Mùa hoa gạo

 (Truyện ngắn đầu tay)

“Đường từ Cầu Dậm vào chợ Bến quanh co qua hai ven núi đá. Mặt nước ở những hố phá hoại giữa đường trong veo, trông rõ cả những con ốc và những chú nhái bén. Những chị em Mường làm cỏ lúa thỉnh thoảng lại vấn lại khăn, làm những chiếc vòng tay của các chị kêu loảng xoảng. Người bộ hành thấy mình đã gặp rừng núi; vừa mới lúc nãy còn ăn đĩa bánh trôi, uống một hớp nước chè tươi ở ven bờ sông Đáy, trong một quán nước đầu thôn.

Ti no ma bối ma vang

Ma vập phái tả mà quang phái dóc đây…

eeng ún ơi…

Những anh bộ đội gánh gạo lặc lè cũng dừng lại nhìn các cô mái xinh xinh đang hát trêu mình. Có những tiếng cười khanh khách trên ruộng xanh. Tiếng cười vui như màu của những chiếc khăn trắng và những chiếc vòng tay loảng xoảng.

“Quèn Thị đây rồi… Có một hàng nước cạnh hang đá, một lối rẽ vào miếu qua một cái suối nhỏ có cầu… Đúng rồi.”

Sinh nhẩm xong gấp sổ tay và rẽ vào con đường nhỏ qua những bãi cỏ còn ướt sương sớm.

“Gớm sao mà ở hẻo lánh thế này!”

Anh lẩm bẩm như vậy khi đã qua cái miếu đúng như trong giấy đã biên.

Cái miếu cổ ấy rêu xanh cả mái lẫn tường, nhưng có một cái gì vui vui khiến Sinh dừng lại ngắm nghía (anh ta vốn cũng có thích vẽ một tí). Hoa gạo. Những cây gạo khỏe mạnh vươn cành sần sùi bật lên nền trời mùa xuân có các chú chim khách, quạ khoang, nhảy nhót như những ông thày tu vui vẻ, bộ lông đen mượt như cũng vừa thay mới bộ cánh đầu năm.

Hoa gạo đỏ, rơi lộp bộp xuống thảm cỏ xanh và có bông lăn cả ở trên mái miếu. Tiếng chim lách chách rỉa hoa… chả biết chúng nó cãi nhau, tranh nhau gì hay chúng đương hết lời chim để ca tụng cái ánh sáng của rạng ngày bừng trên những cánh hoa gạo đỏ mà lông tơ óng ánh như cắt bằng nhung. Xa xa từng đợt núi tím làm nền cho những cánh hoa rực rỡ ấy.

Sinh thấy mấy trẻ em đang nhặt hoa; chúng nhặt được đầy ôm rồi mà còn chưa đủ. Rồi chúng xếp hoa thành một vòng tròn; một em đi nhặt những hoa cúc dại và hoa bìm vàng ở ngoài nội. Cô chị và chú em lanh chanh xếp hoa vàng thành một ngôi sao. Chúng líu tíu gạt tay nhau, cãi cọ, đồng ý một lúc, rồi lại gắt, dẩu mồm chú em nguẩy một cái, cô chị kéo lại… Cứ thế chật vật lắm mới xong được một bó hoa nền đỏ ở giữa có sao vàng, nhưng chỉ có bốn cánh.

Chú em cười hớn hở, xoa tay:

“Bốn cánh, thôi cũng được, thiếu mất hoa vàng chị ạ.”

“Thế này mà có ai người ta cười chết cơ Lộc ạ.”

Đoạn chúng đến chỗ tường có vẽ Cụ Hồ.

Lúc này Sinh mới để ý đến bức tường ở miếu cổ. Không biết hình Cụ Hồ, một họa sĩ vô danh nào trong đám mục đồng hay anh thợ cày nào hứng chí, hay là chính hai chị em cô nhỏ kia đã vừa vẽ nên bằng gạch non.

