Huệ

-Nguyễn Thị Ngọc Tú-

I

Mùa thu, đêm đến mau. Buổi tối đi chơi với Thành một lúc rồi trở về mà tôi tưởng như đêm đã khuya lắm. Bao giờ cũng thế; đi chơi với nhau về, anh cũng đưa tôi đến cửa và dừng lại ở đó, dưới gốc cây bàng, nhìn theo tôi cho đến khi nghe tiếng then cửa đóng lại lách cách, anh mới quay xe trở lại. Đêm nay chắc anh không vui. Lúc quay đi, tôi nghe thấy tiếng anh đánh diêm. Anh không nghiện thuốc, chỉ lúc nào có chuyện phải suy nghĩ anh mới hút thôi. Và lúc này đây, quay lại, tôi vẫn thấy đốm lửa lập lòe trong bóng tối. Tôi dừng lại một lát bên cửa, đưa tay ra hiệu chào anh rồi ngồi xuống, luồn tay vào khe cửa đầy cái chốt lên, mở nhẹ rồi lách vào. Con mèo mướp nhỏ, lông mượt như nhung vừa thấy tôi đã xán đến, kêu lên mấy tiếng khe khẽ rồi dụi đầu vào chân tôi. Tôi bế nó lên, đóng cửa lại. Huệ đã về đấy ư con?

Tiếng mẹ tôi hỏi khẽ.

– Vâng. Mẹ chưa ngủ à?

Chưa. Mẹ bận làm nốt chỗ sợi, vừa mới xong. Mấy giờ rồi hả con? Đồ đạc mẹ xếp cả ở bàn ấy, soát lại xem còn thiếu gì nữa không? Rồi đi ngủ lấy sức mai mà đi.

Tiếng mẹ tôi vẫn từ trong màn vọng ra:

  • Con có gặp anh Thành không?
  • Có ạ!

Tôi trả lời mẹ rồi đi vào trong buồng. Ngày mai sẽ như thế nào đây? Một con tàu, một đoạn đường xa, những đứa trẻ… Thật là mới lạ. Mọi người sẽ đối với mình ra sao nhỉ? Với tuổi trẻ, việc được đi xa, được góp phần vào việc xây dựng đất nước mới sung sướng, kiêu hãnh làm sao! Mấy hôm nay, mỗi khi nghe tiếng còi tàu hú lên, tôi lại tưởng như có ai đang cất tiếng gọi. “Đây, tôi đi đây”. Tôi thầm trả lời như thế và chờ mong chóng đến ngày ra đi. Tôi cứ tưởng như tôi đã ở trong cái làng Liên-sơn xa lạ ấy, giữa cả một cảnh sống mới mẻ, lòng rộn lên với bao dự định tốt đẹp. Thế nhưng bây giờ khi cái ngày ra đi ấy đã trước mắt kia rồi, đầu óc tôi sao lộn xộn quá! Bao nhiêu lo lắng, hy vọng, ước mơ, cứ quấn vào nhau nao nức, bồn chồn quá!

Trong buồng, Bảo vẫn ngồi chờ tôi về, chưa ngủ. Em ngồi bên bàn vừa đan vừa ôn bài. Thấy tôi về, em ngẩng lên nhìn tôi mỉm cười, nét mặt tươi lên, đôi mắt trong suốt thoáng một vẻ nửa âu yếm, nửa như trách móc.

Ở trên bàn, cái ba-lô đã buộc chặt. Từ hôm biết tôi sắp đi dạy học xa, mẹ và em gái tôi đã lo cho tôi đủ mọi thứ. Mẹ soát lại tất cả quần áo của tôi, vá víu những chỗ rách (làm y như tôi không biết khâu vá gì cả) nhồi thêm bông vào cái gối. Em tôi đi mua cho tôi hai cuộn chỉ nhỏ, cái khăn mặt mới, hộp xà phòng. Đầy đủ quá! Tối giở ra rồi lại xếp vào…

– Chị đi ngủ đi, khuya rồi đấy !

Bảo gấp sách lại. Bỏ len lên bàn, em nằm nép sát vào tường, nhường cho tôi cả một khoảng giường rộng.

– Chị vào ngủ với em đi. Gớm sao mà chị đi lâu thế. Bảo nằn nì gọi tôi và chỉ một lúc sau em đã ngủ trong tiếng thở đều đều thơm ấm của một cô gái vừa lớn. Tôi lại bàn ngồi ghi nhật ký.

10 … 11 … 12…

Trong im lặng, cái đồng hồ đánh chuông bên hàng xóm thỉnh thoảng lại ngân lên. Tôi nghe rõ từng tiếng chuông một. Khuya rồi mà tôi vẫn không thấy buồn ngủ. Tôi vặn to ngọn đèn, lại bên giá sách. Tôi buộc lại thừng, soạn lại sách. Hai quyền Thép đã tôi bọc giấy bóng là phần thưởng năm học lớp sáu tôi giữ gìn nên hãy còn mới lắm. Lần này tôi sẽ mang đi, cả mấy quyền sử nữa…

Tôi xếp sách vào ba lô rồi lại góc buồng. Ở đây, trên cái đinh móc có treo cái áo dài xanh hoa trắng đã cũ, áo mẹ tôi may cho tôi từ ngày hòa bình khi tôi lại được đi học. Cái áo gợi cho tôi nhớ lại những ngày tết nhất, hội hè đã qua suốt bốn năm trời… Tôi gấp cái áo bỏ vào hòm rồi đi ra nhà ngoài, khe khẽ đến bên giường mẹ, vén màn lên. Mẹ tôi đã ngủ, nằm quay mặt vào tường. Thằng Khoa nằm ngửa, vẻ nghịch ngợm lộ trên con người nó cả trong lúc ngủ: một tay để lên bụng, một tay nắm lại, chân ghếch lên tường.

– Em ơi! Ở nhà phải ngoan nhé, chịu khó làm đỡ mẹ, đừng có cãi nhau với chị! Chị ấy bảo gì thì phải nghe… Tôi kéo Khoa nằm ngay ngắn lại, bế con mèo ra, thì thầm nói với em như vậy rồi đi vào buồng. Mệt quá, tôi tắt đèn, vùi đầu vào gối và ngủ đi lúc nào không biết.

– Huệ ơi!

Tiếng mẹ tôi gọi khẽ. Tôi vùng dậy, người mệt rũ và vô cùng náo nức. Bảo đã dậy từ lúc nào không biết, quét dọn nhà cửa rồi vào quanh quần trong buồng khi thì giở ra xem lại các thứ trong ba lô, khi thì buộc lại cái quai nón, vẻ mặt bần thần…

Bên ngoài, trời đã sáng. Qua cửa sổ, tôi nhìn thấy mẹ tôi đang đứng trước bếp. Một ánh lửa đỏ chờn vờn.

Mùi xôi gạo mới thơm ngát, mùi hạt tiêu cay cay bốc lên ấm áp.

Mẹ thương yêu con gái quá! Con đi chắc mẹ cũng lo cho con nhiều. Hôm tôi nhận được giấy triệu tập, mẹ tôi bảo:

– Hay là đừng đi nữa con ạ…

Nhưng chỉ một lát sau, mẹ tôi lại nói:

– Thôi, con đi đi… Mẹ lẩn thẩn thế thôi chứ con nhà người ta cũng đi khối ra đấy !…

Chắc mẹ tôi nhớ đến những đứa bạn thân cùng học với tôi, chúng nó cũng đã ra đi: cái Quế, cái Phúc đi công nhân ở nhà máy dệt Nam định. Con Lý vào dạy học trong Thanh-hóa. Cái Hạ đi theo một đoàn địa chất. Cái Thanh, cái Kỹ đi nông trường Sông-bội. “Thương nhau cho thịt cho xôi. Ghét nhau dẫn đến Kim-boi, Hạ-bì…”. Chúng nó đọc câu ca dao nói về cái mảnh đất xa xôi ấy rồi cười… Trước hôm đi, chúng nó đã đến ăn cơm ở nhà tôi để chào mẹ tôi rồi lên đường. Mẹ tôi biết bây giờ con gái xa nhà đi công tác là chuyện bình thường tuy mẹ tôi không hiều được cái gì đã thúc đẩy chúng tôi ra đi như thế. Mẹ tôi chỉ lờ mờ hiểu rằng con mình ra đi như thế là đúng, đi như thế mới tiến bộ, nhưng mẹ tôi vẫn còn lo lắng. Còn tôi, suốt một tuần lễ vừa qua, bận tíu tít vào việc sửa soạn, vào các cuộc “tiễn đưa” của bạn bè, tôi cũng ít có dịp nói chuyện riêng với mẹ. Lúc này tôi sực nghĩ đến điều ấy và thấy vô cùng áy náy:

– Mẹ ơi! Mẹ ở nhà nhé! Con sẽ viết thư về ngay cho mẹ thôi!

Tôi ôm lấy mẹ tôi, dụi đầu vào bên vai mẹ. Mẹ tôi ẩy tôi ra mắng yêu :

  • Chà! bỏ ra nào !… Mày tưởng mày còn bé bỏng lắm đấy! Ít hôm nữa đã là cô giáo rồi đấy con ạ!

