức làm nhiều việc, nên chỉ tập trung vào hai việc chính:

Một là tổ chức ám sát Toàn quyền Pasquier.

Hai tổ chức giải thoát cho các tù nhân đang bị giam giữ ở Hỏa Lò.

Việc ám sát Pasquier giao cho anh Tô Chấn, người rất quả cảm, anh trai của Tô Hiệu đảm nhiệm.

Việc giải thoát các tù nhân Hỏa Lò do Đoàn Trần Nghiệp và Nguyễn Thị Giang thực hiện.

Tô Chấn sẽ nhân ngày duyệt binh 14 tháng 7, có nhiệm vụ ôm bom cảm tử lao vào xe của Pasquier. Nhưng Tô Chấn chưa kịp thực hiện đã bị bắt. Còn việc giải thoát tù nhân ở Hỏa Lò cũng không thành. Mật thám tăng cường kiểm soát và lùng bắt nốt những người chúng tình nghi. Trong sổ đen của mật thám có tên các anh Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, Ký Con Đoàn Trần Nghiệp và Nguyễn Văn Nho. Các anh tạm lánh xuống Hải Phòng. Nhưng vừa tới nơi thì bị mật thám phục bắt. Đoàn Trần Nghiệp thoát chạy về Nam Định cũng bị chỉ điểm, không còn lối thoát. Chỉ còn Nguyễn Thị Giang, Đỗ Thị Tâm vẫn được dân che chở, mật thám chưa phát hiện thấy ở đâu.

Khi Đoàn Trần Nghiệp, Lê Hữu Cảnh bị đưa vào Hỏa Lò, Nguyễn Thái Học mới biết được tin này. Anh ngửa mặt lên kêu: “Thôi rồi!”

 

*

Chiều ngày 16 tháng 6 năm 1930.

Hỏa Lò xôn xao vì có 13 tù nhân bị dồn lên xe bịt kín, không biết đưa đi đâu? Cứ hai người chung một xích. Có một người bị xích riêng, đó là Nguyễn Thái Học. Chắc hẳn không phải chuyện di chuyển tù. Nhác trông thấy chiếc máy chém cũng được chở đi theo, Nguyễn Thái Học liền hô to:

– Chào anh em! Chúng tôi đi đền nợ nước! Chào anh em!

– Đả đảo thực dân! Đả đảo nhà tù!

– Không được giết người! Đả đảo quân giết người!

Tiếng hô râm ran, náo động cả trại giam.

Một đoàn xe hơi loại fourgonnette đen bọc lưới sắt từ ngục thất Hoả Lò  chạy theo đường Jean Soler qua đại lộ Carreau ra Hàng Lọng đến ga Hàng Cỏ. Trên đường, lính kín, cảnh binh và lính lê dương nhan nhản. Tiếng hô của hàng trăm người hai bên đường âm vang, hoà theo tiếng hô từ trên xe: Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!

Đoán thực dân Pháp đưa tù nhân đi hành quyết, dân Hà Nội truyền tin rất nhanh, mọi người tập trung đông nghịt suốt từ nhà Đấu Xảo ra tận ga Hàng Cỏ, hô khẩu hiệu đòi trả tự do cho các tù nhân. Cảnh binh, mật thám và lê dương phải ra tay bằng dùi cui khá lâu mới dẹp nổi những người dân phẫn nộ.

Tù nhân được tức tốc đưa lên toa tàu “đặc biệt” có mật thám, cảnh binh hộ tống. Còn có cả cố đạo Méchet và Dronet đi theo “chăm sóc phần hồn”! Ngay bên cạnh toa chở chiếc máy chém, sản phẩm của văn minh Pháp thời bấy giờ.

Lúc ấy, Nguyễn Thái Học và anh em tù nhân mới biết mình bị chuyển lên Yên Bái để sớm mai ra pháp trường.

Phó Đức Chính nói to, át cả tiếng bánh sắt toa tàu bập bình, cành cạch: “Hát lên đi các anh! Chẳng tội gì chúng ta phải buồn! Hát lên! Hát lên!”. Mọi người hưởng ứng. Tiếng hát trong đêm tối mịt mù vang vọng tận triền sông Hồng khuya vắng.

Ngàn lau vi vu ngàn lau vi vu

Hồn Việt Nam muôn đời. Hồn Việt Nam muôn đời, cất lên lời ca

Ôi con đường của chúng ta

Gian nan trải dài qua năm tháng

Qua bao thác ghềnh bão táp phong ba

Bóng cờ vinh quang chỉ lối. Ta đi

Cố đạo Dronet phải thốt lên: “Các anh còn hát được ư? Ôi những linh hồn trẻ trung chưa biết sợ?”.

Phó Đức Chính nói luôn:

– Nếu sợ thì chúng tôi đã không làm cách mạng!

Cố đạo Dronet vẫn còn nói vớt vát:

– Thật tội nghiệp! Lạy chúa!

Phó Đức Chính khẳng khái:

– Chính các ông mới tội nghiệp! Phải theo nhằng nhẵng chúng tôi làm gì? Chúng tôi không khiến các ông rửa tội!

Anh em tù lại sôi nổi:

– Không còn bài hát nào nữa thì đọc thơ đi! Đọc! Đọc!

Nguyễn Thái Học trịnh trọng:

– Vậy tôi đọc thơ nhé!

Bấy lâu mơ ước đoạn đầu đài

Như nguyện ngày nay thật chẳng sai

Máu nhỏ tốt tươi mầm cách mạng

Đầu rơi nảy nở giống anh tài…

– Đúng! Đúng! Đầu ta rơi sẽ mọc lên những mầm mống cách mạng mới.

Phó Đức Chính hài hước:

– Lúc này ở Yên Bái các anh Hoằng, Thuyết, Tiệp, Lương đang đón chúng ta ở sân ga đó! Tiễng cười rộ lên rồi lắng dần.trong tịch mịch.

Quá khuya, chỉ còn tiếng bánh sắt nghiến lên đường ray đều đều, tên lính áp giải ngồi sát cửa toa tầu, ngáp dài, miệng lẩm bẩm:

– Bây giờ mới đền Vĩnh Yên, còn phải ngồi chán mới đến được Yên Bái.

Bị xích chân xích tay, không thể nhìn được ra ngoài, nhưng Nguyễn Thái Học có thể hình dung từng mái nhà, từng con đường trong lòng thị xã. Nơi này hơn chục năm trước anh đã được cha mẹ cho đi học trường Pháp – Việt, có con đường nào trong thị xã không có dấu chân anh? Những lúc theo đám bạn thị xã trèo lấy nhãn, bắt chim non ở toà Công sứ trên núi An Sơn, rồi những khi qua Dốc Láp vào tận Tam Đảo chơi đùa nghịch ngợm thoả thích hết cả ngày với bạn bè. Thị xã Vĩnh Yên xinh xắn, nằm thơ mộng ngay bên Đầm Vạc, nơi có loại tép dầu rất rẻ và ngon nức tiếng, đã được ghi nhận trong câu ví ngoa ngôn “cỗ chín lợn mười trâu không ngon bằng tép dầu Đầm Vạc”! Chính nơi này, khi nhà trường bắt phải làm bài nói về sự nghiệp của Jules Ferry, Nguyễn Thái Học đã viết câu “Người Việt Nam không hề biết người này”, bị nhà trường phê là trò Thái Học “bướng bỉnh”, bị đuổi học một tuần lễ.

Chỉ còn hơn một chục cây số là đến đường rẽ vào làng Thổ Tang, nơi chôn rau cắt rốn của Nguyễn Thái Học, chắc chắn là mọi người ở quê không hề biết được mỗi giây lúc này là Học mỗi xa, để đi đến cái chết. Cha mẹ giờ đã ngủ hay còn thức? Cha mẹ có thấy nóng lòng, có thấy bồn chồn nhớ đến con?

Nhìn tên lính áp giải gà gật, Nguyễn Thái Học bảo:

– Này chú lính, tỉnh táo lên chứ! Gác tù mà ngủ gà gật không sợ phạt à?

Tên lính giật mình choàng tỉnh:

– Gớm, gác sách liên miên, buồn ngủ quá!

– Thế chú lính quê ở đâu?

– Quê Phát Diệm!

– Nói đôi ba câu chuyện là hết buồn ngủ đấy!

– Ngày mai ông phải ra pháp trường rồi mà sao vẫn bình thản vậy? Ông không biết sợ à?

– Sợ thì có tránh được chết đâu, chú em?

–  Trời ơi, gang thép quá! Khâm phục, khâm phục!

– Tôi hi vọng đến một lúc nào đó, chú sẽ cầm khẩu súng bắn vào chính những kẻ giao súng vào tay chú. Đó là bọn thực dân Pháp dày xéo nước ta, khiến bao nhiêu đầu rơi máu chảy.

– Tôi chưa dám…

– Dù sao tôi với chú cũng là dân cùng một nước, cùng da vàng máu đỏ. Hôm nay chú chưa đủ can đảm cầm súng bắn vào đầu Tây. Thì đến một lúc nào đó, vì non sông gấm vóc, chú sẽ thấy cần phải đuổi Tây về tây, dân ta mới hết cảnh sống nô lệ.