Đó là một ông già râu dài, trán rộng quá tầm – có lẽ mỗi họa sĩ vô danh đều đã vẽ trán Cụ đến hết cỡ tay mình. Chỉ cần là một ông già râu dài, trán rộng cũng như hàng vạn hình Cụ Hồ người ta đã vẽ, Cụ Hồ ở bức tường miếu cổ này, Sinh cũng nhận được ra ngay. Hình như trong mỗi người nhìn và trong mỗi người vẽ đều đã có những sự thỏa thuận sẵn khi nhìn hình Cụ Hồ, dẫu là ở những bức họa có giá trị hay là ở những nét ngô nghê bằng than, bằng gạch vụn.

Chúng đã đặt bó cờ hoa ấy dưới hình vẽ và sắp làm lễ chào cờ, và chú em ra chỉnh đốn hàng ngũ cũng làm đích, cũng nghé nghiêng không vừa ý mãi, mặc dầu cả đoàn quân tưởng tượng trước mắt, chỉ là một cô chị hiền lành, sẵn sàng tuân lệnh. Tuy vậy, lễ chào cờ cũng trang nghiêm vì chú em há hết cỡ mồm, méo xệch cả mũi và nổi hết gân cổ lên để hô nghiêm. Đoạn chúng xỉu mặt xuống để mặc niệm. Trông mặt chúng buồn thật. Chả biết những đầu óc thơ ngày ấy đã nghĩ đến những gì khi chúng chơi cái trò lễ mặc niệm… trông mặt chúng cũng trang nghiêm mà buồn.

Sinh chợt hồi tưởng lại thời thơ ấu của anh khi cũng chơi hoa gạo. Dưới gốc cây, anh – cái chú Sinh bé nhỏ như lũ trẻ trước mắt anh – ngây thơ van lơn con quạ

Quạ ơi quạ

Rỉa cho tớ một cái hoa

Cái hoa đáng giá một tiền

Ta may áo đỏ, áo đen cho mày…

Và lũ trẻ để chỏm giống anh cũng hát dỗ con quạ như thế. Nhưng con quạ đen, quạc quạc lạu bạn lạu bạn rủa bọn anh một hồi, chuyền cành nọ qua cành kia, làm rơi những bông hoa đã chín mẫm. Các anh xô nhau lại cướp hoa rơi, ăn cái đài hoa bùi bùi.

Thế rồi con quạ bay đi.

Và cũng hơn hai mươi năm qua.

Hai chị em mặc niệm xong thì anh cũng vừa tới. Chúng nhao nhao:

“Anh ạ, anh ạ… Anh ạ…”

“Trống anh ấy giống anh Long nhỉ!”

“Không! Như anh Hậu ở Pháo binh ấy cơ…”

“Anh Hậu ở Đống Đa chứ Pháo binh là anh Long cơ…”

Sinh nghĩ thầm: “Tụi này chơi với lắm anh lắm đây.”

Anh hỏi thăm chúng lối rẽ vào Quèn Thị…

“Thế anh vào nhà ai cơ?”

Chú em có vẻ “quân sự thuần túy” nguýt chị:

“Vào nhà ai hỏi anh ấy làm gì, phải không anh?…”

“À! Anh vào nhà ông Sử các em ạ.”

“Ồ… Ồ…”. Cả hai cùng reo:

“Nhà em, nhà chúng em đấy, đi anh đi.”

Lội qua quãng suối đá lạnh buốt và nước reo vui, anh phải đợi lũ trẻ vì chúng còn vớt những cánh hoa màu trứng sáo, màu trắng trong từ rừng sâu trôi ra.

Ông Sử và Sinh cứ nhìn nhau, miệng cùng nở một nụ cười. Thế là đã ba năm nay họ mới được gặp nhau.