Giọng mẹ tôi đầy vẻ tự hào, nhưng trong đôi mắt mẹ nhìn tôi, tôi hiểu là mẹ tôi không nghĩ hẳn như thế. Không, đối với mẹ tôi, tôi vẫn là một đứa bé con thôi mà…

Bảo đưa tôi đến ga thì trời đã sáng hẳn. Em đứng bên tôi, thon thon xinh xắn, hai bàn tay nhỏ táy máy nghịch cái khóa ba-lô. Hôm biết tôi sẽ đi, em vui vẻ nhảy lên, “Ồ, thích quá nhỉ! Hay là em không thi vào Y nữa, em cũng đi với chị!”. Nhưng chỉ một lúc sau thì niềm vui ấy biến mất và thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp vẻ đăm chiêu suy nghĩ trên nét mặt của Bảo. Tôi biết nó buồn. Tôi đi thế là nó vừa phải xa một người chị, vừa phải xa một người bạn thân thiết. “Thôi thế là chẳng còn ai chơi với em, chẳng còn ai bảo em học nữa…”. Đôi mắt đen trầm lặng của em lúc này như nhắc lại câu nói đó.

  • Chị đi sẽ viết thư về cho em luôn. Ở nhà phải cố học thi đỗ.
  • Em nhất định đỗ mà. Rồi chị xem, cứ yên trí. Ừ, cố lên, mấy năm nữa là nhà ta có thầy thuốc rồi, ốm đau chẳng lo nữa…
  • Ứ ừ có y sĩ chứ ?…

Bảo thẹn thùng nói chữa lại, mắt long lanh cười và một niềm vui đột nhiên đến sáng bừng trên khuôn mặt tròn trặn, lúc nào cũng ửng hồng.

Chị ạ, hôm nọ em quên chưa nói với chị em đọc một quyển truyện Liên-xô, có một chị y tá đi cứu thương ngoài mặt trận. Em thích quá, em kể cho chị nghe nhé…

Bảo chợt ngừng lại, nhìn ra đường sẽ nói:

– Anh ấy đến kia kìa… Em đi về đây…

– Em cứ đứng đây lúc nữa hẵng về.

Không. Em phải về, em quên không bảo chị sáng nay em phải ôn tập ở tổ. Chị đi nhé, viết thư cho em… Bảo ôm lấy vai tôi, cắn một cái thật mạnh rồi rời tay tôi vội vã chạy đi. Mái tóc chấm ngang lưng những sợi tóc tơ hoe đỏ bay tung ra phía sau. Đôi chân thon thon chạy nhanh biến. Chạy được một đoạn em dừng lại đưa khăn lên vẫy tôi và nói những câu gì đó mà tôi không nghe rõ.

Thành đã đến. Hôm nay anh diện bộ com-lê mùa thu màu xanh nhạt, giày da nâu. Bộ quần áo nhạt làm nước da anh đã tái càng tái hơn.

Vẻ mặt tươi vui một cách miễn cưỡng, anh hỏi tôi vài câu lặt vặt rồi im lặng, đôi mắt lơ đãng nhìn đi đâu như không hề biết có tôi bên cạnh vậy.

  • Anh nói chuyện với em đi….!
  • Nói gì bây giờ? Mấy hôm nay anh nói mãi rồi thôi. Thú thực, anh chả muốn em đi như thế này đâu… Em làm như Hà-nội không có việc cho em làm, không có chỗ cho em thực hiện lý tưởng của người thanh niên ấy !

Anh nói rồi nhìn sang bên kia đường. Chỗ ấy trên một bức tường cao vừa quét vôi lại, vẽ một bức tranh cổ động lớn, màu sắc rực rỡ, phía dưới đề một dòng chữ đen rất đậm. “Bạn đã tham gia đợt thanh toán nạn mù chữ cuối cùng chưa?”.

Tôi hiểu Thành muốn nói gì và điều ấy làm tôi bực bội. Nhưng hôm nay là ngày vui, lại sắp xa nhau tôi không muốn để xảy ra điều gì nặng nề. Nhưng tự đáy lòng, tôi thấy giận Thành. Sao Thành lại nói những lời như thế, sao Thành không hiểu tôi là một đoàn viên thanh niên. Tôi đi theo yêu cầu của Đảng— ở đâu cần, tôi đến đó — điều ấy là vinh dự. Tôi không thể suy nghĩ trù trừ được. Và xét cho cùng ra, việc đi dạy học này cũng thật là thường, có thấm tháp vào đâu so với những chuyến đi khác của mọi người, của các bạn tôi. Chúng nó còn đi xa gấp bao nhiêu tôi, nhận những việc khó khăn gấp bao nhiêu tôi, mà không một phút trù trừ do dự. Những điều ấy làm tôi nhiều lúc thẹn thùng. Thế mà Thành còn muốn giữ tôi lại. Chao ôi, không được đâu!…

Đã sắp đến giờ tàu chạy. Nhà ga rộn hẳn lên. Ở cửa ga, người ồn ào chen lấn. Người nằm, người ngồi trên các ghế dài thỉnh thoảng lại nhỏm cả dậy. Những chiếc ba lô, va ly, bọc gói, tay nải, thúng mủng được nhắc lên đặt xuống. Những người mới đến, tíu tít mua vé, xem giờ tàu chạy, ăn quà, gọi nhau và chờ đợi. Cũng có những đôi đưa tiễn nhau, họ ngồi trong nhà đợi hoặc ra đứng sẵn bên đường sắt. Đứng gần tôi, cách một bức tường, một cô gái đi tiễn người yêu. Anh thanh niên dáng chừng là cán bộ thiết kế sắp đi đến một công trường xa. Tôi nghe họ nói chuyện về một nhà máy nào đó đang bắt đầu xây dựng. Họ vui lắm, cười nói rộn rã. Thành có vẻ khó chịu, cau mặt và kéo tôi đứng ra chỗ khác, đôi mắt tha thiết:

– Tàu sắp đến rồi… Hay là đừng đi nữa em ạ! Tôi nguẩy đầu, giọng hơi gắt gỏng:

– Sao lại thế hả anh? Em đã nhất định rồi cơ mà.

– Ừ, thì thôi, anh xin lỗi… Em đi.

Chúng tôi vào ga. Ngoài sân ga, một tiếng còi khàn khàn thét lên từ phía xa vọng lại. Tiếng ầm ầm mỗi lúc một gần. Trong ga mọi người đã xếp hàng ra cửa. Tiếng loa phóng thanh vang vang nhắc hành khách nội quy đi tàu. Nghe tiếng còi, lòng tôi bồn chồn quá. Tôi quay nhìn lại phía sau. Bao nhiêu là kỷ niệm. Đường phố, trường học, con đường lát gạch trong ngõ hẹp dẫn đến nhà tôi, nơi tôi đã đi về từ bé đến nay. Mẹ tôi chắc lúc này đang ra đứng cửa để lắng nghe tiếng còi tàu đưa con mình đi xa. Bạn bè tôi bao nhiêu đứa, đứa còn ở lại, đứa đã ra đi, mỗi đứa một dáng điệu, một lời nói, một cử chỉ hiện ra chúc tôi lên đường.

– Em đi nhé! Anh ở lại cố thi đỗ, thỉnh thoảng đến thăm mẹ hộ em.

– Em chỉ dặn có thế thôi à?

– À, viết thư nhiều cho em nữa…

Ngoài sân, tàu đã vào ga. Còi thúc lên một hồi dài rồi im bặt. Tôi rời tay Thành, chạy lại phía con tàu. Thành theo tôi lên tàu, nhưng anh đứng quay về phía khác, tránh mặt tôi. Chiếc khăn tay nhỏ màu xanh tôi khâu cho anh, anh cầm ở tay cứ rung lên. Tôi không nhìn vào cái khăn ấy nữa.

  • Em đi, nếu khó khăn không chịu được thì viết thư về cho anh biết, anh sẽ lên tận nơi đón em về.
  • Vâng. Tôi mỉm cười đáp vội.

Con tàu rùng mình chuyển bánh. Thành vội vã quay trở xuống. Trên sân ga, cái hình dáng dong dỏng cao của anh cứ nhỏ dần rồi khuất hẳn trong đám đông người.

Những hàng cây sấu, những nóc nhà ngói dập dềnh chạy thụt lùi phía bên ngoài. Rồi một hồi còi hú lên, đoàn tàu rầm rộ chạy qua cầu, gió sáng lùa vào toa xe lồng lộng. Sông Hồng đây rồi, sông Hồng với dòng nước đục ngầu nặng trĩu phù sa, những bãi dâu xanh ngăn ngắt, những chiếc thuyền buồm cánh dơi phăng phăng rẽ sóng. “Tạm biệt Hà-nội nhé! Tạm biệt…”. Tôi nói khe khẽ với mình như thế và thoáng nghĩ đến Thành, những lời nói năn nỉ của anh. Sao anh ấy lại như thế nhỉ? Tôi tự hỏi. Nhưng cái ý phân vân đó chỉ thoáng gợn lên trong tâm trí tôi rồi tan biến đi ngay giữa bao ý nghĩ rộn rực khác, như những bọt nước tan đi rất nhanh trên mặt sóng.

II

 Chiếc xe ngựa cũ kỹ có những cái ghế gỗ màu xanh đưa tôi về đến Liên-sơn thì chiều đã xế. Người mệt lử và đầy bụi, tôi xốc lại chiếc ba lô rồi rảo bước.