Tàu đi hun hút vào đêm. Thi thoảng một tiếng còi tru lên như tiếng thú âm vọng trong không gian.

1 giờ 30 sáng 17- 6, tầu đến ga chặng cuối. Máy chém và 13 tử tù được chở thẳng tới đề lao, cách bờ sông một mặt đường, lối lên nhà thờ Yên Bái.

 

*

Đang ở nơi rất gần Hỏa Lò để bàn bạc với chị em cơ sở Hà Nội lên phương án đánh tháo tù nhân vào dịp Quốc khánh Pháp 14 tháng 7, thì nghe tiếng huyên náo trong Hỏa Lò. Nhờ thế mà Giang biết tin Pháp đem tù nhân đi xử chém ở Yên Bái. Nguyễn Thị Giang tá hỏa chạy ra ga. Giang được một đảng viên cơ sở hỏa xa bí mật giao cho tài xế cũng là người của tổ chức, giấu Giang vào kho than đốt lò đầu máy.

Nằm bên trong đống than ngột ngạt, Giang chỉ nghĩ tới Học và các đồng sự của anh. Cùng trên một chuyến tàu, chỉ cách một toa chở máy chém là có thể nhìn thấy các anh. Thế mà phải nằm ép mình lại, che chắn bởi mấy chiếc bao tải nhọ nhem. Hơi than hừng hực. Mồ hôi túa ra, Giang vẫn cố chịu đựng. Khẩu súng ngắn của Học vẫn bên mình. Mang thêm hai trái mìn tay tự chế. Ngày mai, giữa pháp trường mình sẽ liều chết giải thoát cho Học. Giang tâm niệm như thế.

Cách một toa tầu, làm sao Học có thể biết được Giang cũng đang lên Yên Bái đây. Ngày mai thân cô thế cô, làm sao tiếp cận được pháp trường? Hàng ngàn câu hỏi đảo lộn trong đầu Giang. Nóng ngột ngạt. Lại nóng nực thêm bởi  tấm áo khoác, để ngày mai còn cải trang làm đàn ông trà trộn vào những người xem hành quyết.

Nguyễn Thị Giang lật đật lẩn vào bóng tối phía sau ga Yên Bái, rồi lần theo đường tàu, lên quá gác ghi, rẽ ra phía vườn hoa nhà kèn. Địa bàn này Giang quá thuộc. Nhắm mắt vẫn hình dung ra. Bước chân Giang dò dẫm trên đá gồ ghề. Giang tìm đến nhà cơ sở để bàn cách cứu Nguyễn Thái Học.

 

Trong đề lao Yên Bái các tù nhân bị nhốt chung một gian nhà. Cai Công đao phủ, dáng lùn tịt, mặt lúc nào cũng tây tấy, mò đến bên các tù nhân. Trước Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính thì Công dừng lại. Cử chỉ rất lạ, đã từng giật máy chém, chém bao nhiêu người, cai Công chưa làm thế bao giờ. Hắn cảm thấy như có gì cào cấu trong ruột, mồ hôi rịn ướt trên da mặt sẫm từng vệt tàn nhang, tay chân nhức nhối như dòi bò. Hắn đã nốc bao nhiêu rượu để có quên cảm giác ghê rợn. Tự dưng hắn quỳ phục xuống trước mặt Nguyễn Thái Học, khóc rưng rức.  Hắn nói:

– Mong các ông xá tội cho. Các ông chết trẻ sẽ thiêng lắm. Tôi biết tôi trọng tội, nhưng vì miếng cơm manh áo, tôi phải làm theo phận sự. Xin các ông mở lượng hải hà khoan lượng.

Nguyễn Thái Học khuyên:

– Ông Cai Công ạ! Nghề này thất đức lắm. Ông nên giải nghệ đi. Nếu có thiêng liêng thật, chúng tôi cũng không thèm chấp với ông đâu. Ông cũng chỉ là cái máy bên cái máy chém. Giải nghệ đi kẻo tội lỗi chất chồng tội lỗi, xuống âm phủ Diêm Vương cũng không chấp nhận ông đâu!

Cai Công ấp úng nói: “vâng”, và cứ thế quỳ trước Nguyễn Thái Học đến tận lúc bọn cai nhà lao lục tục thúc giục tù nhân ra pháp trường.

5 giờ 5 phút ngày 17 tháng 6 năm 1930, bốn trăm cảnh binh, cảnh sát, mật thám và lê dương đã giăng ra bảo vệ khu hành quyết tù nhân. Không cho bất cứ ai lọt vào trừ những người làm phận sự. Pháp trường dựng ở bãi lính tập, trước khu nhà thờ, có hàng cây bàng và cây báng súng bao quanh. Đối diện với mấy ngôi nhà gạch mới xây.

Chiếc máy chém đen sì được đặt trên bãi cỏ. Nó vừa có chức năng chém người lại có chức năng dọa người. Lưỡi máy chém xám xịt được kéo lên theo rãnh trượt. Tử tù phải nằm trên một tấm ván, cổ bị gông lại. Chỉ cần giật nút hãm là lưỡi dao rơi tự do phập xuống. Ai yếu bóng vía chỉ trông hoặc nghe tiếng phập nhanh như thái chuối là đủ chết ngất hoặc vãi nước đái ra quần. Trong mọi cách hành hình thì đây là cách hành hình “văn minh man rợ” nhất. Nó lạnh lùng khủng bố tinh thần. Nó trấn áp, nó tra tấn thần kinh con người.

Trên đoạn đường trải đá bên cạnh pháp trường là dăm bảy chiếc xe bò chờ sẵn để chở xác người đi chôn.

Bãi bên, xếp 15 chiếc quan tài. Thấy lạ, nhà báo Louis Roubaud hỏi viên chánh cẩm:

– Sao xử chém 13 người mà lại có những 15 quan tài?

Hắn trả lời:

– Để đề phòng có người sợ quá vỡ tim mà chết tại chỗ! Tình huống này rất dễ xảy ra.

Lần lượt 13 nghĩa sĩ lên đoạn đầu đài. Tất cả đều bình thản bước tới theo danh sách được gọi tên. Tất cả đều khước từ cố đạo rửa tội. Trước khi lưỡi dao máy chém phập xuống, ai cũng hô to:’Việt Nam vạn tuế!”. Tiếng hô khản đặc đủ vang tới tường nhà thờ dội ra đường phố Yên Bái. Dòng máu phun trào từ cổ mỗi người đã đứt lìa, tia máu bắn xa hàng chục mét.

Nguyễn Thái Học phải đứng đó để chứng kiến lần lượt từng người văng đầu trên máy chém. Phó Đức Chính là người thứ 12 lên đoạn đầu đài. Cố đạo Méchet hỏi anh: “Cậu chết trẻ vậy có ân hận không?”. Phó Đức Chính trả lời thản nhiên: “Ở đời, mong làm lấy một việc lớn mà việc ấy không thành thì chết có gì ân hận”! Anh nói lớn: “Cho ta nằm ngửa để ta nhìn lưỡi dao tội ác của người Pháp”. Nhiều người ngoảnh mặt đi không dám ngó. Nhiều người lấy khăn lén lau nước mắt. Méchet thốt lên :”Anh ta mới ngoài hai mươi tuổi, ghê gớm!”.

Đến lượt Nguyễn Thái Học. Anh ngậm điếu xì gà thật to. Gọi đến tên, anh phì điếu thuốc ra khỏi miệng, thong thả bước tới máy chém. Anh đọc câu thơ bằng tiếng Pháp:

Mourir pour sa patrie

C’est le sort le plus beau

La plus digne d’envie

Chết cho đất nước của mình

Là cái chết đẹp nhất

Thanh thản tuyệt vời nhất      

Anh hô lớn: “Việt Nam vạn tuế! Việt Nam vạn tuế!”

Chiếc gông đã khớp vào cổ anh. Tiếng hô: “Việt Nam…” bị đứt đoạn. Đầu anh văng ra, cơ miệng anh theo quán tính còn mấp máy một thoáng.

Phía dân chúng đứng xem bỗng vang lên tiếng hô: “Đả đảo thực dân Pháp dã man!”. Những tiếng phụ họa “đả đảo, đả đảo” ầm ầm, buộc đám cảnh binh phải dùng tới dùi cui.

Viên công sứ De Bottini giơ tay xem đồng hồ. Đầu Nguyễn Thái Học rơi khỏi cổ lúc 5 giờ 35 phút, ngày 17 tháng 6 năm 1930 tức 21 tháng 5 Canh Ngọ.

 

Ký giả Roubaud đến từ Pháp, chứng kiến cuộc hành quyết đã viết: “Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam! Quê hương phương Nam! Tôi nghe thấy mười ba lần hô lên như vậy, mười ba người bị kết án tử hình đã thốt ra từ miệng kẻ này đến người kia, cách nhau hai thước trên dàn máy chém ở Yên Bái”.