Lũ trẻ chạy vào khoe u chúng rối rít vì chúng đã làm được một việc quan trọng là đưa được người khách vào chơi với thày chúng.

Ông Sử quay lại vợ:

“Đây, u con Hương ạ, ông Sinh ở Ban chỉ huy chúng tôi ngày đi Tây Tiến đây.”

“Ông ạ.”

“Không dám ạ, bây giờ mới được gặp bà Sử đấy.”

“Thưa ông, thày cháu đã có nói chuyện đến ông ạ. Bảo thế nào rồi cũng có dịp được gặp ông. Chúa thương cho, từ ngày mới về ốm ốm là, cho đến giờ làm ăn dễ chịu cứ nhắc đến ông luôn.

Ông Sử mời Sinh vào nhà. Ông để Sinh ngồi giường giữa và hét con đi đun nước. Ông gọi vợ ra ngoài hè thì thầm. Bà gật gù đồng ý. Bà Sử quay vào nhà cắp một cái rổ. Ông lại nói gì se sẽ. Bà lấy thêm cái chai nhỏ.

Sinh thấy dễ chịu từ lúc mới thoạt vào nhà. Bàn ghế toàn bằng tre mà anh đoán chắc là do tay ông Sử làm lấy, vì anh đã rõ cái tỉ mỉ và khéo tay của ông ấy từ ngày còn ở trong bộ đội của anh.

Chiếc ảnh Cụ Hồ treo ở giữa nhà chỗ sang nhất. Ngoài sân những luống cỏ tóc tiên và một giàn thiên lý mới gây đã có mùi hoa thoang thoảng nhẹ. Cái nhà nhỏ ấy lại dựa vào một trái đồi con trông ngay ra suối. Suốt ngày có tiếng nước rào rào; Sinh nhắm mắt lại tưởng như đang có một cơn mưa to không bao giờ ngơi. Cái nước ấy làm mát từ trong ý nghĩ người ta.

Ông Sử đã thay bộ quần áo khác.

“Ồ! Ông vẫn giữ được cái này à?”

“Vâng, vẫn giữ được ông ạ. Bộ phát ở Hòa Bình năm ấy thế mà bền đáo để…”

Sinh lười lĩnh cười một cách mệt mỏi và hơi chậm rãi…

“Thế ông Sử giải ngũ là đi được bao nhiêu lâu rồi nhỉ?”

“Một bốn bảy, bốn tám, bốn chín, tháng Chạp ạ, là đi ba năm ngót rồi ông Sinh ạ. Có được giải ngũ hẳn đâu. Xin nghỉ dài hạn thôi. Thế nhưng mà cũng như là giải ngũ vì muốn bao giờ trở lại cũng được.”

“Thế mà tôi tìm được chỗ ông ở có tài không? Hôm nay, tôi mang đến cho ông một tin mà chắc ông mong lắm.”

“À tôi đoán ra rồi! Chắc ông đi Việt Bắc gặp cháu.

“Có thể! Nhưng sao ông biết tôi đi Việt Bắc?”

“Chết nỗi, tuy thế mà lúc nào tôi gặp ai cũng là hỏi thăm ông đấy. Ông đi Việt Bắc được ba tháng mới về chứ gì?”

“Đây thư của cháu đây. Giờ cậu ta khá lắm. Nó nhớn quá, ông ạ, tôi trông mãi mới nhận ra.”

Ông Sử tươi bừng nét mặt, nuốt từng lời của Sinh nói về con ông.

Ông cầm lấy bức thư, ông lấy kính, vẫn cái kính gọng vàng hàn lại một miếng mà khi xưa còn ở đội Nhạc Binh Miền Tây, ông trịnh trọng đeo mỗi khi nhìn vào bản đàn trên cái giá sắt cao lênh khênh – vì ông cũng cao lênh khênh – để xử đúng chiếc “Tờ-rỗng-bôn a-cu-lít.