Đã lâu, tôi thường tưởng tượng cái làng Liên-sơn này trong óc. Bây giờ tôi mới thấy Liên-sơn thực như thế nào. Một con đường đê dài màu đỏ cuốn lên từng đám bụi hồng. Hai bên vệ đường là những bãi cỏ non. Đây đó mấy con bò cắm cúi gặm cỏ. Bên cạnh, mấy đứa bé quần áo nâu, nón lá đang mê mải chơi đùa. Hai bên vệ đường nằm thấp xuống là hai cảnh bãi rộng, ngô mía xanh ngắt. Phía xa tít dòng sông Đào loang một vệt trắng dài. Làng – những ngôi nhà đá ong cổ, rộng và thấp lợp lá gồi nằm dọc theo ven đê trong những lũy tre dày bao bọc. Xa gần, một vài cây cọ xòe ra những cái tán tròn bóng loáng. Đầu làng, sừng sững một cái lô cốt xám ngắt chẳng chịt những dây thép gai. Cỏ dại mọc lút lên; bụi đất lấp đầy cả những lỗ châu mai. Nóc lô cốt sứt mẻ, lở lói. Cỏ dại từ trên nóc rủ thòng xuống. Rêu từng đám từ dưới đất mọc lên. Phía trong, một mùi hôi mốc hăng xì bốc ra.

Tôi đang nhìn bụi hoa tầm xuân mọc cạnh cái lô cốt thì mấy đứa trẻ chăn bò đã toài từ dưới vệ đê lên, chạy lại phía tôi. Một đứa hỏi như hét:

  • Mấy giờ rồi cô ơi?

Tôi giật mình, đang lúng túng vén tay áo xem đồng hồ thì bỗng “chát, chát” những hòn đá dăm vụn lẫn cát từ đám trẻ đã ào ào ném tới, Tôi tối tăm cả mặt mũi không còn kịp tránh nữa thì một loạt những hòn đất khác lại tới tấp ném đến.

  • Đứa con nhà mất dạy nào thế?
  • Tôi chạy lên đê và quát lên. Sao tôi lại nói một câu xấu như thế nhỉ? Có lẽ tại tôi tức giận quá!
  • Đứa mất dạy… này đây!

Tôi vừa dứt lời thì một giọng the thẻ đáp lại. Và, từ vệ đê phía sau, một thằng bé loắt choắt có khuôn mặt nhọn hoắt như một lưỡi cày, da đen xạm, cái mũi nhỏ đen đen hơi hếch lên, chạy tới. Nó trạc độ mười hai mười ba tuổi. Mái tóc dày rậm cháy nắng vàng hoe như đuôi bò, rối bù chấm xuống tận mắt. Một đôi mắt nâu vàng thau nhấp nháy vừa nhanh nhẹn vừa lỳ lợm. Trên trán nó một vết sẹo dài bóng loáng. Nó mặc bộ quần áo nâu chỗ thì vá ríu lại bằng những nuộc chỉ dài; chỗ thì là một sợi dây buộc túm lại, chỗ thì rách sã. Quần nó xắn lên tận bẹn, ngang lưng đeo lủng lẳng một cái giỏ, tiếng cua bò lạo xạo ở trong. Nó xốc lại cái giỏ, giương mắt lên nhìn tôi hằn học và bướng bỉnh. Một tay nó cầm một hòn đá một tay nó cầm một đoạn dây thừng dài vụt vun vút vào không khí. Thế này là thế nào nhỉ? Tôi chưa biết xử trí ra sao thì nó đã giơ thẳng tay ném hòn đá vào giữa mặt tôi, rồi nhanh thoắt, nó nằm lăn xuống đất và cứ thế liệng vòng mãi xuống tận chân đê.

Tôi líu lưỡi nhìn theo nó và đưa tay ôm mặt. Từ gò má bên trái một dòng máu chảy ra nóng hồi. Thôi, thế là mặt mình có sẹo rồi! Nó là con nhà ai thế nhỉ? Tại sao nó lại ném mình? Nghĩ mãi không ra, tôi ngồi bệt xuống cỏ lấy khăn bịt lên má rồi gục đầu xuống gối.

Tôi cứ ngồi như thế không biết đến bao giờ nếu như không có tiếng guốc của ai đi nhè nhẹ phía sau, dừng lại và hình như hơi cúi đầu xuống. Tôi quay lại rồi vội vàng đứng dậy. Đó là một người đàn ông trạc ngoài năm mươi tuổi, mặc bộ quần áo nâu mới nhuộm đang đứng trước mặt tôi. Cặp kính trắng trễ xuống sống mũi. Đôi mắt một mí to tròn hấp háy nhìn tôi vừa như ngạc nhiên vừa như thương hại:

  • Có phải cô là cô Huệ về nhận công tác giáo dục phải không? — Giọng ông kéo

dài đầy vẻ long trọng. Vâng ạ!

– À, thế ra tôi đoán cũng thánh thật!

Ông reo lên rồi cất tiếng cười ha hả, đôi gò má nhô cao, mắt nheo tít lại, trông chỉ còn như một nét khía dài. Ông nói, giọng cởi mở:

– Tôi đoán chỉ nội chiều nay là cô về đến trường. Thế mà đúng thật! Chiều nay anh em đã hội ý qua loa rồi. Họp xong, tôi đảo ra đây xem cô đã về chưa, thế mà gặp! Thôi được, về rồi ta sẽ họp lại. Thế nào, cô có mệt lắm không, đi bộ hay đi xe ngựa? Kìa, cổ làm sao thế? Cháu bị…

Tôi đang ngập ngừng chưa biết nói thế nào thì ông đã nói tiếp sang chuyện khác:

  • Trường ta năm nay thế mà hay đấy: nam phụ lão ấu đủ cả. Trẻ em ở đây thích học

cô giáo lắm. Mấy hôm nay nghe tin cô giáo về dạy, chả hôm nào không đến hỏi thăm đâu. Cô năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? À, mà gia đình nhà ta, ông cụ, bà cụ ở cả Hà-nội chứ cô? Từ lúc gặp người đàn ông tôi thấy người nhẹ hẳn đi. Bác có phải là… ông hiệu trưởng?

  • Đúng! Tôi đây, Nguyễn Văn Trí, cô biết rồi chứ?
  • Vâng. Cháu có nghe nói.
  • Ừ, trước lạ sau quen, ra công tác rồi cô mới thấy bán anh em xa mua đồng nghiệp gần, có thể mới làm việc được.
  • Tình hình trường ta thế nào bác nhỉ?
  • À, nói chung thì tốt lắm cô ạ. Trường có cả thảy tám lớp, tám giáo viên, ngót bốn trăm học sinh, to đấy chứ…

Vừa nói ông vừa giơ tay gõ gõ lên trán vẻ nghĩ ngợi. Một lúc lâu ông chậm rãi nói, giọng nhỏ hắn lại:

  • Có chuyện này tôi phải nói với cô… Cô còn trẻ, tôi coi cô cũng như con, thực đấy, con gái tôi ở nhà có hai con rồi kia mà… Là, ở hội đồng ta năm nay có một đồng chí “gay” lắm. Phải đặt kế hoạch giúp đỡ thế nào chứ không thì hỏng. Tôi nói chuyện này, cô nghe đâu bỏ đấy chứ đừng lời qua tiếng lại mà phiền lắm.
  • Vâng. Bác cứ nói…
  • Ừ, ấy là dặn trước thế. Anh ta tên là Chiếm – người địa phương đây. Năm ngoái anh ta dạy mãi tận Hiệp- dâu, năm nay chả hiểu thế nào lại về đây. Ông hiệu trưởng Hiệp-dâu năm ngoái là bạn thân của tôi nên tôi còn lạ gì anh ta. Anh ta tuy là đoàn viên thanh niên lao động đấy, nhưng cô cứ gặp mà xem, khó chịu lắm. Giọng ông nhẽo ra tỏ vẻ khinh bỉ và chê trách:

Trên dưới, anh ta bất chấp tuốt, vuốt mặt chả nể mũi. Ông bạn tôi năm ngoái sống dở chết dở vì anh ta đấy! Hơi một tí là anh ta đè ra phê bình. Rồi anh ta chế cái này, bới móc cái kia cứ y như hai gái lấy một chồng. Không chịu được, ông bạn tôi làm đơn xin đổi anh ta đi trường khác. Cô có biết anh ta nói với trên như thế nào không? Anh ta bảo : “Mọi việc tôi làm đều đúng cả, ông ấy không bằng lòng thì cứ việc đi trường khác”. Cô xem thế có uất không? địa vị cô, cô có chịu được không? Thế mà ông bạn tôi đành phải chịu đấy. Gia đình, vợ con, quê quán ông ta ở cả đấy, ông ta đi làm sao được? Năm nay anh ta về đây. Làm việc với người như thế cũng ngại lắm. Cô phải chú ý.

  • Vâng!

Tôi đáp khẽ và thấy ngại ngùng quá. Sao bạn bè đồng nghiệp mà lại đối xử với nhau như thế nhỉ? Không biết rồi mình sẽ sống với họ ra sao?

Hết dốc, ông Trí dẫn tôi đi vào một con đường nhỏ nằm giữa hai hàng tre. Tre hai bên đan vào nhau, hình như ánh nắng ít lọt xuống con đường này nên mặt đất mát lạnh. Từ những đường xóm nhỏ, sau các cánh liếp, có những mái tóc lấp ló và những đôi mắt tròn xoe chăm chú nhìn tôi. Tiếng xì xào :

  • Cô giáo đấy chúng mày ạ!
  • Xinh quá nhỉ. Cứ y như trong phim xi-nê ấy. Trắng ơi là trắng!
  • Tao thích bộ tóc dài quá!
  • Hà-nội đặc !

Người ta chạy ra xem mỗi lúc một đông, chỉ trỏ, ngắm nghía, bàn tán và cười khúc khích. Trong đám người có những cái bóng nhỏ bé, những đôi mắt ngây thơ đăm đăm nhìn tôi và tiếng chào khe khẽ:

  • Cô ạ! Cô ạ!