 

Đứng ở rõ xa, Nguyễn Thị Giang trong bộ ria mép, chiếc kính dâm và quần áo cải trang. Cảnh binh ngăn không sao đến gần hơn để Giang thực hiện ý định liều mình cứu chồng. Hai quả mìn tay tự tạo và khẩu súng lục Nguyễn Thái Học tặng nóng bỏng trong chiếc túi bên người. Định lao vào đám lính thì không được. Nổ bom tay tại chỗ thì chết dân. Không thể nào cứu được anh rồi, anh Học ơi! Anh có biết Giang đã đến tận nơi pháp trường nguy hiểm này để nhìn thấy anh trong nỗi tuyệt vọng không? Thôi thế là bái biệt! Vong linh anh hãy theo em về quê nhé!

Giờ phải làm việc gì đó để đền đáp với anh đây. Rối trí quá. Cắn chặt răng lại kìm nén giọt nước mắt mà nước mắt Giang cứ ứa ra. Hai chân cứ chực khụy xuống, phải gắng gượng mới bước đi nổi.

 

Hàng chục chiếc xe bò chở xác tù nhân dọc theo đường bờ sông. Nguyễn Thị Giang chỉ biết đứng từ xa mà nhìn. Đoàn xe chở xác đến sau nghĩa địa thường dân, ở trong đoạn khuất nẻo um tùm rừng nứa để chôn chung cả 13 người vào một huyệt. Ở đó trước đã có 4 nghĩa sĩ một mồ chung: Ngô Hải Hoằng, Nguyễn Thanh Thuyết, Đặng Văn Lương, Đặng Văn Tiệp bị xử trảm ngày 8 tháng 5 năm 1930. Mộ các anh bị san phẳng, không có nấm, chỉ có thể nhận ra bằng một khoang đất mới lấp, cỏ vẫn chưa kịp mọc.

 

*

Về nhà trọ, mà hình ảnh của Nguyễn Thái Học cứ hiện lên mồn một. Nỗi mất mát người thân như khoảng trống lớn, không có thể gì bù lấp. Giờ này chắc chắn ở Thổ Tang chưa ai biết về cái chết của Nguyễn Thái Học. Cái thai nhi trong bụng Giang thi thoảng lại đạp nhoi nhói. Giang nén nước mắt để viết hai bức thư tuyệt mệnh. Một bức gửi thầy mẹ Nguyễn Thái Học, bức nữa gửi linh hồn Nguyễn Thái Học.

Thư thứ nhất:

Thưa thầy mẹ!

Con chết là vì hoàn cảnh đã bó buộc, con không được báo thù cho nhà, cứu được nhục cho nước! Sau khi đã đem tấm lòng trinh bạch dâng cho chồng con ở Đền Hùng, giờ con tìm về chỗ quê cha đất tổ, mượn phát súng này mà kết liễu đời con.

Đứa con dâu thất hiếu kính lạy.

Bức thứ hai:

Anh đã là người yêu nước, không làm trọn được nghĩa vụ cứu nước. Anh giữ lấy tinh thần cao cả để về dưới suối vàng chiêu binh, rèn súng đánh đuổi quân thù.

Phải chịu đựng nhục nhã mới mong có ngày vẻ vang. Các bạn đồng chí còn sống lại sau anh phải phấn đấu thay anh, để đánh đuổi cường quyền mà cứu đồng bào đau khổ.

Thân không giúp ích cho đời

Thù không trả được cho người tình chung

Dẫu rằng đang độ trẻ trung

Quyết vì dân chúng thề lòng hi sinh

Con đường tiến bộ mông mênh

Éo le hoàn cảnh buộc mình biết sao!

Bây giờ hết kiếp thơ đào

Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây

Dẫu rằng chút phận thơ ngây

Sổ đồng chí đã có ngày ghi tên

Chết đi dạ những buồn phiền

Nhưng mà hoàn cảnh truân chuyên buộc mình

Quốc kỳ phấp phới trên thành

Tủi thân không được chết vinh dưới cờ

Cực lòng lỡ bước sa cơ

Chết sầu chết thảm có thừa xót xa

Thế ru, đời thế ru mà

Đời mà ai biết, người mà ai hay.

Viết xong hai thư tuyệt mệnh, Nguyễn Thị Giang ra tàu xuôi về Bạch Hạc, rồi đi bộ về Thổ Tang, báo tin cho gia đình biết Nguyễn Thái Học đã bị xử chém tại Yên Bái. Bà Quỳnh nghe tin con bị hành hình đã ngất xỉu. Bà ngã vật xuống bên thềm nhà, đau xót quá không thể thốt lên được lời nào. Ông Hách thì kêu trời: “con tôi chết dưới lưỡi máy chém rồi ư, sao lại có quân tàn ác vậy?”

Xin phép thắp hương ban thờ tổ tiên xong, Nguyễn Thị Giang quỳ lạy thầy mẹ chồng rồi đi ngay. Giang không quên ra Miếu Trúc khấn lạy hồn thiêng thánh Mẫu và Lân Hổ. Người phụ nữ xổ dài mái tóc cuốn khăn trắng tất tưởi đi về phía đường cái quan. Không còn nước mắt để khóc. Gió giữa đồng lồng lộng như giật chiếc khăn tang trên mái tóc Giang.

Ra tới quán nước gốc đa, nơi ghi dấu mối tình sử không quên. Bỗng một luồng khí lạnh sau gáy, khiến Giang rùng mình nhớ lại câu nói của Nguyễn Thái Học lần đầu đưa Giang đến nơi này: “Nếu có chết, cũng về làng để chết!”. Nguyễn Thị Giang khẽ kêu: “Nguyễn Thái Học ơi! Em đi với anh đây!” Rồi rút khẩu súng Nguyễn Thái Học tặng đưa lên trái tim xiết cò.

Được báo, nhà chức trách về ngay hiện trường. Công sứ Vĩnh Yên, tri phủ Vĩnh Tường, không cho an táng ngay, yêu cầu Cẩm Riner điện xin ý kiến chánh mật thám Arnoux. Arnoux cho người từ Hà Nội lên nhận dạng, đúng là Nguyễn Thị Giang mới được phép chôn. Thi thể Nguyễn Thị Giang nằm phơi bên đường đến hai ngày hôm sau, Công sứ Pháp ở Vĩnh Yên mới cho phép tuần đinh đem chôn ở thửa ruộng công điền, gần đường vào Thổ Tang

 

 

 

Chương XVIII

                                               VÁN CỜ VÃN CUỘC

 

                                                                       Ván cờ tàn ván cờ tàn

                                                                       Quân lăn lóc mã pháo xe vô dụng

                                                                       Bàn cờ lặng câm

                                                                       Chờ bày những ván sau

 

Nằm trong Hỏa Lò, Lê Hữu Cảnh không sao liên hệ được với Đoàn Trần Nghiệp và các đồng chí khác, không thể nào trao đổi tin tức với nhau. Cùng bị giam giữ một nơi, chỉ cách qua những gian phòng giam mà chẳng làm sao nhìn thấy mặt nhau. Nghĩ tới Nguyễn Thái Học và các bạn đã lên đoạn đầu đài mà lòng vô cùng thương xót. Thế là các anh ấy đã đền nợ nước được 55 ngày rồi. Hôm nay Hỏa Lò mới mở cửa, không phải đưa tù nhân ra sân hưởng chút không khí trong lành, mà là đưa đi để Tòa Đề hình Hà Nội xử án!

Lê Hữu Cảnh nghĩ mông lung về các đồng chí của mình trong những ngày trong xà lim. Nhiều người bị bắt quá. Cùng cảnh tù đày mới biết mặt nhau. Mới hôm trước Thẩm Chi còn bí mật truyền vào tay Lê Hữu Cảnh mảnh giấy có bài thơ “Hỏa Lò oán” của chính tác giả. Bây giờ Vũ Văn Cảo lại đọc to bài thơ “Xà lim oán” trước mặt bọn cai ngục. Thế mới hiểu: thể xac có thể bị giam hãm, nhưng làm sao giam hãm được ý chí con người? Hiên ngang quá! Hiên ngang quá! Còn mình, làm gì biểu hiện khí phách trước lũ cướp nước đây?

Từ khi phát hiện ra ý định đánh tháo cho các tù nhân ở Hỏa Lò, mật thám càng siết chặt sự kiểm soát, đề phòng, canh phòng bằng mọi cách. Những người chúng cho là nguy hiểm thường bị giám sát suốt 24 giờ trong ngày. Lúc mới bị bắt, chúng chỉ cùm hai chân. Còn bây giờ, chúng xích thêm cả hai tay nữa. Ngồi trong ngục tối, không biết cựa quậy cách nào cho khỏi mỏi. Lê Hữu Cảnh rùng mình khi nghĩ tới cảnh tượng những bức ảnh trước đây Pháp triển lãm ở các điếm thông tin bờ hồ về những nghĩa sĩ khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Yên Thế, bị bắt hàng loạt, cùm tay, cùm chân, đeo gông to tướng lên cổ. Rồi cảnh những chiếc đầu lâu của nghĩa sĩ bị chém đặt trong rọ, bêu lên giữa chợ. Lê Hữu Cảnh càng sốt ruột, không hiểu nhóm hạt nhân mới gây dựng ở trên đất Hà Nội hoạt động ra sao? Có còn hoạt động không? Hay cũng đã bị sa lưới mật thám?