Ông đọc thư của con ông. Người con trai cùng ở một đội kèn cũ với ông: Đội Nhạc Binh Miền Tây.

Hai cha con ông đã từng cùng sốt rét nằm cuộn tròn trên một nhà người Thái, người Mèo; ông đã từng đi hái những nắm lá nhọ nồi để làm thuốc mát cho con; và chú Thịnh con ông cũng đã có những lúc cõng ông qua một cái suối bên Mai Châu hay dọc đường biên giới Việt – Lào, những lúc ông thấy ghê ghê sợ rét.

… Và cả hai cha con cùng với hơn ba chục người nhạc binh khác, những nhạc công đã già dặn trong nghề, thanh niên cũng có, nhưng mái tóc hoa râm thì nhiều hơn, tất cả đều đã sống với Sinh những ngày lao khổ nhất của bộ đội Tây Tiến.

Họ là những con người ngày trước đi từ trại Khố Xanh lên vườn hoa Pôn-Be cũng phải chờ tàu điện mới đi; thế mà đã từng leo 18 cái dốc đáng gọi là dốc từ Hồi Xuân qua Mường Lý; đã từng khênh những cái trống đại, những cái “tuy-ba”, qua ‘, qua dốc đá tai mèo đi dưới trời nắng nung người, trong hơi lau, sậy và núi đá, để đến chiều tới một bản nào, dừng lại công tác ngay. Họ đem đến những nơi sâu thẳm nhất của bản đồ nước Việt, những âm điệu hùng hồn, những lời ca tin tưởng của cả một dân tộc đang chiến đấu. Họ đem đến nguồn vui mới lạ cho tâm hồn đồng bào miền núi khi được trông thấy ánh lửa trại lấp lánh sáng bóng trên những chiếc kèn đồng, những cái trống đại màu sặc sỡ; và cả những điệu nhạc nhấc người ta dậy, hơn là những điệu khèn ru ngủ nặng nề úp chụp như những bóng núi.

Có những chiều kịch và nhạc xong, đồng bào vây quanh đoàn nhạc binh, nhìn họ, tò mò và âu yếm.

Hỏi thì bao giờ đồng bào cũng trả lời se sẽ:

“Từ xưa, chưa có thế này bao giờ.”

Ông Sử đã đọc xong bức thư của con ông. Ông đưa cho Sinh xem một đoạn mà ông lấy làm buồn cười nhất:

“Ông Sinh ạ, ông coi này! Cái thằng cháu bây giờ lém quá thể.”

Sinh mải đọc:

‘… Thưa thày, con ở trên này đã được học hai lớp sáng tác. Đây là bản nhạc con gửi về biểu thày u. Con bây giờ tập Xắc xô, và không theo đuổi Cờ-la-ri-nét nữa thày ạ. Nghe người ta đồn thày đã gặp u con và đã được tiếp tế nhiều nhiều, thày đừng quên là con bao giờ cũng vẫn thiếu đấy thày ạ. Có người cứ quở con là lớn quá rồi đấy. Không lấy vợ thì hỏng người đấy… thày nghĩ sao…”.

Sinh cười phá lên:

“Thảo nào ông Sử ạ, anh ta cứ khẩn khoản với tôi là về sẽ nói chuyện rằng hắn lớn lắm rồi cho ông bà nghe, à ra thế…”

“Năm nay cháu 22 rồi còn gì… Thấm thoát thế mà cũng mau thật ông Sinh ạ. Tôi nhớ ngày mới về nghỉ, về Sở Kiện, u cháu không nhận ra. Rồi lên Đông Bình; tây đến năm ngoái lại đem nhau chạy vào đây gây dựng được ngót hai mẫu đất làm cái nhà nhỏ… À ông không biết nhỉ! Tôi còn làm cả thuốc lá cuốn, kể cũng tạm sống được; nhờ Chúa bề trên thương cho cữ này cũng không đến nỗi.”