*

*    *

Sau bữa cơm tối, ông hiệu trưởng bảo tôi:

  • Cô ở nhà nằm nghỉ cho đỡ mệt, tôi ra đằng này một chốc. Nói rồi ông vội vã đi ra

cổng. Tôi thu dọn nhà cửa rồi lấy giấy viết thư cho Thành.

Anh ơi, em đã về đến Liên-sơn rồi. Mọi việc xảy ra khác hẳn như em nghĩ. Em buồn lắm. Suốt từ chiều đến giờ nước mắt em lúc nào cũng ưa ứa. Em nhớ anh, nhớ mẹ, nhớ nhà quá! Em chưa biết phải làm những gì những chắc rằng gặp nhiều khó khăn vì làng này bị tạm chiếm lâu, tình hình phức tạp. Trẻ con ở đây ghê gớm lắm. Vừa về đến làng em đã bị…

Nước mắt bất giác ứa ra. Tôi thấy cảnh gia đình vào mỗi buổi tối. Cái đèn to treo ở giữa nhà. Mẹ ngồi se gai bên cạnh lối đi. Thằng Khoa ngồi bên bàn học bài. Bảo thì vừa đan vừa đọc sách. Tiếng máy kêu cành cạch, cành cạch. Và Thành, những lời anh nói với tôi : “Rồi đây chúng mình sẽ có một gia đình êm ấm, ngoài giờ làm việc chúng mình đi chơi, đi xem phim, anh tin bàn tay nội trợ giỏi của em sẽ làm nên những bữa ăn ngon…”.

Những ngày còn ở nhà, cảnh gia đình sao bình thường, những câu nói của Thành chỉ làm tôi bực mình: “người thanh niên mà chỉ mơ ước có thế thôi ư?”. Nhưng giờ đây, ngồi trong một ngôi nhà lạ, chưa biết sẽ làm gì, trên mặt thì lại vừa bị một vết đau thì những cảnh ấy, những lời nói ấy sao thân thiết, đẹp đẽ và có sức lôi cuốn đến như thế… “Em đi, nếu khó khăn không chịu được thì viết thư về cho anh biết, anh sẽ lên tận nơi đón em về… Việc gì, ở đâu chả là phục vụ…”. Những lời nói của Thành cứ trở về, trở về. Đầu óc tôi rối lên. Mới từ sáng đến giờ, mà sao tôi thấy tâm trạng mình như bị đảo lộn cả lên, đột ngột quá thể. Nhìn bức thư đầy những chỗ rập xóa lộn xộn, tôi lại xé đi, lấy ra tờ giấy khác nhưng chưa viết được gì thì ngoài sân đã có ánh đèn pin loang loáng, tiếng guốc, tiếng dép lẹp kẹp, tiếng ho sù sụ, mùi thuốc lá cuốn hắc xì. Tiếng ông hiệu trưởng từ trên hè cao sang sảng vọng xuống :

  • Mời các đồng chí vào cả đây! Nụ ơi, đem hộ thầy ấm nước.

Gọi rồi ông vào nhà, mở rộng cánh cửa, bảo tôi:

Các đồng chí giáo viên trường ta cả đấy, cô giáo ạ! Một người thanh niên cao lớn, vai rộng, nước da ngăm đen, mặc áo sơ mi trắng đã vá vai, tay xắn cao, quần xanh bạc, bước vào. Anh dừng lại trước mặt tôi. Đôi mắt to tươi cười, đôi lông mày rậm hơi rướn lên có vẻ ngạc nhiên, lạ lùng. Tôi cảm thấy đôi mắt ấy vừa như muốn nói “À, ra cô đấy!” vừa như muốn hỏi “cô là người như thế nào, cái gì đã đưa cô đến đây?”. Những ngón tay đen thô cứng lùa vào giữa mái tóc bồng quăn, xóc xóc mấy cái rồi ép chúng xuống. Nhưng chúng cũng bướng bỉnh lắm, chẳng chịu ép xuống mà lại bồng cao hơn.

  • Chào chị, chị vừa về?
  • Vâng. Chào anh!

Tôi vội vã chào trả lời rồi nhìn đi chỗ khác. “Anh ta đấy”. Nhớ lại lời nói lúc chiều của ông Trí, tự nhiên tôi thấy khó chịu. Anh ta thì như không biết điều đó, chạy lại kê dọn bàn ghế, lấy khăn lau bàn rồi giở báo ra đọc. Ngoài sân, mấy người nữa cũng ùa vào. Một chị trạc ngoài ba mươi tuổi, người nhỏ nhắn, mặt trái soan, nước da tai tái – nước da của người đã bị ốm ngã nước, đôi gò má lấm tấm những nốt tàn nhang, đôi mắt nâu ấm áp và trong sáng. Thấy tôi, chị chạy lại, hàm răng đen nhức cười cởi mở.

  • Cô vừa về hả?

Chị nắm tay tôi hỏi: “Chỗ ăn chỗ ở ổn định chưa?” và tiếp theo, chị hỏi tôi về hoàn cảnh gia đình, có ý nghĩ gì khi về làng… Rồi chị khoe sáu đứa con và mong có đứa được vào lớp tôi. Một lúc sau, như thân thiết tự bao giờ, chị ôm lấy vai tôi, hỏi khẽ:

  • Thế đã đặt vấn đề ở đâu chưa?

Tôi ngượng nghịu lắc đầu. Chị đưa tay chỉ vào tận mặt tôi, đe dọa:

Nhớ nhé, hễ cứ nói dối thì tôi bảo ! Cứ gọi là ! … Vào tiếp theo chị là mấy người đàn ông nữa đã đứng tuổi. Người mặc tây, người mặc ta, nhưng đều rất gọn ghẽ. Sau cùng, là một ông cụ. Ông cụ có vẻ như đang hả hê điều gì, móc cái áo tơi vào cánh cửa, chùi dép rất lâu ở bực thềm rồi chậm chạp bước vào, cười rất rộng.

  • Cô giáo mới về?
  • Chào bác ạ!

Cụ hỏi tôi rồi cúi xuống lay chân ghế cẩn thận trước khi ngồi, nâng cái điếu cày lên, bật đóm tanh tách, rít một hơi dài. Đôi mắt mờ đục, nhăn nheo nhắm tít lại. Khuôn mặt chữ “dụng” nhô ra phía trước, đôi lưỡng quyền cao, cái cằm lưa thưa, mấy sợi râu cũng nhô ra trong những tiếng ho sặc sụa. Một lát, đôi môi khô héo khẽ hé ra, cụ lim dim đôi mắt thở lên từng làn khói xanh mờ. Khi những đám khói ấy tan hết, cái say của điếu thuốc lào đã ngấm, cụ lấy tay che miệng, ngáp, kéo vạt áo lau mắt rồi hỏi tôi:

  • Tôi hỏi khí không phải chứ có người ở đâu ta? Ông cụ, bà cụ nhà ta làm gì?

Lúc này ông Trí đã châm xong ngọn đèn lớn treo ở giữa nhà, nhanh nhảu đỡ lời:

Cô ấy người Hà-nội đấy ! Nào, các đồng chí, tôi xin làm mục giới thiệu. Vâng, kính lão đắc thọ, tôi xin cứ từ trên xuống dưới. Đây, lão đồng chí Thuận, gần sáu mươi tuổi, trên hai mươi năm trong nghề. Sau đến tôi, tròn năm mươi, tuổi nghề cũng kha khá. Còn đây là đồng chí Cần dạy học từ ngày hòa bình. Đây là bác Cường, bác Trà ngót nghét bốn mươi. Còn đây là đồng chí Nho chẵn ba mươi, đồng chí Chiếm thanh niên trẻ trung hai mươi nhăm, người địa phương ta và cuối cùng là nữ đồng chí Huệ, mười chín tuổi… À quên, còn vị đại biểu kính mến của chúng ta đây là nữ đồng chí Bái chi ủy viên phụ trách văn hóa xã đến họp với hội đồng chúng ta…

Mấy người vỗ tay rốp rốp. Ông cụ Thuận xoa xoa hai bàn tay vào nhau, cười xuýt xoa :

– Vui vẻ quá!

Tôi ngầng lên lại vội vàng cúi xuống. Chiếm đang đăm đăm nhìn tôi như dò xét điều gì. Cái nhìn mới khó chịu làm sao ! Tôi quay đi và chợt nhớ đến Thành. Anh ấy chẳng bao giờ nhìn tôi như thế, đôi mắt anh lúc nào cũng dịu dàng.

Ông Trí loay hoay xếp dọn khay chén rồi gọi với xuống bếp:

  • Nụ ơi! được nước chưa con?
  • Dạ, thưa thầy đây ạ!

Một em gái nhỏ hình như đã đợi sẵn ở cửa từ bao giờ, vừa nghe dứt tiếng gọi đã thấy nó xách ấm nước chạy vào.

– Nào, các đồng chi, ta uống nước, hút thuốc rồi bắt đầu vào… Đồng chí Huệ có mang đủ cả giấy tờ đấy chứ. Được, tốt lắm… Nào, ta bắt đầu…

Tuyên bố rồi ông cất cao giọng nói:

  • Báo cáo các đồng chí, đây là buổi họp đầu tiên của hội đồng ta. Đồng chí Chiếm,

thanh niên làm thư ký cho. Bây giờ đã 8 giờ 25, nhưng cứ ghi cho là 7 giờ cho sớm sủa. Chương trình buổi họp gồm có:

– Một là: Chuẩn bị khai giảng.

– Hai là: Phân công phụ trách các lớp.

– Ba là: Phân công phụ trách các công tác ngoại khóa…

– Bốn là: Thiết bị trường sở, xây trường.