Đúng là đã 55 ngày, kể từ khi thực dân Pháp xử chém Nguyễn Thái Học, thì Tòa Đề hình Hà Nội đưa thêm 144 người ra xử! Hôm nay Lê Hữu Cảnh mới lại nhìn thấy Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Quang Triều, Đoàn Trần Nghiệp, Lương Ngọc Tôn…Các anh vàng võ trong tấm áo tù đánh số. Nguyễn Văn Nho số 126, Nguyễn Quang Triều số 106, Đoàn Trần Nghiệp số 123, Lương Ngọc Tôn số 127…Phiên tòa tẻ ngắt, áp đặt của kẻ mạnh. Không ai thèm chống án. Không luật sư. Không tranh cãi. Dân chúng đến xem, giữa chừng đều bỏ về.

Lập tức báo Tiếng Dân đưa tin: Phiên xử ngày 9 tháng 8 năm 1930, tòa Đề hình Hà Nội tuyên xử: 12 án tử hình, 11 án khổ sai chung thân, 114 án đi đày chung thân, 4 án 20 năm khổ sai cộng 20 năm biệt xứ và 3 án 10 năm tội đồ cộng 20 năm biệt xứ!

*

Phải năm lần bảy lượt hẹn hò, rồi cuối cùng Chánh mật thám Arnoux mới cho phép nhà báo Louis Roubaud được gặp Đoàn Trần Nghiệp. Chuyện xử án họ giấu giếm như mèo giấu cứt. Ấy thế mà Arnoux còn cố kể công với nhà báo Roubaud rằng, ông là nhà báo đặc biệt của Pháp quốc nên mới được phép gặp tù nhân, chứ các nhà báo Annam có ai được đặc ân đó! Cho nên, khi được giấy phép vào xà lim án chém gặp tù nhân là Roubaud hăng hái đi ngay, chỉ lo Arnoux đổi ý.

Roubaud chuẩn bị cho mình một thái độ thân mật, thật sự chân tình, thật sự bình đẳng, để “khai thác” những suy nghĩ của nhà cách mạng trẻ tuổi xứ Annam. Không làm được điều đó hẳn sẽ vô cùng hổ danh người được mang tiếng là nhà báo quốc tế!

Chờ sẵn ở phòng giám quản, một lúc mới thấy hai tên giám binh sốc nách kèm tù nhân đưa đến. Ngoài cổng Hỏa Lò vẫn lảng vảng mật thám và lính mã tà đi đi lại lại canh chừng.

Arnoux ngồi kèm một bên.

Kẻ tử tù được đưa đến là Đoàn Trần Nghiệp, tên cách mạng gọi Hiệp Sơn, là thư ký, người nhỏ nhắn nên mọi người quen gọi Ký Con. Roubaud thì gọi anh là người- thư- ký- nhỏ.

Người ta bảo, Arnoux giữ vai trò điều khiển công an Pháp, nhưng Ký Con mới là người điều khiển đích thực! Điều này có lý, bởi khi Ký Con làm Trưởng Ban ám sát của đảng, lệnh ám sát kẻ nào, thực hiện xong đều cho in thông cáo để dân chúng Annam và người Pháp biết. Arnoux buộc phải đối phó, khác nào phải thừa lệnh thực hiện sự điều khiển của Ký Con.

Chàng thanh niên 22 tuổi, mắt sáng lanh lợi, dây xiềng cổ tay, đứng dậy vui đùa như không hề có điều gì ghê gớm xảy ra đối với anh. Người thư ký nhỏ cười lớn, coi giây phút này là giây phút được nghỉ ngơi sau những ngày khổ hạnh trong ngục tối.

Người thư ký nhỏ biết thừa ngày lĩnh án chém, nên thản nhiên nhận hết những gì đã gây ra với chính quyền thực dân và bọn phản bội. Cử chỉ rất ung dung, không hề lựa lời, giải thích hay kêu nài.

Biết là gặp nhà báo, Ký Con nói năng thoải mái, đôi khi còn trêu chọc Roubaud:

– Anh viết báo có phải thực hiện vai trò bồi bút không? Tôi thấy nhiều nhà báo nước tôi uốn cong ngòi bút để hưởng bổng lộc đó.

Roubaud cười, tránh cái nhìn soi mói từ phía Ký Con, rồi hỏi:

– Nếu ít thấy khả năng thành công, sao anh vẫn đeo đuổi sự nghiệp?

Đoàn Trần Nghiệp – Ký Con, không do dự trả lời:

– Chúng tôi khởi sự, sau này sẽ có người nối tiếp.

– Vậy mục đích để làm gì?

– Là để người Pháp phải rời khỏi xứ An Nam.

– Anh có muốn chúng tôi góp tiếng nói ân xá cho anh không?

– Cám ơn nhà báo! Tôi chẳng bao giờ ngây thơ tin rằng mấy bài báo mọn của các anh làm thay đổi được ý chí của những tên thực dân

 

*

Toàn quyền Pasquier thân chinh ra tận pháp trường Hỏa Lò xem xử chém Nguyễn Xuân Huân (tức Đức Nghiệp, tức Hải) di án từ Hải Dương về. Mấy tháng trước, tại nơi này, đầu Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Quang Triều, Đoàn Trần Nghiệp, Lương Ngọc Tôn… đã lần lượt rơi. Sở dĩ phải chém những tên phiến động ở ngay Hỏa Lò là vừa để răn đe, vừa để an toàn cho ngày xử quyết. Hơn nữa đem máy chém đi các tỉnh cũng phức tạp, dễ bị đánh tháo tù giữa đường. Thị trưởng Hà Nội được Thống sứ Bắc Kỳ phê duyệt đã cho điều động 3 tiểu đoàn bộ binh thuộc địa bố phòng với nhiệm vụ bảo vệ hiện trường. Sở cảnh sát thành phố có trách nhiệm thi hành án.

Trông thấy Nguyễn Văn Nho, Đoàn Trần Nghiệp lê xích sắt ra pháp trường, Pasquier lẩm bẩm: “Quân to gan! Đã thịt của ta bao nhiêu chân tay!”. Trong óc viên Toàn quyền thoáng qua hình ảnh của Giáo Du, của Đội Dương và bao tay chân của hắn đã bị những tay súng này ám sát. Giờ thì chúng biết tay nhà đương cục!

Chiếc máy chém đã phải làm bổn phận luân chuyển khắp Yên Bái rồi lại Yên Bái, Phú Thọ, Hải Dương, Kiến An… về Hà Nội. Bây giờ nó đứng ở Hỏa Lò, như con quái vật đã nuốt chửng số kiếp bao người. Lưỡi máy chém sắc lẻm đã phập đứt lìa hàng trăm cái đầu! Nó đứng làm hiện thân của sự chết ngay giữa đất Hà Thành như đe dọa, như thách thức.

Cũng một cung cách như những người cách mạng đã đưa đầu vào máy chém trước đây, Nguyễn Xuân Huân thản nhiên bước lên, mặc cho đao phủ khóa gông vào cổ, không một lời phàn nàn. Anh ta hô to lắm: “Việt Nam vạn tuế! Vạn tuế! Việt Nam! Việt Nam!”. Tiếng hô trước lúc 6 giờ sáng nghe thật là kinh khủng, rùng rợn.

Những ngày này, Hà Nội liên tiếp xảy ra biểu tình của dân chúng, chưa cách nào dẹp ổn. Tin tức từ Sài Gòn ra cũng chỉ xung quanh việc dân chúng biểu tình chống chính phủ đàn áp những người khởi nghĩa do Trần Huy Liệu, Nguyễn Phương Thảo cầm đầu. Tin tức từ Paris cũng vậy, ngay giữa thủ đô hoa lệ của xứ Gô Loa, báo L’Humanité đã vận động báo giới mở chiến dịch chống cuộc đàn áp Yên Bái, kêu gọi lính người Âu không tham gia đàn áp ở Đông Dương. Cuốn sách Indochine Martyre (Đông Dương tử vì đạo) lên án Toàn quyền Pháp ở Đông dương, đã làm chấn động dư luận Pháp. Người Việt ở Paris đã biểu tình trước Điện Elysée, hô khẩu hiệu: “Đả đảo Tổng thống Cộng hòa Pháp!”.

 

*

Arnoux với Robin cùng đến Phủ Toàn quyền Đông Dương.

Tiếng là người được quyền ra lệnh bắt và giết hàng trăm người bản xứ, nhưng ở ngoài pháp trường, chính Arnoux cũng không dám nhìn cảnh hành quyết tử tù. Bởi dùng máy chém là kiểu hành hình hết sức man rợ. Nó tàn bạo với người chết, nó hăm dọa người sống. Máu trong chiếc chậu lớn đỏ lòm, sủi bọt. Mỗi khi nhìn thấy máu, hắn cũng nôn ọe và không thể nào dùng bữa ngay sau đó. Chuyện ấy lại xảy ra ngay sáng nay ở Sở Liêm phóng Hà Nội, khiến hắn phải bỏ bữa sáng.