Sinh thở dài, thoải mái và nhìn theo khói thuốc lá. Anh ngước ngó quanh tường nhà bằng phên trát đất mới, thấy có những cây thánh giá bằng lá gài la liệt, lại cả những cành cọ tươi mát xanh cả nhà.

Ông Sử, chừng như để giải thích cho cái nhìn của anh:

“Dạo này là lễ lá ông ạ, bên đạo, chả bây giờ là cuối mùa chay…”

*

Bà Sử đã về. Ở trong rổ rau, có cả một chai rượu nhỏ.

“Hôm nay thì phải mạn phép mời ông mấy chén rượu ông Sinh ạ.”

Ông Sử vuốt tóc, mớ tóc quăn quăn rất tài tử, và lại nói tiếp:

“Rượu hiếm lắm, từ khi cấm đến giờ khó tìm lắm. Nhân tiện được gặp ông sau mấy năm xa cách, hôm nay cũng nên có tí men cho nhớ lại chuyện xưa phải không ông?”

Sinh lâu lắm cũng không uống rượu. Đời bộ đội đã bỏ được cho anh thói quen ấy rồi. Nhưng anh chặc lưỡi, nghĩ thầm: “Chả mấy khi! Vả lại trường hợp đặc biệt.” Anh mỉm cười đồng ý với ông Sử. Để cứng thêm cái lý uống rượu – vả chăng ông Sử cũng thấy ngài ngại khi nghĩ đến rượu chè – ông khoe với Sinh:

“Nhân tiện mua về để ngâm miếng cao hổ cốt ông ạ. Ngâm rồi ông uống thử một tí. Ông cũng tê thấp đã khỏi đâu…”

Mâm cơm ngon lành đã bưng lên. Ông Sử và Sinh cùng mời nhau như những người lịch sự quen biết nhau lần đầu.

Trước khi nâng đũa, ông Sử làm dấu. Sinh chợt nhớ lại những buổi hành quân ngày trước khi ăn cơm ông cũng làm dấu, cái dáng điệu làm dấu vội vàng của ông mà Sinh không bao giờ quên được.

Họ ôn chuyện cũ với nhau. Người đội trưởng và người nhạc binh già ấy dốc hết những kỷ niệm công tác cũ, mà họ vẫn giữ sâu sắc ở trong lòng. Họ ngồi ở một mâm cơm ngon lành, cạnh những đứa nhỏ sung sướng và bên một người đàn bà hiền hậu săn sóc, để ôn lại những buổi hành quân gian nan miền biên giới, những bữa cơm khô khan. Sinh nhắc đến cái tài đi kiếm rau của ông Sử. Nó đã hầu thành một thói quen của ông rồi. Bất cứ đóng quân ở đâu, ông Sử cũng mò vào những khu rừng quanh đó, hay ven đường cái quanh co, ông tìm ít nhất cũng được nắm rau sam, rau má, rau tàu bay, mớ lá lồm, nắm rau dền và có khi được cả rau cải xoong nữa.

Bà Sử ngắt lời:

“Thày cháu xem chừng còn muốn đi nữa đấy ông ạ. Vui anh vui em chả nghĩ gì đến nhà cửa cả đâu. Cái dạo về ốm bủng om beo…”

Ông nhắp một nhắp rượu, lấy cái ví đã cũ màu đen, và lẳng lặng đưa cho Sinh một tờ giấy đánh máy đã ngả màu vàng cũ kỹ.

“U cháu nhắc đến chuyện đi mới lại sực nhớ. Cứ để yên thì rồi chốc nữa cũng phải khoe ông. Số là dạo tháng bảy năm ngoái tôi có nhận được giấy gọi của thiếu tướng Cục Quân huấn. Trên Bộ bây giờ đang thành lập nhạc binh và tổ chức lại ông ạ. Đây ông đọc thì rõ.”