– Năm là: Ổn định sinh hoạt, ổn định chế độ hội họp, chỗ ăn ở cho giáo viên, linh tinh, phê bình… Các đồng chí cho ý kiến như thế đã đủ chưa?

Tuyên bố xong, ông ghếch kính lên sống mũi, nhìn mọi người. Mọi người ngừng ghi chép, yên lặng suy nghĩ. Người kéo điếu hút, người uống nước, người nhìn lên mái nhà lầm bầm nói điều gì trong miệng. Ông cụ Thuận nâng chén nước nhấp giọng gật gù:

  • Chương trình thế là chí phải! Có cốt cách lắm!

Chiếm như đang nghĩ một điều gì ghê lắm, tay anh cầm cái bút chì gạch ngang gạch dọc trên tờ báo những hình nhằng nhịt vô nghĩa. Ánh đèn chói quá, tôi giơ tay lên che mắt và nhìn nghiêng, chợt thấy ở túi áo ông hiệu trưởng có đến bốn cái bút máy, bên cạnh ông, một cái cặp da căng phồng.

Vẫn thái độ vui vẻ và nụ cười tươi tắn trên môi như lúc đầu, chị Bái chờ cho mọi người có ý kiến xong mới trình bày ý kiến của chi bộ về việc xây trường: xã nghèo, quỹ văn hóa xã hội ít nên không cho được gì ngoài ít gạch ngói làm trụ sở còn thừa và những thứ sẵn có: cát ở dưới sông, đá vôi phá ở núi, nhưng cũng khó khăn lắm vì không có nhân công. Nhân dân cũng có thể tham gia được nhưng phải làm công tác tư tưởng giỏi. Cho nên việc xây trường tự túc là chủ yếu. Sau đó chị bàn về việc trường đỡ đầu hợp tác xã Từ đường – một hợp tác xã mới xây dựng yếu về mọi mặt.

Giọng chị nhỏ và trầm. Nụ cười tươi tắn luôn luôn nở trên môi, lời nói có tình có lý làm cho những câu nói của chị trở nên hấp dẫn đậm đà. Tôi ngây người ra ngắm chị. Tự nhiên tôi thấy chị đẹp quá – một vẻ đẹp mà lúc trước tôi không thấy – một vẻ đẹp khó diễn tả, nó như từ bên trong, như từ những lời nói tỏa ra làm thay đổi những hình dáng bên ngoài. Nụ cười thơ thới, nhẹ nhàng đôi gò má ửng hồng, những nốt tàn nhang không làm xấu da mặt mà lại như một thứ trang điểm, một thứ duyên thầm mà chỉ riêng chị mới có. Khi nói, đôi môi chị he hé như đang cười. Đôi mắt long lanh những tia sáng tự tin làm cho người nghe cảm thấy câu chuyện dù khó khăn đến đâu cũng trở nên giản dị, dễ dàng, người phấn chấn lên và tin chắc là mình làm ngay được. Tôi thích nghe chị nói mãi và từ đáy lòng tôi vừa thấy mến vừa thấy phục chị

Tan họp thì đêm đã khuya lắm. Mọi người ra đến cổng thì Chiếm quay vào nhà, đột ngột bảo tôi: Tôi hỏi chị cái này nhé!

  • Vâng, anh cứ hỏi.

Chuyện gì thế nhỉ? Tôi vừa khó chịu vừa ngại quá khi thấy Chiếm đứng sát vào người tôi.

  • Có phải mấy đứa trẻ con trên đê vừa ném chị phải không?
  • Vâng. Sao anh biết? Anh trông thấy à ?
  • Không, tôi đoán thế. Trẻ con ở đây hư lắm, cũng tại người lớn không biết giáo

dục mà thôi. Mới về mà đã gặp chuyện thế thì cũng phiền đấy. Đừng buồn chị ạ, tôi cũng không biết, không mang thuốc đến. Chị chịu khó, sáng mai tôi đến trạm xá xin thuốc… Bây giờ chỉ cần giữ cho khỏi nhiễm trùng… Thôi, chị đi nghỉ không có mệt, hôm nào rỗi rãi ta sẽ nói chuyện sau.

Nói rồi anh vội vã quay ra. Nhìn theo anh, tôi chỉ còn thấy một mái tóc bồng rối và một miếng vá to tướng, vụng về, trên lưng áo.

*

 *      *

Cô ạ !

Cô ạ! Cô ạ!

Tiếng chào nhao nhao nổi lên khắp sân trường khi tôi vừa đến. Tôi gật đầu chào trả lại rồi nhìn tránh đi chỗ khác. Trong đám học sinh có những em cao hơn tôi đến một đầu.

Sáng nay trời đẹp, bầu trời màu xanh nhạt. Nắng vàng dịu, gió hơi se lạnh. Học sinh tập trung đông đủ ở sân đình để làm lễ khai giảng. Tản ra khắp sân có tốp năm, tốp bảy nói chuyện rì rầm, cười đùa rúc rích. Các em đủ các lứa tuổi, hình dáng. Em thì cao to, cố làm ra vẻ nghiêm trang như một người lớn; em thì nhỏ loắt choắt; em thì bạo dạn, nghịch ngợm luôn chân luôn tay, em thì nhút nhát đứng nép vào sau lưng bạn. Các em từ khắp các nơi trong làng đến. Tất cả đều sạch sẽ gọn gàng. Nhìn các em tôi nhớ đến Khoa và Bảo. Chắc lúc này hai em tôi cũng đang đến trường. Điều ấy làm cho tôi thấy có cái gì gần gũi, thân thiết đối với các em ngay tự lúc đầu. Nhưng có điều làm tôi lo ngại là có nhiều em bị đau mắt. Có những đôi mắt trắng đục, tròng mắt đỏ hoe và ướt át như lúc nào cũng đang khóc. Tôi ghi vào sổ tay: “Phải chú ý đến những đôi mắt” tuy chưa biết sẽ phải làm gì.

Học sinh đến mỗi lúc một đông. Còi tập hợp chào cờ rồi tôi vẫn không thấy thằng bé có khuôn mặt nhọn hoắt và mái tóc vàng hoe đã ném tôi hôm qua đâu. Thế có nghĩa nó không phải là học trò. Điều ấy làm tôi vừa thấy nhẹ nhõm yên tâm vừa thấy lo lắng. Các giáo viên đã đến đông đủ. Ông hiệu trưởng lên khai mạc buổi lễ và đầu tiên là đọc thư của Ty giáo dục vừa gửi về:

“Cuộc cách mạng của chúng ta có ba giai đoạn: một là đánh đổ thực dân đế quốc, giành độc lập tự do cho nước nhà làm kháng chiến thắng lợi. Hai là đánh đồ phong kiến thống trị thực hiện quyền làm chủ. Ba là xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến lên xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Kế hoạch hai năm hàn gắn vết thương chiến tranh bước đầu khôi phục kinh tế miền Bắc của chúng ta đã hoàn thành thắng lợi. Giờ đây chúng ta bước vào xây dựng kế hoạch ba năm, tiếp tục khôi phục kinh tế miền Bắc, đẩy mạnh công nông nghiệp, đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội.

Muốn xây dựng được chủ nghĩa xã hội tiến lên chủ nghĩa cộng sản, nhiệm vụ của chúng ta là đào tạo và giáo dục những con người mới có tư tưởng, trí thức, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ ấy là của nhà trường, giáo viên và học sinh. Các đồng chí giáo viên và các học sinh phải nhận rõ nhiệm vụ to lớn đó của mình. Phải cố gắng học tập, lao động, tu dưỡng để trở thành những con người toàn diện, con người của chủ nghĩa xã hội. Toàn dân ta đã bước vào kế hoạch ba năm được chín tháng rồi, nhưng trong các trường học, hôm nay mới là ngày bắt đầu…”.

Đứng trên bậc thềm cao, một tay nắm chặt lấy mép bàn một tay nâng kính ghếch lên sống mũi, ông Trí đưa mắt nhìn khắp sân trường, không đọc mà thong thả nói. Giọng ông vang vang gãy gọn, lưu loát, hình như ông đã thuộc lòng những câu đó nên tuy có tờ thư trải trước mặt, mà suốt từ đầu đến cuối, ông chẳng hề ngó đến. Đám trẻ chăm chú nghe. Những em lớn tì giấy lên đầu gối ghi vội ghi vàng; những em nhỏ mồm hơi há ra, ngước mắt lên nhìn chăm chắm. Thỉnh thoảng đến những chữ khó hiểu quá, các em quay lại nhìn nhau, xì xào… Sân đình lúc ồn lên, lúc im lặng đến nghe rõ cả tiếng sóng nhỏ ngoài hồ đập nhè nhẹ vào bờ và tiếng những cái lá đa to vàng liệng rơi trên bãi cỏ.

Gần trưa, lễ khai giảng xong, tôi dẫn học sinh về nhận lớp. Lớp tôi dạy là một gian nhà thờ họ. Ở đây, người ta cúng vào ngày rằm mùng một và mỗi năm một ngày giỗ họ vào tháng bảy. Đó là một gian nhà kiểu cổ chạy dài có nhiều cột. Gian nhà có hai lớp. Lớp ngoài là trường học, lớp trong có bệ thờ cúng. Ngăn cách giữa hai lớp là một cái sân hẹp, đầy rêu.