Vốn là sáng hôm qua, 7 tháng 9 năm 1930, lính cò phát hiện ở Thanh Giám có dấu tích hoạt động của tổ chức Việt Nam Quốc Dân đảng, gồm những tên đang có lệnh truy lùng. Đó là Đỗ Thị Tâm, Lê Thị Thăng, Nguyễn Đôn Lâm, Phạm Văn Hể, Nghiêm Toản, Lê Tiến Sự, Trần Xuân Độ, Hoàng Đình Vỹ, Hoàng Văn Ghi… Lập tức Arnoux cho lệnh tấn công trụ sở Thanh Giám. Một nhóm Việt Nam Quốc Dân đảng tuy bị bất ngờ nhưng vẫn chống trả quyết liệt. Đỗ Thị Tâm đã dùng súng lục bắn làm hai mật thám tử vong. Vỹ và Ghi bị mật thám bắn chết. Đỗ Thị Tâm và hai người nữa bị bắt giam vào Sở Liêm phóng. Trong số ấy Ghi và Tâm đang là người yêu của nhau.

Đang kể lại sự việc với quan trên, bỗng Arnoux tái mặt, quặn bụng. Cố nhịn mà không tài nào nhịn nổi. Ngài Chánh mật thám đã làm một việc quả là rất mất lịch sự, đánh rắm bum bủm ngay giữa phòng khách Phủ Toàn quyền. Ngài đã phải bê ngay cái sự thối tha ra hành lang một lúc rồi mới quay lại kể nốt câu chuyện. Ngài chữa thẹn bằng câu xin lỗi!

Sáng nay, được tin một kẻ bị bắt đã tự tử, Arnoux vội đến ngay hiện trường. Ở đó, Arnoux được chứng kiến, Đỗ Thị Tâm không chịu nhục hình, đã kéo mảnh yếm nuốt vào cuống họng tự tử từ lúc nào không rõ. Khi lôi được mảnh vải yếm khỏi miệng, máu trong cổ Đỗ Thị Tâm ộc ra nền xi măng một vũng đỏ ối, chảy lênh loáng khắp phòng tra xét. Arnoux vội lấy khăn tay ngào ngạt nước hoa thượng thặng Pháp bịt lấy mồm mũi để khỏi ọe.

Bây giờ nói lại chuyện ấy cho Pasquier và Robin nghe mà Arnoux vẫn còn lợm giọng.

Pasquier yêu cầu Thống sứ và Chánh mật thám phải làm tròn phận sự của nhà chức trách, không được mềm yếu. Arnoux báo cáo rằng:

– Tôi sẽ thống kê đầy đủ tên tuổi những tên phản nghịch đã bị hành hình bằng máy chém suốt một năm qua trên khắp các tỉnh; những tên bị xử tù, đã chuyển đi Côn Đảo, những tên biệt sứ sang Guyane và những tên còn phải tiếp tục truy lùng. Là người lâu năm ở trên đất Annam, tôi thấy đây quả là một vụ án ghê gớm, phải càn bắt hàng năm trời chưa hết dư đảng.

Robin thêm vào:

– Chúng ta chiến thắng họ về thân xác, nhưng chúng ta thua họ về tinh thần. Hình như mỗi lần họ bị chém giết thì họ càng cố kết với nhau hơn, tinh thần dân tộc của họ càng dâng cao hơn. Đó là điều đáng ngại. Họ coi chúng ta là ngoại xâm, là di địch. Các tổ chức chống chúng ta bung ra khắp bắc trung nam ở đâu cũng có mầm mống. Đặc biệt là tên tuổi Nguyễn Ái Quốc đang nổi lên, báo hiệu một tương lai không lấy gì tốt đẹp với chúng ta.

Pasquier nhấn mạnh:

– Tuy nhiên, chúng ta phải tỏ rõ sứ mệnh của nước Pháp lúc này là không thể rời bỏ xứ sở Đông Dương, dù chúng ta đang bị báo chí trong nước trì trích rằng chúng ta là trung tâm của sự bất bình.

Ba tên tuổi tiêu biểu của chế độ thực dân đương thời, càng tỏ ra mẫn cán lại càng thêm lo lắng phận sự. Nhất là từ khi Pasquier bị Tô Chấn ám sát hụt. Cuộc  chuyện trò kéo dài tới tận chiều. Bữa cơm tối được hầu bàn dọn ra mà chả ai hào hứng ăn.

Hai chiến hữu ra về đã khá lâu. Pasquier vẫn không làm sao ngủ được. Một đống giấy tờ và điện tín báo cáo từ khắp các nơi gửi về đã tiêu hao thời gian và sức lực của Toàn quyền. Không mấy tin vui. Toàn những tin buộc nhà cầm quyền phải đối phó. Không ai có thể làm thay được công việc hệ trọng này. Ngài Toàn quyền dốc hết trí lực cho phận sự mà vẫn thấy rối bời.

Căn phòng quá rộng, ngồi lại một mình cũng thấy ớn lạnh.

Mệt quá, Pasquier thiếp đi.

Một cơn ác mộng kéo dài ập tới, chưa từng thấy ghê rợn như thế bao giờ, đã làm cho Pasquier cực kỳ hoang mang.

Vừa chợp mắt, một loạt ma cụt đầu xuất hiện. Pasquier quát đám lính gác, tại sao lại để đám ma đột nhập được vào Phủ Toàn quyền? Không thấy ai trả lời. Tại sao không bắn? Cũng không thấy trả lời. Ờ nhỉ, đã là ma thì bắn có nghĩa lý gì? Ma thì chỗ nào chả đến được! Nghe tiếng cười nói tận đâu đâu, lại nghe cả tiếng hát rất ma mị văng vẳng, chập chờn, lúc xa lúc gần. Rồi một con ma cụt đầu đến nắm tay Pasquier rủ đi đánh cờ. Pasquier chối rằng có hề biết đánh loại cờ tướng ở xứ Á Đông này đâu? Ma cụt đầu nói bằng tiếng Pháp hẳn hoi, thế thì ma dậy cho mà biết đánh. Pasquier biết đánh cờ tướng rất nhanh. Lúc được lúc thua. Rồi ma lại nhặt chiếc đầu lâu đặt bên cạnh lắp lên cổ, cười hềnh hệch, lúc ma lại lấy đầu lâu thay vào đầu Pasquier, khiến Toàn quyền hết hồn hết vía. Chả mấy chốc bàn cờ vãn hết quân, chẳng phân biệt thắng hay bại, xe pháo mã chẳng còn thấy đâu, lúc ấy ma cụt đầu bảo, này ta còn con tốt, tốt sang sông vào nhập cung là tướng chết đấy. Nhìn kỹ ma cụt đầu, thấy chiếc đầu lâu bay vù vù, giống hệt đầu Nguyễn Thái Học. Miệng mấp máy trên cái đầu toàn máu. Rất nhiều ma cụt đầu ngồi vào những chiếc ghế nơi phòng họp. Không hề đập phá gì. Chỉ thấy những tiếng u u réo trên trần nhà. Một vệt sáng lóe, hơn cả hào quang bừng lên, thế là đám ma cụt đầu rủ nhau đi… Pasquier trơ lại một mình, thấy quá chừng là cô đơn. Vẫn chưa hết sợ, nhưng không hiểu sao Pasquier lại hẹn với đám ma cụt đầu, lần sau lại đến chơi cho vui nhé!

Vừa lúc ấy nghe tiếng chuông đồng hồ réo, Pasquier giật mình tỉnh dậy. Chiếc máy đĩa hát vẫn đang eo éo một ca khúc do Pasquier mở lúc nào chưa kịp tắt. Mồ hôi Pasquier vã ra. Đũng quần nước ướt sũng. Từ đấy đến sáng hắn cứ nhìn trân trân lên trần nhà. Chỉ sợ nếu thiếp đi cơn ác mộng sẽ quay trở lại.

Cơn ác mộng này mãi sau Pasquier mới kể cho Robin nghe, khi Robin kế nhiệm chức Toàn quyền Đông Dương.

 

*

Ở nhà tù Côn Đảo.

Gió vù vù cuốn theo cát bụi.

Trần Huy Liệu và Nguyễn Phương Thảo đã nhận ra các anh Hoàng Phạm Trân, Lê Văn Phúc, Nguyễn Ngọc Sơn khi cùng Phạm Tuấn Tài vừa bước chân từ đảo Hòn Cau sang đảo Côn Lôn, qua một thoáng “liên lạc”. Đấy là do anh Phạm Tuấn Tài kín đáo giới thiệu. Các anh đều bị mật thám bắt cùng mấy trăm người từ sau vụ ám sát Bazin đầu năm 1929, hầu hết bị đày ra Côn Đảo. Kể về thâm niên ở Côn Đảo các anh hơn Trần Huy Liệu, Nguyễn Phương Thảo đến nửa năm.

Gặp mặt thoáng chốc, Hoàng Phạm Trân nói nhỏ, cốt để mọi người nghe như lời nhắn nhủ: “nhìn thấy nhau vậy là quý lắm rồi, nhớ bảo trọng”. Thấp thoáng bóng áo tù, Hoàng Phạm Trân nhận ra ngay ra các anh Nguyễn Triệu Luật, Trúc Khê, Phạm Tuấn Lâm. Ngầm hiểu ý của nhau, không khai gì, đợi ngày người Pháp sẽ phải tha bổng.