Trong khi Sinh đọc, ông đi lấy chiếc đèn Hoa Kỳ lau lại bóng. Chiều đã xuống, mau chóng và êm ả như một chiều mùa xuân.

“Ông Sinh ạ, tôi về nghỉ thế cũng đã có ngót ba năm rồi. Gặp gia đình như thế cũng là đã tạm ổn. Xa anh em, xa

nghề lâu, xa công tác, lắm khi thấy nhớ lắm ông ạ và… nó làm sao ấy.”

“Thế à ông?… Ừ cũng có lẽ. Tôi thì chưa hề nghỉ bao giờ để có cái tâm trạng như của ông mà hiểu được. Tưởng ông ở gia đình thì vui vẻ chứ!”

“Vẫn vui – nhưng sốt ruột ông ạ.”

Cứ kể tôi thế này cũng gọi được là già rồi. Muốn ở lì nhà, vui đàn gà con trẻ thì cũng chả ai bảo sao… Nhưng, à ông Sinh ạ, tôi cũng muốn đi lắm cơ. Thăm đội cũ, thăm cháu Thịnh một thể, và chắc là trên ấy anh em đã tiến nhiều về nghệ thuật… Tôi cũng sốt ruột lắm ông ạ.

Sinh vặn bớt ngọn đèn. Anh thấy ở mé buồng có ánh đồng bóng loáng.

“À cái kèn.”

“Vâng! Cái “Tờ-rộng-bôn a-cu-lít””

“Ông vẫn đem theo được cơ…. Mấy lần chạy mà vẫn còn thì cũng tài đấy chứ!”

Bà Sử nói hộ chồng:

“Ông ạ, lúc chạy tản cư, một tay bế cháu nhỏ, một tay khư khư ôm cái kèn, rõ thật khổ quá. Thày cháu giữ kèn như giữ… Lắm lúc cháu nghĩ: Nếu địch nó đuổi gấp quá, có lẽ ông ấy quẳng con đi mà để chạy lấy kèn thôi…

Ông Sử bế Lộc vào lòng và quay lại Sinh:

“Cái “Tờ-rỗng-bôn” này, ông ạ, ở Bắc Bộ ít người sử dụng được cho ra hồn. Các anh em cũng đã có viết giấy hỏi tôi luôn và phàn nàn là thiếu tôi thành ra đội cũng kém đi nhiều lắm. Cũng đã có những người mới, nhưng hơn 30 năm tập tành với “Pác-măng-chi-ê” tôi càng đi sâu vào mới lại càng thấy khó.”

Nét mặt người nhạc binh già trở nên trầm tư. Sinh nhớ lại những buổi công tác khi xưa, ông Sử trong hồi đó, có tiếng

là người khó tính nhất trong sự lựa chọn bài nhạc cho các tối vui. Cái dáng điệu thận trọng khi ông đặt lên mắt cặp kính gọng vàng hàn lại bằng chì, và cái say sưa nghiêm trang của ông khi lắc lư nhè nhẹ cái thân hình cao lênh khênh theo đà tay cử động khi ông làm cây Tơ-rỗng-bôn…, và những con mắt giương to của đồng bào thiểu số ở các bản hẻo lánh, những con mắt ngây thơ theo dõi từ cái cử chỉ nhỏ của ông trong khi tai họ mê mệt quyến theo những điệu nhạc… Trong cái toán người và kèn lộn xộn bóng nhoáng và giữa cái tiếng nhạc ào ạt như một dòng suối lớn dâng lên, anh vẫn nhớ nhất hình dáng ông Sử nổi bật với chiếc “Tơ-rông-bôn a-cu-lít.”

Cơm xong, bà Sử pha một ấm chè tàu gửi mua ở chợ Sêu ban sáng.

“Thày cháu dặn phải mua kỳ được ấm chè tàu vì ngày ở Lào ông chỉ ao ước về xuôi được uống chè tàu, thày cháu bảo thế phải không ông?”