Gian làm trường học vừa được quét vôi lại. Người quét vôi không đều tay nên chỗ mỏng chỗ dày, chỗ nham nhở, chỗ vôi nhỏ xuống thành từng vũng. Trên tường, mưa từ những chỗ dột chảy dài xuống và rêu theo nhau mọc lên từng đám. Một cái bảng, nguyên là một cái mặt bàn cũ tháo ra, nước sơn đã bạc, nhẵn thín dựng vào tường, hai chân là hai đoạn tre gộc. Trên bảng còn ghi một bài toán làm từ năm ngoái. Bàn ghế thầy giáo chưa có. Bàn ghế học sinh cũng thiếu, cái ngắn cái dài, cái cao cái thấp đủ các loại. Ghế học sinh là những mảnh ván kê trên hai chồng gạch.

Sau khi cùng các em kê dọn, sắp xếp chỗ ngồi, tôi bắt đầu cho học nội qui và chép thời khóa biểu. Trước khi dẫn học sinh về lớp, ông Trí dặn tôi: “Thế nào cô cũng phải nói vài câu phi lộ nhé! Nói thế nào thì nói, nhưng phải chú ý nhấn mạnh cho các em thấy sự khó khăn của chúng ta hiện nay. Bàn ghế trường sở chưa tốt, nhưng thế là xã ta đã cố gắng lắm rồi. Mới vài năm hòa bình mà đã được thế. Con số học sinh so với trước thật là phát triển nhảy vọt. Cô có biết không, trước kia xã này làm gì có trường học…”.

Tôi ngạc nhiên thấy ông dặn tôi những lời ông vừa nói với cả trường. Ông đãng trí hay là ông nói thêm như thế để tôi khỏi nản lòng khi đến dạy ở một nơi còn nhiều thiếu thốn như thế này? Tôi không hiểu nhưng thấy nói thêm những điều ấy cũng tốt nên tôi vẫn nhắc lại một lần nữa những lời ông Trí đã nói. Cuối cùng tôi nói thêm :

Có một điều tôi mong các em hãy coi tôi như một người ruột thịt, như một người chị trong gia đình, các em đừng sợ sệt gì cả…

Những đôi mắt tròn sáng lên, ngơ ngác nhìn tôi. Có đà, tôi hăng hái nói tiếp :

– Các em ngạc nhiên lắm à? Có gì lạ đâu… Trước tiên là vì tôi cũng có những đứa em bằng các em, cũng đi học như các em. Hai là có như thế thì chúng ta mới giúp đỡ nhau học tập được. Còn nếu các em cứ e ngại, cứ sợ sệt thì làm sao mà hiểu nhau cho được, làm sao mà học tập tốt cho được, có phải không các em?

– Phải ạ!

Tiếng đồng thanh đáp lại. Những đôi mắt hết quay nhìn nhau lại quay nhìn tôi, long lanh sáng. Không biết nói thế nào nữa, tôi đứng dậy xóa bảng và bài học đầu tiên bắt đầu.

III

Tôi về Liên-sơn thấm thoát đã được gần một tháng. Những ngày đầu của một người giáo viên thật là bận rộn, bỡ ngỡ và nhiều niềm vui lạ. Tôi đã biết cách soạn bài và bớt lúng túng khi lên lớp giảng. Tôi đã làm quen được với học sinh và hiểu sơ sơ một số nét lớn về tâm lý của các em. Về phần các em, không khí xa lạ lúc đầu không còn nữa. Các em đã dám đùa nhau trước mặt tôi, dám mách tôi cả những chuyện riêng của nhau và giờ chơi đã xúm quanh bắt tôi kể chuyện Hà nội. Trong giờ sinh hoạt chiều thứ bảy vừa rồi có em đã đứng dậy mạnh dạn bảo tôi hát. Những chuyện nho nhỏ ấy làm tôi bớt buồn chán trong những ngày đầu và nhanh chóng làm quen được với cuộc sống ở cái làng còn nhiều khó khăn này. Thực thà mà nói, những hôm đầu, mỗi khi đêm tối xuống, tôi lại thấy sợ – chỗ nào cũng tối như bưng lấy mắt… Rồi, trong những bụi bờ rậm rạp tiếng con gì sột soạt làm tôi nghĩ đến rắn rết. Đường cái thì lầy lội phân trâu bò… Những cái giếng xa nhà, mệt mướt mồ hôi ra mới gánh được một gánh nước. Còn ăn uống, những thức ăn tôi không quen…

Nhân dân hiếu học, yêu mến thầy và rất quý những người ở xa đến làng dạy học. Nhưng không phải tất cả mọi người ở trong làng đều như thế. Có người còn tỏ ra khó chịu khi thấy nước da của tôi trắng, khuôn mặt tôi xinh đẹp (tôi rất ngượng khi phải nói ra điều này). Mỗi khi thấy tôi đâu là họ lại tò mò, theo dõi. “Cô ấy mà biết cuốc đất à? Cô ấy biết thổi cơm à? Cô ấy có biết gánh nước không?” Biết trả lời mọi người như thế nào được? Mỗi khi gánh đôi thùng ra giếng là tôi lại tự nhủ: “Phải cố lên, phải cố lên nhớ” . Rồi kín đáo đệm một cái áo xuống dưới vai áo và cắn răng lại gánh đôi thùng nước bước lên từng bực gạch (vì ở nhà ít khi gánh nên tôi gánh rất yếu, gần như không biết gánh). Tôi cố gắng mỗi ngày gánh nhiều thêm một ít và gánh một ngày nhiều lần. Dần dà chẳng bao lâu tôi đã gánh được đầy cả hai thùng như những người khác. Sung sướng và tự hào, tôi bước đi thoăn thoắt mặc cho nước té tát ra hai bên mạn thùng, xuống đất. Mọi người không để ý đến tôi nữa, và trong những đôi mắt hay nghi kỵ đã có ít nhiều cảm thông quý mến.

Những hôm ấy, ngày nào chị Bái cũng đến thăm tôi. Khi thì để kể cho tôi nghe một vài câu chuyện vừa xảy ra trong hợp tác, khi thì đem đến cho mấy quả ổi, một ít táo chị vừa hái trong vườn, khi thì để dẫn tôi đến thăm một số gia đình mà tôi sẽ cần đến: Cô My, y tá hợp tác xã, đồng chí phụ trách bổ túc văn hóa, và chị đưa thư…

Có cái gì mắc míu cô cứ nói với chị, chị em ta cùng bàn bạc mà giải quyết. Cô ở thành phố mới về nông thôn thể nào cũng gặp nhiều khó khăn, không quen đấy. Phải chịu khó em ạ. Chị đang đi tìm nhà cho cô đây. Cô cứ yên tâm, chị sẽ làm cho cô một chỗ ở thật tốt. Nhà chị chật lại đông cháu quá chỉ sợ các cháu làm phiền cô chứ không thì ở nhà chị, có chị có em vui quá! À, em không quen tắm ngoài hồ phải không? Đến nhà chị, có chỗ tắm tốt lắm…

Chị săn sóc, hỏi han và giúp đỡ tôi như một người chị gái. Gần một tuần thì chị tìm được nhà cho tôi… Đó là nhà chị Hà – một người bạn thân của chị. Chị Hà có chân trong chấp hành phụ nữ xã và là tổ trưởng sản xuất của hợp tác xã Từ-đường. Chồng chị đi vắng xa. Chị ở nhà với mẹ và một đứa con gái nhỏ năm nay học lớp một. Chị ở trong một ngôi nhà năm gian, tường đá ong, mái lợp ngói mũi hài, cửa gỗ lim đen bóng, sân gạch trước nhà rộng thênh, có bể nước, vườn rau xanh tốt. Ngôi nhà đẹp quá! Thấy tôi ngắm nghía, bà cụ mẹ chị Hà chạy ra đon đả nói:

  • Cô giáo ơi, nhờ ơn Đảng, ơn Chính phủ, nhà này là nhà “quả thực” đấy! Chứ nhà

cháu đâu có giàu như thế này. Nhà cháu ấy à, ở tận cuối xóm kia, giá mà còn, cô giáo vào thì cứ gọi là đụng đầu…

Vừa nói, bà cụ vừa giơ tay gạt ngang mấy cái trước mặt như muốn vẽ cho tôi thấy hình dáng ngôi nhà trước kia của cụ nó như thế nào. Đó là một bà cụ già bé nhỏ, nhanh nhảu, mau miệng, dễ cởi mở và thân tình ngay với người lạ. Nhưng chị Hà lại khác hẳn mẹ. Người chị đẫy đà chắc chắn, khuôn mặt tròn trặn, nước da nâu hồng. Chị có một vẻ đẹp thuần phác, khỏe mạnh của người đồng ruộng. Chị hay cười, nhưng ít nói. Hình như trước khi nói bất cứ câu gì chị cũng phải nghĩ “có nên nói hay không”. Có nhiều khi trước một câu hỏi đáng lẽ phải trả lời, thì chị chỉ nhoẻn miệng cười, nụ cười hơi bỡ ngỡ, ngượng ngập vừa như có ý nói “có thế mà cũng phải hỏi, vừa như muốn phân trần “hỏi tôi thế thì tôi trả lời làm sao được?”.

  • Cô giáo ở nhà em thì vất vả đấy!

Hôm đầu khi tôi dọn đến, chị chỉ nói có thế. Tôi tưởng đâu như chị không bằng lòng cho tôi đến ở, nhưng những việc làm của chị thì lại nói chị rất vui lòng và quý mến tôi. Nhà chị có hai buồng, một buồng chứa thóc giống của hợp tác, một buồng chị ở, bà cụ ở gian giữa. Chị nhường cho tôi vào ở trong buồng chị, đồ đạc đầy đủ, một cái giường, một cái bàn, một cái ghế đẩu, còn chị thì ra ở gian ngoài với mẹ, đồ đạc vặt vãnh đem bớt xuống bếp và để sang buồng bên kia, cạnh quầy thóc (trừ một cái gương hình chữ nhật to bằng hai bàn tay nhiều chỗ đã ố vàng là vẫn treo ở gần cửa sổ. Trong gương vẽ một cành hoa trắng, có hai con chim đậu trên cành). Tôi tháo cái gương đem treo ra ngoài nhà, chị lại đem treo vào chỗ cũ.