Phạm Tuấn Tài thì chỉ nung nấu ý chí vượt ngục về đất liền để tiếp tục hoạt động. Đã hai lần hành sự đều không thành công. Lần trước, cùng Bửu Đình họ Tôn thất, thân tộc triều đình Huế, định nhân ngày Quốc khánh Pháp 14 tháng 7 vượt ngục, nhưng kế hoạch bị bại lộ. Cai ngục Lambert cho chuyển Phạm Tuấn Tài và đồng phạm sang đảo Hòn Cau. Ở đây Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Phương Thảo, Tưởng Dân Bảo và hai người nữa lại làm bè vượt ngục lần thứ hai. Do không hiểu luồng lạch trên biển nên khi thả bè bị cuốn vào luồng nước hồi lưu, bè đi một ngày rồi lại theo nước quẩn về nơi xuất phát.

Do vậy mà số anh em tù chính trị lại phải quay về giam ở Côn Lôn với chế độ hà khắc hơn. Dẫu bị giam trong ngục tối, Hoàng Phạm Trân, Lê Văn Phúc, Nguyễn Ngọc Sơn, Phạm Tuấn Tài vẫn không rời chủ trương “trước làm cách mạng dân tộc, sau làm cách mạng thế giới”.

Trần Huy Liệu thỉnh thoảng lại ngâm ngợi câu thơ:

           Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân

           Tương phùng hà tất hồi tương thức

           (Cùng một lứa bên trời lận đận

           Gặp gỡ nhau lo sẵn quen nhau)

Hoàng Pham Trân đắc ý, như thấy câu thơ của Bạch Cư Dị lúc này ứng với tâm trạng mình, dù không được thổ lộ với Trần Huy Liệu qua ngục tối. Âm hưởng của “Tì bà hành” làm cho Hoàng Phạm Trân nói to cho Trần Huy Liệu và các bạn tù cùng nghe:

– Ngâm thơ nữa đi Trần Huy Liệu!

Tên Cai ngục đập mạnh cửa, quát:

– Câm mồm! Đã tù còn không biết thân biết phận!

Tự dưng, Trần Huy Liệu nhớ tới ngày ra Hà Nội gặp Nguyễn Thái Học. Sau khi trao đổi những vấn đề liên quan tới tổ chức hoạt động của Việt Nam Quốc Dân đảng ở Nam Kỳ, Nguyễn Thái Học dặn: “Anh lưu ý phát triển lực lượng để khỏi phải chiến đấu đơn độc”. Không ngờ câu ấy lại vận đúng vào hoàn cảnh bây giờ.

Trở lại Côn Đảo mấy hôm, Trần Huy Liệu bị giải đi lao công qua bãi tha ma, thấy ngôi mộ mới giữa hàng trăm ngôi mộ, nơi cỏ mọc lút đầu, hỏi mới biết đó là mộ của Hồ Văn Mịch, thành viên sáng lập Việt nam Quốc Dân đảng, người bạn thân thiết của Nguyễn Thái Học, người dự lễ tuyên thệ khi Trần Huy Liệu vào đảng. Trước cảnh lao tù, các anh Phạm Tuấn Lâm, Nguyễn Hữu Đạt, Lê Thành Vỵ, Hoàng Văn Tùng, bị bắt đầu năm 1929, rồi Nguyễn Nhật Thân, Phạm Khắc Nhận, Nguyễn Đức Trạch và bao người khác, người còn bị lao đày tận Guyane, người Côn Đảo, người đã nằm xuống dưới những nấm mồ kia, cỏ đã lấp, khó mà tìm. Trần Huy Liệu lặng người, nhìn nấm mộ lạnh lẽo bên bờ sóng. Anh khuân mấy tảng đá ong đặt quây lấy ngôi mộ Hồ Văn Mịch. Xót đau, lầm rầm khấn bạn.

Dưới bóng cây vọng cách, nhìn sang nghĩa trang Côn Đảo, Trần Huy Liệu có lần tâm sự riêng với Phạm Tuấn Tài:

– Anh Tài ạ! Tôi cho rằng chỉ thuần túy đấu tranh bạo lực hoặc quá nhấn mạnh cách mạng quốc gia cũng chưa đủ. Lúc này, nếu ai chỉ nói cách mạng quốc gia thì không khỏi chật hẹp, cũng như ai chỉ nói cách mạng thế giới thì không khỏi vu khoát! Cho nên, tôi nghĩ cũng phải xem lại cái vế thứ hai trong chương trình hành động của Việt Nam Quốc Dân đảng chúng ta là: “Trước làm cách mạng dân tộc, sau làm cách mạng thế giới”.

Suy nghĩ một lát, Trần Huy Liệu nói tiếp:

– Chẳng hạn, từ Nam Định muốn đi Hà Nội mà không qua Phủ Lý thì làm sao đến được Hà Nội? Đảng phải ăn sâu bám rễ vào nhân dân, phong trào dẫu lúc thăng lúc trầm, nhưng vẫn sống trong lòng nhân dân thì nhất định không thể bị tiêu diệt.

Phạm Tuấn Tài, người còn sót lại của Nam Đồng thư xã, thì vẫn xót xa:

– Đảng không khéo tan mất, anh Nguyễn Thái Học, anh Nguyễn Khắc Nhu và anh Phó Đức Chính dù sao đã dám làm một việc lớn, mặc dầu thất bại. Do đó, mấy thằng mình ngoài cô đảo này cũng không thể chịu chết rú ở xó nhà tù, phải làm một việc gì cho xứng đáng, cho oanh liệt, cho quốc dân thấy rằng đảng vẫn còn, vẫn chưa chết! Phải tìm mọi cách về đất liền để tiếp tục hoạt động.

Trần Huy Liệu đắn đo một chút, rồi nói:

– Đã nhiều lần những người còn sống sót chúng ta tranh luận rồi. Không thể không thừa nhận sự tan rã của đảng. Có điều, sau này nếu phục hồi được đảng, theo anh, sẽ đặt tên đảng là gì?

Phạm Tuấn Tài không chút đắn đo, trả lời luôn:

– Vẫn là đảng của Nguyễn Thái Học, nhưng có thể gọi là “Tân Việt Nam Quốc Dân đảng”. Chỉ thêm chữ Tân để thực lòng đổi mới.

Còn Trần Huy Liệu thì nói:

– Theo tôi, nên đặt là “đảng Cách mạng xã hội Việt Nam”  hoặc là “đảng Nhân Dân Việt Nam” thì phù hợp hơn. Tôi nghĩ thế!

Phạm Tuấn Tài trầm ngâm không nói gì thêm. Lúc ấy, phía chân trời cuối biển, có một vầng mây đỏ lừng lững bay ngang qua, tán xạ cùng mặt trời chiều, đỏ lựng như máu, bay về phía đất liền.

Trần Huy Liệu nói:

– Đám mây đỏ quá kìa, chẳng hiểu dữ hay lành?

Phạm Tuấn Tài thở dài:

– Khó mà đoán trước được vận nước. Chỉ cốt sao vì Tổ quốc, vì Nhân dân, đừng hi sinh vô ích.

 

  

VÀI DÒNG TƯ LIỆU THAY LỜI CUỐI SÁCH

 

Kìa Yên Bái, nọ Nghệ An

Hai làn khởi nghĩa, tiếng vang toàn cầu

                                                           Hồ Chí Minh

 

Tiếng vang của “Khởi nghĩa Yên Bái” đã chấn động Đông Dương và chấn động sang nước Pháp, vang cả sang Nga thời bấy giờ. Những tác phẩm báo chí, văn thơ đương thời còn để lại dấu ấn, vượt qua thời gian.

Những nhân vật lịch sử đã đi vào lịch sử.

Vị đắng có trộn đường vào vẫn đắng.

Chỉ còn biết ngồi lại với nhau, ngẫm nghĩ. Hay dở, được thua, sống chết, khôn dại, đóng đinh vào các con chữ. Nó có linh hồn. Nó thay ta nói.

 

Cụ già Bến Ngự Phan Bội Châu bị thực dân Pháp quản thúc ở Huế đã làm mấy bài văn tế những người vì nước quên thân ở Yên Bái: “Văn tế các tiên liệt Viêt Nam Quốc Dân đảng”, “Văn tế dân làng Cổ Am bị nạn hỏa thiêu ngoài Bắc Kỳ vì liên can việc chứa chấp các đảng viên Việt Nam Quốc Dân đảng”. Rồi Văn tế Cô Giang, Chị khóc em, Cô khóc cậu…Trong văn tế Cô Giang, ông già Bến Ngự hơn bảy mươi tuổi đã hạ mình để gọi Nguyễn Thị Giang tuổi mới 24 bằng chị xưng em, chứng tỏ sự ngưỡng mộ đến chừng nào! Những câu văn tế của cụ Phan Sào Nam thật sâu xa:

Tuy kim cổ hữu hình thì hữu hoại, sóng Bạch Đằng, mây Tam Đảo, hơi sầu cuồn cuộn, bóng rồng thiêng, đành ông HỌC xa xuôi.

Nhưng sơn hà còn phách ắt còn linh, voi Nàng Triệu, ngựa Nàng Trưng, khí mạnh nhơn nhơn, hình hạc gió, hãy cô GIANG theo đuổi.