Sinh hút điếu thuốc lá của ông Sử cuốn đưa anh. Ngoài sân gió hiu hiu và trăng đã lên, trong vời giữa một khoảng trời sáng biếc. Ông Sử lấy chiếc kèn ở trong cái bao da, và lau bằng miếng da mịn…

“Để tôi xem bản nhạc của thằng cháu gửi về, đánh thử ông nghe. Lâu lắm mới lại mó đến kèn đây…”

Ông mở bức thư lấy bản nhạc mà con trai ông đã viết về. Bản nhạc xa xôi từ Việt Bắc của người con đi vắng đã mấy năm nay; đầu dòng là tên của tác giả và mấy hàng chữ nắn nót nhưng rất bay bướm:

“Kính tặng thày u, bản sáng tác đầu tiên của con: bài “Quân lên Tây Bắc” để nhớ những ngày xa thày u và đánh dấu một bước tiến về nghệ thuật của con.”

Tiếng nhạc trầm bổng đang nửa chừng, ông Sử ngừng lại và quay về Sinh: “Thằng bé lấy một đoạn ở bài Ô-đuôm cham-pa của Lào ông ạ, ông có nhớ chứ!

Sinh cũng nhận thấy như vậy, và khi ông tấu xong bán nhạc, Sinh cũng thấy vui vui nhớ đến rừng núi và thấy gợi về cái không khí của những miền xa xăm bên kia Trường Sơn.

Bà Sử và các con nhỏ cùng xúm quanh bản nhạc của Thịnh. Mấy đứa em rụt rè mó vào bản nhạc rồi lại rụt tay ra vì ông Sử vừa thổi kèn vừa liếc nghiêm chúng nó một cái. Bà Sử thì im lặng nhìn vào bản đàn, tuy chẳng biết chữ gì, nhưng đó là tác phẩm của con trai bà. Khi ông Sử rời kèn ra, những đứa nhỏ hoan hô và xô lại ngó tờ giấy có những chấm đen giữa những dòng ngang, giống như lũ chim đậu ở những hàng dây thép, chúng cố nhìn xem có thấy một cái gì vì là của anh Thịnh chúng gửi từ Việt Bắc về… Bà Sử mượn chiếc đèn Hoa Kỳ xuống xem lại chuồng gà. Gian nhà tối có ánh trăng lọt vào. Lúc này Sinh mới để ý đến những khoảng núi xanh xa nằm bàng bạc dưới ánh trăng mùa xuân. Ông Sử cao hứng thổi luôn mấy bài nữa… Rồi im lặng như tiếng kèn đã dắt cả hai người đi rất xa trong đêm trăng.

Không biết Sinh thì bị tiếng kèn dắt tới đâu, đến Cao Miên, Vạn Tượng, Sầm Nứa nào hay đến những châu, bản, mường mà xưa cũng đã có tiếng kèn của ông Sử.

… Nhưng ông Sử thì chắc chắn là tiếng kèn đã dìu ông lên đến Việt Bắc; và tâm hồn ông – chắc thế – đã dễ dãi muốn vượt qua đường số Sáu, vì ông đã phá tan sự im lặng mà nói với Sinh: “Ông Sinh ạ! Tôi thấy cần đi chuyến nữa, không biết là ngày nào thôi.”

Ngày về Hà Nội sau này, có các phái đoàn ngoại quốc tới chào mừng buổi lễ chiến thắng của nước Việt Nam mà đoàn nhạc Trung ương thiếu mất cây Tờ-rông-bôn thì không được ông ạ… Anh em sẽ khó nghĩ lắm. Kể ghép người ép vào thì cũng tạm xong đấy… nhưng đâu có phải là chuyện ấy được! Có phải là một ngày lễ thường đâu?… Vả lại cũng sẽ là một dịp độc nhất trong đời tôi phải không ông?