  • Cô giáo để đấy mà soi… Gương này là gương kỷ niệm đấy. Nhà tôi mua cho tôi

hôm cưới…

Nói rồi chị cười, nụ cười ngượng nghịu, bối rối như chị đang nghĩ “nhẽ ra mình không nên nói thế…”. Chị còn trẻ lắm, đôi má vào buổi trưa thường rực lên những ánh hồng. Nhưng hình như ít khi chị soi gương. Mặt gương phủ một lớp bụi dày. Tôi lau lại gương và nhiều lần đến soi gương.

Trong gương, một cô gái có khuôn mặt trái soan, trắng nõn, cái mũi dọc dừa nhỏ nhắn hòa hợp với đôi môi đỏ – nhưng bên má trái lại có một vết sẹo nom rất chướng – hiện ra. Đôi mắt cô ta màu nâu xám chăm chú nhìn tôi, ngơ ngác như muốn hỏi “Tại sao mặt tôi lại như thế?”. Ừ, tại sao, tại sao nhỉ? Nó là ai? Tại sao nó lại ném tôi? Bận rộn quá, nhiều lúc tôi đã quên đi, nhưng vết sẹo không sao làm tôi quên cho được mỗi khi có ai hỏi tới hoặc đến trước gương.

Buổi sáng chủ nhật đầu tiên tôi vừa ngủ dậy, mở cửa ra đã nghe chị Hà hỏi:

– Hôm nay chủ nhật mà cô cũng dậy sớm thế?

– Tại những con gà của chị đấy!

Thế à ? – Chị Hà vừa nói vừa cười – Sao cô không bảo trước để tối qua tôi đem mà cắt cổ chúng nó đi.

  • Hôm nay cô có bận gì không?
  • Không? Chị bảo em gì kia ?
  • Bảo cô đi thăm đồng với tôi cho vui…

Vừa nói chị vừa buộc cái giỏ con vào thắt lưng, đội nón và thoăn thoắt đi ra cổng. “Mình biết gì mà đi thăm đồng, hôm nay không có bọn trẻ buồn quá, ừ thì đi…”. Tôi nghĩ vậy rồi chạy theo chị.

Xã mình có cả thảy hơn bảy trăm mẫu ruộng. Bình quân mỗi người hai sào tám. Trước kia tất cả ruộng ấy nằm trong tay thằng chánh Hào và thằng chánh Kiêm. Trước kia ruộng làm có một vụ, bây giờ làm cả hai vụ, có một số ba vụ. Hơn một trăm mẫu bãi trồng mía, ngô, khoai, rau xanh, đồi thì chè tươi, sắn, sang năm tới sẽ trồng cà phê, cô có biết uống cà phê không?

Vừa đi chị vừa kể cho tôi nghe mọi chuyện trong làng. Thỉnh thoảng, chị dừng lại để trả lời những câu hỏi của những người gặp dọc đường. Hỏi về công việc sản xuất, về phân bón đồng, về lợn… và có người còn nói với chị về một nhà nào đó hôm qua vừa cãi nhau…

Chị Hà đi, vừa hỏi vừa nói. Cái vẻ chậm chạp, ít lời và hơi lúng túng của chị biến mất tự lúc nào mà thay vào đó dáng nhanh nhẹn, tháo vát.

Cuối làng, từ phía trạm xá một cô gái đi tới, nhỏ nhắn, chắc lắn, khuôn mặt tròn hồng hào, hai vế đuôi sam dài lúc lắc, chiếc áo phin nâu bó sát vào người, ngang vai quàng một chiếc túi vải thêu một dấu thập đỏ.

– A, cô giáo mới và chị Hà đi đâu đấy… Lớp mở tối hôm qua rồi chị ạ.

– Thế à? Được bao nhiêu học viên rồi hả My ?

– Hai mươi nhăm.

– Tìm được người dạy chưa ?

–  Chưa. Em đang vận động cái Hoa nhưng nó mắc con mọn… Chị tìm giúp em xem… Tối mai đã khai giảng rồi. Cô giáo đi đâu thế? Thăm đồng à? Mình đi mới.. Mình lên đồi đưa thuốc cho bà Viên-tối qua cháu Viên bị cảm, mình tiêm rồi nhưng thiếu thuốc, sáng nay xuống trạm lấy thêm.

My vừa nói vừa nhảy qua một mô đất, chạy đến bên tôi đặt tay lên vai tôi:

  • Tên cô là gì hả? Huệ à? Nhà mình cũng giồng được mấy khóm hoa huệ. Cậu có

thích hoa huệ không, hôm nào đến mình cho về mà cắm lọ. À, Huệ đã dạy bổ túc chưa ?

  • Chưa.
  • Dạy lớp mới này hộ mình nhé…
  • Để còn xem trường có bảo dạy đâu không?
  • Không chơi thế! Hứa đi đã. Huệ cứ nhận trước cũng được chứ sao, phải không?…

Hai nhăm người cả thảy…

Giáng dấp tự nhiên và giọng nói cởi mở của cô bạn gái mới quen biết làm tôi thấy vui vui. Tôi gật:

  • Ừ, đồng ý
  • Đêm nay dạy à?

Đêm nay nhé, đợi mình đến rồi cùng đi… Giữa tháng tám. Cánh đồng xanh ngắt ; lúa từng ngọn, từng ngọn trổ bông đều tăm tắp. Mùi lúa thơm ngạt ngào. Chị Hà thoăn thoắt đi giữa những ruộng lúa. Lúa cao, đi sau chỉ nom thấy nửa lưng áo và cái nón trắng nhấp nhô. Đến mỗi ruộng, chị dừng lại xem những ngọn lúa, xem cỏ, xem nước. Có ruộng chị thò chân đứng xuống bùn và chỉ một thoáng sau chị lại nói cho tôi biết ruộng đang thiếu những gì, độ bao giờ gặt được.

– Chị không ghi sổ a?

-Không. Mình nhớ rồi.

Có ruộng lúa cao quá, ngập cả lưng áo chị, nhìn xa chỉ thấy cái nón trắng nhấp nhô trong nắng, lóa mắt.

Gần trưa thì chị đã kiểm tra xong tất cả cánh đồng của tổ. Nắng. Mồ hôi ướt đầm lưng áo.

My đã đem thuốc lên đồi cho bà Viên về. “Cháu đỡ lắm rồi, em tiêm cho cháu thêm một ống pê-ni-xi-lin chắc chỉ mai là khỏi…”, My vui vẻ nói với chị Hà và nhìn tôi, cười.

  • Cô My bây giờ có bận gì không? dẫn Huệ lên đồi chơi đi… Mình đi đằng này một cái.

Chị Hà vừa nói vừa giơ cái giỏ cua lên lắc lắc.

  • Nào, cô giáo, đi chơi, chạy theo mình nhé!

My chạy. Bờ ruộng nhỏ, nhiều chỗ bị phá một đoạn dài để dẫn nước mà My vẫn chạy vun vút. Tôi cắn môi chạy theo mà không kịp, thỉnh thoảng lại thụt xuống ruộng.

  • Bẩn quần rồi à ?

My nắm tay tôi kéo lên rồi lại chạy.

Khỏi cánh đồng là một quả đồi cao. Trên đỉnh đồi là một xóm nhỏ. Chung quanh là cây cối um tùm. My dẫn tôi luồn lỏi qua hết cây này đến bờ bụi khác: ngắt hoa, hái sim và đến ngồi bên một con suối nhỏ chảy từ trên đồi xuống, sung sướng như trẻ thơ. Thỉnh thoảng cả hai đứa lại phá lên cười.

  • Chết, trưa rồi kìa!…

Đang vui, My chợt nhìn bóng nắng, kêu lên. My đưa bó hoa cho tôi rồi rẽ cây chạy xuống.

Tôi chạy theo và qua đám cây um tùm rậm rạp, chợt đứng sững lại. Trước mặt tôi là cả một bầu trời mênh mông, xanh ngắt và phía dưới, lúa như cũng thi với trời cùng một màu xanh trải ra mênh mông. Không thấy những con đường nhỏ tôi đã đi, chỉ thấy lúa, lúa dạt dào trong gió, trong nắng. Một cái gì rộng rãi, bát ngát ùa vào trong tôi.

  • Huệ ơi, làm sao thế?
  • Không. My ra đây xem này, đẹp quá!

My chạy lại đứng bên tôi, nhìn xuống.