 

Và, chí sĩ Ngô Quang Đoan, ngưòi kế tục sự nghiệp chống thực dân Pháp của Nguyễn Quang Bích đã có câu đối về Nguyễn Thái Học:

Đại nghĩa sở đương vị: báo quốc, đan tâm quang nhật nguyệt

Thâm thù do vị tuyết: tiêm cừu, hạo khí tráng sơn hà

(Nghĩa lớn nên làm: giết giặc, lòng son ngời nhật nguyệt

Thù sâu chưa trả: hi sinh, khí mạnh rạng non sông)

 

Lại có cả thơ “Ngày tang Yên Bái”, của một tác giả ẩn danh:

…Sau cái nhìn non nước bi ai

Họ thản nhiên lần lượt bước lên đài

Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng

“Việt Nam muôn năm!” . Một đầu rơi rụng

“Việt Nam muôn năm!”. Người kế tiến lên

Và tử thần kính cẩn đứng ghi tên

Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc

 

                                                           *

Báo chí trong nước, ngoài nước liên tục đưa tin.

Tờ báo Đông Pháp có bài viết in một cột dọc, với hàng tít dài, nguyên văn là thế này:

 

“Mười ba đảng viên V.N.Q.D.Đ bị xử trảm tại Yen Bay”

 

Hồi 4 giờ rưỡi chiều hôm qua, bản-báo nhận được điện tín bên Pháp gửi sang nói rằng trong 39 người bị Hội-đồng đề hình xử lần thứ hai ở Yên-bay khép tội tử hình, các phạm nhân trừ Phó-đức-Chính ra đều chống án về Chính-phủ Pháp.

Nay được tin rằng trong số 39 người ấy duy có 26 người được ân xá còn 13 người đều y án nghĩa là phải buộc vào tội tử-hình.

Hồi 8 giờ rưỡi hôm qua, một chuyến xe hỏa riêng đã chở máy chém và 13 phạm-nhân lên Yen bay có lính khố xanh, sen-đầm và các viên thanh tra mật thám đi áp giải, quan thanh tra chính trị M.Servoise, phóng viên báo Petit Parisien và báo Le Matin cùng phóng viên bản báo cũng đáp chuyến xe hỏa ấy lên Yên bay.

 

Tên 13 phạm nhân bị xử trảm:

Mười ba tội nhân không được ân xá là Nguyễn-thái-Học, Phó-đức Chính, Bùi-tư-Toàn, Bùi-v-Chuân, Ng Ân, Hà-v-Ân(?), Hà-v Lao, Đào văn-Nhít, Ngô- văn Du, Ng-văn-Thịnh, Ng v-Tiềm, Đỗ-văn Tư, Ng-v-Chu, Ng-như-Liên tức Ngọc Tỉnh.

 

Khi đi đường

Khi đi đường không xảy ra việc gì. Khi xe lửa đến Việt trì có lính lê dương ra gác cầu và nhà ga.

Trên toa xe lửa các phạm nhân hút thuốc lá nói truyện với nhau hoặc nói truyện với các viên thanh tra mật thám.

Tàu đến Yên báy vào hồi 1 giờ rưỡi sáng. Quan chánh phó sứ tỉnh Yên báy cùng một đội lính lê dương ra ga. Mục sư Niochet (?) cũng có mặt ở nhà ga.

 

Đến Yên báy

Thành phố im lặng, nhân dân hình như không biết việc này xảy ra.

Các phạm nhân đem về giam tại ngục thất Yên báy, chờ đến sáng mai thì đem ra hành hình ở đám đất trước trại giám binh.

Suốt đêm ở Yênbay không xảy ra việc gì. Đến 4 giờ rưỡi các mục sư cầu cho các phạm nhân ở trong ngục thất. Đến 5 giờ 10 phút một viên sen đầm vào báo cho quan Serro’se biết công việc đã sắp đặt xong.

 

Hành hình

Các quan chức văn võ tây nam và các hào mục trong thành phố đều đến chứng kiến việc hành hình. Công chúng đi xem không đông mấy.

Có một cơ lính khố đỏ, một cơ lính khố xanh, và một đội lính lê dương ra pháp trường giữ trật tự. Cửa trường hình mở, Ng-như Liên tức Ngọc Tỉnh bị giải ra pháp tràng trước nhất, rồi sau các tội nhân cứ lần lượt từng người giải ra pháp trường thụ hình. Có sáu người lính Lê dương áp giải.

Sau khi Ngọc-Tỉnh đã thụ hình rồi, thì đến lượt Hà v Lao, Ng v- Cửu, Đỗ-v-Tư, Ng v Tiềm, Ng-v-Tỉnh (?), Ngô-văn-Du, Bùi-v-Chuân, Đào-v-Nhít, Ng An, Phó đức-Chính, Ng-thái-Học bị hành hình sau cùng.

Đến sáu giờ Di-hài các nhà cách-mệnh cho bỏ vào săng đưa xe bò chở ra nghĩa-địa cách nhà ga độ chừng năm trăm thước (!), cho mai táng (chung vào một huyệt) gần cạnh bốn phạm nhân bị hành hình trước”.

 

Nguyên văn cách viết bài báo in trên đây, những chỗ có dấu (?) là tên người và chi tiết không thật chính xác. Có lẽ do trình độ người làm báo thời bấy giờ còn sơ đẳng, khi in không kiểm tra kỹ nên để sơ xuất. (Danh sách không được ân xá những 14! Danh sách lần lượt bị xử trảm là 12? Thiếu mất tên Bùi Tư Toàn).

 

Nhà báo Louis Roubaud người chứng kiến cuộc hành hình có bài viết đăng bài trên Paris Soir (Paris buổi chiều):

“Từ Hà Nội lên Yên Bái, các nhà ái quốc Việt Nam tuy biết mình sắp bị rơi đầu nhưng vẫn cười đùa vui vẻ, không một ai tỏ vẻ lo sợ. Nhất là Nguyễn Thái Học, ngày thường ít nói, tối hôm đó lại rất vui vẻ khi nói chuyện với anh em đồng chí và viên Cố đạo cùng đi theo để rửa tội cho mình. Đêm hôm đó ông Học đã hỏi viên Cố đạo nhiều câu làm cho vị Giáo sĩ Gia tô khó nghĩ. Ví như câu: “Làm việc cứu quốc có phải là phạm vào một điều cấm trong kinh thánh chăng?”

 

Cũng Louis Roubaud, tác giả của tác phẩm “Việt Nam bi thảm Đông Dương”, 15 năm sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái, đã có bài đăng trên báo “Trung Bắc chủ nhật”.

“Trong đời phóng viên của tôi chưa bao giờ trông thấy cảnh tượng như sáng hôm nay. Những tiếng hô “Việt Nam” mà tôi nghe các nhà cách mạng cùng hô to trước khi bước lên đoạn đầu đài đã cho tôi thấy một lòng hăng hái, một sự tin tưởng gần như mê tín vào chủ nghĩa quốc gia của họ. Những tiếng hô đó đã làm cho tôi, một người ngoại quốc, cũng phải cảm động. Chắc chúng đã gợi ra trong lòng người Việt Nam tấm lòng ái quốc vẫn bị ngủ từ trước đến nay. Gây nên những cảnh tượng rùng rợn như hôm nay, phải chăng đó cũng là một chính sách vụng về của người Pháp ở xứ này”

 

*

Ít lâu sau ở Yên Bái mọi người truyền tụng bài thơ của Nhà thơ Pháp nổi tiếng Louis Aragon, in tại Paris:

 

Yen Bay,

Quel est vocable qui rappelle qu’on ne bâillone pas un peuple qu’on ne le mate pas avec le sabre du bourreau

 

Yen Bay,

A vous frères jaunes ce serment: pour chaque goutte de votre vie coulera le sang d’un Varenne

 

Yên Bái, đây là cái điều nhắc nhở ta rằng, không thể bịt miệng một dân tộc, mà người ta không thể khuất phục bằng lưỡi kiếm của đao phủ.

Yên Bái, gửi đến các người anh em da vàng lời nguyền này, để mỗi giọt của cuộc sống các bạn sẽ tràn máu của một tên Varene.

 

Không phải nói gì thêm.

Đấy là kết cục bi hùng của những chuyện để nhớ một thời!

 

 

Viết xong tại Yên Bái chiều ngày 1 tháng 4 năm 2011.

Sửa chữa hoàn thành bản thảo 17 tháng 6 năm 2011.

 

 

 PHỤ LỤC

LAI LỊCH MỘT SỐ NHÂN VẬT  

 

* Nguyễn Thái Học, sinh ngày 1 tháng 12 năm Nhâm Dần tức ngày 30 tháng 12 năm 1902, mất 17 tháng 6 năm 1930 tại Yên Bái. Quê làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, Vĩnh Lạc, Vĩnh Yên (Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc). Đã học qua Cao đẳng Sư phạm và Cao đẳng Thương mại Đông Dương. Chủ tịch Tổng bộ Việt Nam Quốc Dân đảng. Thành viên sáng lập Việt Nam Quốc Dân đảng.