Sinh châm điếu thuốc khác. Ông Sử lại tiếp giọng tha thiết hơn:

“Ông ạ, hôm anh em đi dự lễ giải phóng Bắc Kạn, Đại tướng có ban lời khen và cũng nhắc tới những anh em tuổi tác và đặc biệt là nhắc đến chúng tôi; ấy là họ viết thư về, kể chuyện thế. Anh trưởng ban và toàn đội cũng có nhắc đến luôn; họ viết cho tôi:

“Tổng phản công mà thiếu cây “tơ-rông-bôn” của bác thì thực là đội thiếu nhiều lắm đấy.”

Bà Sử đem đèn lên. Trông bà điềm đạm, phúc hậu như tất cả những người đàn bà thôn quê chăm chỉ. Bà nhấc nhẹ nhàng và thận trọng cây kèn của ông và cất vào bao da, xếp lên chỗ cũ, trên cái thúng và mấy cái bị ở góc buồng.

Một tháng sau, Sinh lại đến Quèn Thị lần nữa.

Qua cái miếu cổ, hoa gạo đã rụng nhiều và những xác hoa úa nát đầy mặt đất. Ở cái miếu vắng đó, đã có một lớp Bình dân đang học. Cái đầu thằng Lộc nhẵn bóng đang chăm chú cúi xuống quyển vở.

Cô Hương nguẩy tóc, mút cái bút chì rồi lại cúi xuống viết. Chúng không trông thấy Sinh.

“Kìa bà!”

“Ô ông Sinh! Mời ông vào chơi để cháu thong thả đi chợ cũng được.”

Bà Sử quay gánh toan trở về.

“Thế ông làm gì ở nhà, có nhà chứ bà?”

Bà Sử nhìn chung quanh một lượt rồi nói khẽ với Sinh:

“Thày cháu đi Việt Bắc từ hôm rằm rồi ông ạ! – Là được bốn hôm nay rồi. Có thư gửi ông đây.”

Sinh nhận lấy bức thư mở ra đọc ngay, anh mỉm cười gấp vào túi rồi xin phép bà Sử đi, hẹn dịp khác vào thăm. Bận đi chợ vả lại thấy Sinh có vẻ vội vã, bà Sử cũng quay ra và cùng qua suối.

Sinh lên xe, phóng một mạch vào quá chợ Bến, chỗ ngã ba đường, một ngả về Nho Quan, một ngả đi chợ Sồ, lên đường số Sáu… Việt Bắc! Việt Bắc!… Anh ngửa mặt cho gió sớm hắt mưa bụi vào lành lạnh. Anh mở bức thư của ông Sử đọc lại… Anh lim dim nhìn về phía đường số Sáu… phía Việt Bắc; anh tưởng thấy ông Sử cao lênh khênh đang chống cái gậy song, lưng gọn gàng chiếc ba lô “Tây Tiến cũ”, tay ôm chiếc “Tờ-rông bên a-cu-lit.” Cái kèn thò một tí ra ngoài bao da, ánh bình minh làm lóe sáng ánh đồng như vàng tây. Anh thấy ông Sử đang vượt con đường số Sáu, mắt long lanh nhìn phía đồn địch, anh thấy ông Sử đang leo dốc trán voi. – Và không hiểu sao – anh tưởng tượng thấy ông ấy vừa đi vừa nhặt rau ở hai bên mép đường quanh co, ông tìm được nắm rau sam, rau má, rau tàu bay, mớ lá lồm, nắm rau dền và có khi được cả rau cải xoong nữa.

Chả biết Sinh còn nghĩ liên miên những gì, nhưng thấy anh ta chặc lưỡi một cái, nhìn phía Việt Bắc, mỉm cười và quay đi, phóng xe xuôi phía Nho Quan, miệng hát se sẽ một bài hát yêu đời…

Cuối mùa xuân, những cành gạo đã rụng hoa gần hết.

-Quang Dũng 1950-