* Nguyễn Khắc Nhu, sinh 1882, mất 10 tháng 2 năm 1930 tại Hưng Hóa, Phú Thọ. Quê Song Khê, Yên Dũng, Bắc Giang. Năm 1912 thi hương đỗ đầu xứ Bắc Kỳ, nên gọi Xứ Nhu. Hành nghề dạy học và làm thuốc nam. Đứng đầu Hội Việt Nam Dân Quốc, trước khi sáp nhập với Việt Nam Quốc Dân đảng. Trực tiếp chỉ huy đánh Hưng Hóa và Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

* Phó Đức Chính, sinh 1907, mất 17 tháng 6 năm 1930 tại Yên Bái. Quê Đa Ngưu, Văn Giang, Hưng Yên. Học trường Công chính Đông Dương. Pháp bổ nhiệm sang Lào. Ngày 9/12/1928 giữ chức Phó Chủ tịch Việt Nam Quốc Dân đảng. Trực tiếp chỉ huy đánh Đồn Thông, Sơn Tây. Thành viên sáng lập Việt Nam Quốc Dân đảng.

* Nguyễn Thị Giang, sinh 1906, mất 18 tháng 6 năm 1930 tại Thổ Tang, Vĩnh Lạc, Vĩnh Yên. Quê Phủ Lạng Thương, Bắc Giang. Quê gốc Hà Đông. Em gái của Nguyễn Thị Bắc, có tài làm binh vận. Phụ trách tuyên truyền và binh vận. Giữ chức Tổng thư ký Việt Nam Quốc Dân đảng, đầu năm 1930.

* Phạm Tuấn Tài, sinh 1905, mất 1937 tại Nam Định. Quê Vụ Bản, Nam Định. Nhà giáo, nhà báo (bút danh Mộng Tiên). Em ruột của Phạm Tuấn Lâm, nhà báo (bút danh Dật Công). Đồng sáng lập Nam Đồng thư xã. Thành viên sáng lập Việt Nam Quốc Dân đảng. Năm 1929 bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Năm 1936 ra tù về quê. 1937 chết tại quê.

* Hồ Văn Mịch, sinh 1903, mất 1932 tại Côn Đảo. Quê Đồng Hiệp, Ninh Giang, Hải Dương. Học Cao đẳng sư phạm Đông Dương. Dạy học ở Nam Định. Thành viên sáng lập Việt Nam Quốc Dân đảng. Năm 1929 bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Mắc bệnh lao nặng. Ngày 8 tháng 4 năm 1932 chết khi đang ở tù.

* Đoàn Trần Nghiệp, sinh1908, mất 1931 tại Hỏa Lò, Hà Nội. Nơi ở Hàng Sơn, Hà Nội. Quê gốc Thanh Trì, Hà Đông. Năm 1926 là thư ký hãng Godard. Năm 1928 coi sổ sách khách sạn Việt Nam 38 Hàng Bông-Hà Nội. Tháng 6/1930 bị Pháp bắt ở Nam Định. Ngày 9 tháng 8 năm 1930 bị kết án tử hình. Ngày 9 tháng 3 năm 1931 bị chém tại Hỏa Lò.

* Hoàng Phạm Trân, sinh 1904, mất 1949 tại Hà Nội. Quê Đô Hoàng, Ý Yên, Nam Định. Nhà văn, nhà báo, dịch giả (bút danh Nhượng Tống). Học chữ Nho từ nhỏ. Sau học chữ Pháp, là người uyên bác. Thành viên sáng lập Nam Đồng thư xã. Thành viên sáng lập Việt Nam Quốc Dân đảng. Năm 1929 bị Pháp bắt đày Côn Đảo. Năm 1936 ra tù bị quản thúc tại quê. Năm 1947-1949 hành nghề thuốc bắc ở chợ Hôm- Hà Nội.

* Ngô Văn Triện, sinh 1901, mất 1947 tại Sơn Tây. Quê Phương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, Hà Đông (Xuân Phương,Từ Liêm, Hà Nội). Nhà văn, nhà báo (bút danh chính Trúc Khê). Học chữ Nho từ nhỏ. Gặp Phạm Tuấn Tài, tham gia Nam Đồng thư xã và vào Việt Nam Quốc Dân đảng. Năm 1929 bị Pháp bắt giam Hỏa Lò. Sau tù 2 năm ra làm báo. Năm 1941-1945 truyền bá quốc ngữ. Năm 1946-1947 ở Nghĩa Hưng, Quốc Oai, Sơn Tây, làm giao liên lên Việt Bắc.

* Nguyễn Triệu Luật, sinh 1903, mất 1946. Quê Du Lâm, Đông Ngàn, Vĩnh Yên (Nay là Mai Lâm, Đông Anh, Hà Nội). Học sư phạm ở Hà Nội. Dạy học  trường công ở Tuyên Quang, Hải Phòng, Hà Nội. Bị Pháp cầm tù cùng Nhượng Tống và Trúc Khê. Nhà văn, nhà báo. Để lại nhiều tác phẩm giá trị về lịch sử. Năm 1940 bị thực dân Pháp bắt an trí đến khi qua đời.

* Trần Huy Liệu, sinh 1901, mất 1969 tại Hà Nội. Quê Vân Cát, Vụ Bản, Nam Định. Nhà văn, nhà báo, nhà sử học. Năm 1924 vào Sài Gòn làm báo. Tháng 6 năm 1927 bị Pháp bắt lần thứ 1. Ra tù, năm 1928 lập Cường học thư xã, gia nhập Việt Nam Quốc Dân đảng. Tháng 8 năm 1930 bị Pháp bắt tù Côn Đảo. Năm 1935 ra tù, bị trục xuất ra bắc. Năm 1936 gia nhập đảng cộng sản Đông Dương. Tháng 10 năm 1939 bị Pháp bắt tù Sơn La, Bá Vân, Nghĩa Lộ. Tháng 3 năm 1945 tham gia phá trại giam Nghĩa Lộ. Tháng 8 năm 1945 dự Đại hội Quốc Dân Tân Trào, được bầu Phó Chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng. Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền. Ngày  30 tháng 8 năm 1945 cùng Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận vào Huế nhận sự thoái vị của vua Bảo Đại. Năm 1953 chuyển sang nghiên cứu khoa học, Viện trưởng viện Sử học Việt Nam.

* Vũ Văn Giản, tức Vũ Hồng Khanh, sinh 1898, mất 1993 tại Thổ Tang. Quê Thổ Tang (cùng quê với Nguyễn Thái Học). Giáo viên trường làng. Ngày 13 tháng 2 năm 1930 lãnh đạo khởi nghĩa ở Kiến An. Khởi nghĩa thất bại, thoát sang Tàu. Ở đó tập hợp dư đảng trở thành lãnh đạo mới của Quốc Dân đảng lưu vong. Từ đây xa rời tính chất cách mạng của một đảng yêu nước.

* Nguyễn Văn Nho, sinh 1910, mất 1931 tại Hỏa Lò, Hà Nội. Là em ruột của Nguyễn Thái Học. Trực tiếp cùng Nguyễn Xuân Huân và Đoàn Trần Nghiệp ám sát tên phản bội Phạm Thành Dương. Bị Pháp xử chém tại Hỏa Lò, ngày 9 tháng 3 năm 1931 cùng với Đoàn Trần Nghiệp, Nguyễn Quang Triêu, Lương Ngọc Tôn.

* Nguyễn Đức Trạch (Sư Trạch) , người đồng chí trung thành, bảo vệ Nguyễn Thái Học, cùng bị bắt ở đồn điền Cổ Vịt, Chí Linh, Hải Dương. Thực dân Pháp lưu đày ông sang Guyane (Nam Mỹ), cùng chuyến tàu Martinière chở 525 người tù (gồm thường phạm và chính trị phạm). Người tù phải tự xây chuồng cọp giam mình ở ININI, CAYENNE trên đất Amazone. Rồi ông chết thảm ở đó. Trong thư khố thực dân Pháp lưu lại, hồ sơ Nguyễn Đức Trạch, Nguyễn Đắc Bằng và các tù nhân bị lưu đày vẫn còn. Năm 1945, De Gaulle lệnh ân xá, một số người sống sót được ra tù, không đường về Việt Nam, phải lấy vợ dân bản xứ.

 

 

MỤC LỤC

 

Chương I-  Những người đồng sự

Chương II- Ngày trăng chưa rằm

Chương III- Cuộc gặp không định trước

Chương IV- Ngả đường dang dở

Chương V- Một sự lựa chọn

Chương VI- Một chặng đường mấy chặng đời

Chương VII- Làng quê thanh vắng

Chương VIII- Hà Thành nhiều ngõ ngách

Chương IX- Tình sử và cuộc dấn thân

Chương X- Cơn sốc mang màu xám

Chương XI- Dự báo không đoạn cuối

Chương XII- Những ngày không bình yên

Chương XIII- Bão trong bão

Chương XIV- Không thành công cũng thành nhân

Chương XV- Giờ quyết định

Chương XVI- Con đường chiến bại

Chương XVII- Dư chấn bi hùng

Chương XVIII- Ván cờ vãn cuộc

Vài  dòng Tư liệu

Lai lịch một số nhân vật