  • Ừ, đẹp thật, nhưng mình nhìn quen rồi nên cũng thấy thường thôi. Mình nhớ có

một lần mình thấy một cảnh đẹp lắm, suốt đời chẳng quên đâu. Hôm ấy làng mình vừa được giải phóng. Bộ đội về. Gia đình mình ở vùng tự do về làng. Đi suốt cả một ngày, về đến làng thì trời đã gần tối. Nhưng trời vẫn còn nắng. Cánh đồng trơ trụi, làng xóm xơ xác nhưng người đông ơi là đông, mà sao đẹp đến thế, mình nhìn vào cái gì cũng thấy nó đẹp lạ đẹp lùng. Nhất là con sông Đào ; thuyền qua sông Đào về làng, mẹ mình không cấm thì mình đã nhảy ùm xuống sông mà tắm rồi. Trong làng có bao nhiêu là cờ đỏ và các anh bộ đội, cả bố mình. Huệ có biết không, một anh bộ đội xốc nách mình lên, đội cái mũ có ngôi sao lên đầu mình rồi reo “ô-ô-ô!”. Mãi sau này mình cứ nghĩ mãi mà không hiểu tại sao anh ấy lại reo như thế. Ngày ấy mình 14 tuổi, 14 nhưng mình bé quắt như đứa lên bẩy, đầu thì lại húi trọc… Mình mới lớn từ ngày hòa bình đấy chứ. Cái buổi chiều ấy thật chẳng bao giờ mình quên…

My thủ thỉ kể, đôi mắt mở to nhìn ra đồng lúa phía trước. Đôi mắt ấy như chứa đựng tất cả màu xanh tươi mát của cánh đồng rộng lớn ngời lên trong nắng sớm.

Tôi nắm chặt lấy tay My, như nắm lấy bàn tay của một người bạn thân thiết đã từ lâu. Chúng tôi đi xuống đồi.

*

*    *

Một buổi chiều, ông hiệu trưởng đi họp vắng, tôi phải dạy thay cho ông. Lớp của ông ở tận cuối làng, nằm ngay bên đường cái vào thôn và nhìn ra một cánh đồng rộng. Lúc ấy đang giờ chơi, sân trường ồn lên, rộn ràng, hối hả. Tôi đang ngồi trong lớp chấm nốt mấy bài chính tả bỗng giật mình vì một tiếng thét the thé vọng vào. Tôi quay ra và nhận ra  “nó”. Vẫn khổ người loắt choắt, da đen xạm, tóc hoe vàng… Nó đang chơi bi, vừa chơi vừa làm hiệu vừa hò hét.

Tôi nhìn nó, người bồi hồi, xốn xang quá. Nên như thế nào đây nhỉ? Tôi đứng khuất vào sau một cánh cửa, hỏi một em bé đứng cạnh:

  • Cậu bé kia tên là gì thế hả em?
  • Thưa cô, tên nó là Nam ạ?
  • Con nhà ai thế?
  • Thưa cô, nó là con bà Bội a! Nam có đi học không hả em?

Nghe tôi hỏi, con bé chép miệng:

  • Thưa cô, nó chẳng học hành gì sốt! Nó lười lắm, chỉ ham chơi thôi, cãi trả mẹ, lại

ăn cắp nữa. Nó bị đuổi học từ năm kia đấy cô ạ… Các bạn cứ chơi với nó chứ em ấy à, em chả thèm…

Càng nói, con bé càng phụng phịu, tấm tức:

  • Con nhà mất dạy, cậy nhớn bắt nạt bé. Hôm nọ tát ao nhà bà hai Canh, em đi hôi,

bắt được con cá bằng cái chuôi dao, em chưa kịp bắt thì nó đã lấy chân giậm lên. Em đòi, nó không chịu trả chỉ nhăn răng ra cười. Em ghét nó lắm, bửa lắm!

Giọng uất ức và ngây thơ, con bé còn kể mãi, kể không chán về những tính xấu của Nam và sự căm ghét của mình. Tôi chẳng biết nói thế nào, im lặng nhìn Nam. Thật lạ, nhìn nó sao tôi không thấy thù ghét như hôm đầu mà lại thấy nó đáng thương thế nào ấy! Tôi cho đánh kẻng vào học. Khi đám trẻ cùng chơi với nó xếp hàng vào lớp thì nó tách ra trở lại một mình, nét mặt ngơ ngác, sững sờ. Nó đứng im một lúc rồi quay đi.

Hôm sau, (sau một đêm suy nghĩ và quyết định) khi đám trẻ vào học rồi, tôi chạy theo giữ nó lại :

– Này em, tại sao không đi học? Nghe tôi hỏi, nó giật nảy mình, im lặng nhìn xuống đất. Hai tay nó nắm lại, hơi run. Tôi nhắc lại câu hỏi. Nó đột ngột ngửng lên, trừng trừng nhìn tôi, trả lời cộc lốc:

–  Không thích!

Rồi, lặng lẽ, nó quay đi…

Tôi nóng bừng cả mặt, vết sẹo trên má như lại nhức buốt. “Thôi, mặc kệ nó, việc gì mà mua dây buộc mình, một vết sẹo trên má chưa đủ hay sao?”. Tôi nghĩ như vậy và đi vào lớp giảng bài. Nhưng chỉ một lúc sau tôi lại nghĩ đến nó, lại thấy nó hiện ra trước mắt.

Tan học, tôi về nhà được một lúc thì chị Hà đi làm đồng về. Vừa thấy tôi, chị đã cười và chìa ra hai cái thư : Cô giáo có quà này! (Ở cái làng hẻo lánh, xa xôi này, người nào có thư, coi như có quà vậy).

Tôi luống cuống cầm lấy hai lá thư, người nóng bừng lên vì sung sướng. Thư của mẹ tôi và thư của Thành. Thư mẹ tôi viết:

Con ơi!

Từ hôm con đi thấm thoắt thế mà đã nửa tháng rồi. Nửa tháng sao mà lâu đến thế. Em Bảo, em Khoa ở nhà cứ nhắc đến con luôn làm mẹ càng thêm nhớ con. Con ạ, ở nhà công ăn việc làm vẫn như cũ. Mẹ vẫn nhận gai của hợp tác về làm. Gai phải làm nhỏ hơn nhưng mỗi cân được tăng lên hai nghìn(1) thành ra cũng khá

Con ơi!

Hôm con gửi thư về, biết con mạnh khỏe, đi đến nơi, về đến chốn, chỗ ăn chỗ ở yên ổn, mẹ mừng lắm. Con ạ, từ hôm con đi, anh Thành đến nhà ta chơi luôn. Cứ hai ba hôm lại đến một lần, có hôm ở lại ăn cơm, dạy hai em con học. Hai em con quấn quýt anh ấy lắm. Hôm nọ cái Bảo đi thi xa quá, anh ấy đến đèo đi đèo về… Anh ấy thực tốt quá, có anh ấy, nhà bớt vắng vẻ… Con đi có thế nào, viết thư về cho mẹ biết. Cho mẹ gửi lời hỏi thăm bà cụ và chị chủ nhà con ở…

Cuối thư là những dòng chữ vội vàng của Bảo. Em tôi đang vui, chữ cứ rối lên. Em cho biết là các bài thi em làm rất đúng. “Chị ơi, em sắp thành y sĩ đến nơi rồi. Chị ốm đi, em mong cho chị ốm để em chữa cho chị. Em mà tiêm thì chẳng đau tí nào đâu… Nhưng bây giờ em chưa làm y sĩ thì chị đừng ốm một tí nào nhé!”

Thư của Thành ngắn ngủi và vắn tắt, hình như Thành viết nó trong lúc rất vội và bận rộn. Anh cho tôi biết anh không được khỏe lắm, và cái bệnh nhức đầu lại làm khổ anh. Tuy nhiên anh vẫn đi dạy học đều và ôn tập những bài cần thiết để chuẩn bị thi. Anh tin tưởng ở kỳ thi này, mặc dù số người thi vào y năm nay gần một nghìn mà chỉ lấy có hơn một trăm. Cuối thư, anh khuyên tôi nên giữ gìn sức khỏe và ăn ngủ điều độ. Tôi không ngờ Thành lại có thể viết thư cho tôi bằng những lời chung chung, nhạt nhẽo đến thế được. Có thể là tại anh đang bận quá. Ử, khi bận rộn thì người ta dễ quên người khác, có khi còn quên cả mình nữa.

  • Tiền cũ

Nghĩ thế, tôi không thấy trách mà càng thêm thương anh và mong rằng anh thành công thì dù anh không viết thư được cho tôi nữa, tôi cũng vui lòng.

*

*  *

Hàng tuần, tối thứ tư, nhà trường họp hội đồng. Lần họp này có mục đích báo cáo số học sinh và thông qua danh sách vận động các em đến tuổi ra lớp. Tôi đưa chuyện Nam ra và đề nghị cho thêm vào danh sách học sinh phải vận động. Tôi không ngờ mọi người phản ứng như thế. Đầu tiên là ông cụ Thuận, lúc ấy ông đang ngồi tựa lưng vào vách, mắt lim dim nhìn đôi câu đối trước mặt; một tay phe phẩy quạt, một tay sờ cằm nhổ từng sợi râu. Nghe tôi nói đến tên Nam, ông ngồi bật dậy, ngơ ngác hỏi:

  • Có phải thắng Nam con bà Bội không?
  • Phải ạ!

Mắt lác đi, tay xua xua như đuổi ruồi, cụ nói hấp tấp:

  • Ấy chết, cô chưa về cô chưa biết chứ không thể cho nó đi học được đâu. Cho nó

đi học rồi thì học sinh bất trị tất. Cô mới về, không biết đấy chứ, mới tí tuổi đầu mà nó đã ăn cắp của bao nhiêu người rồi. Chính tay tôi, năm kia đã… vái ông ấy hai lễ một vái rồi đấy ạ!

Trong hội đồng, có người lắc đầu, có người chép miệng và kể thêm vài chuyện đồn đại về tài trộm cắp của thẳng Nam để phụ họa heo ông cụ Thuận. Có người bảo còn phải xét kỹ xem và nên hỏi ý kiến của trên đã. Có người buông xuôi:

  • Chào, xã ta trên dưới hai mươi em chưa ra lớp đấy, hãy cứ vận động cho hết!

Ông hiệu trưởng lúc đầu chăm chú nghe và ghi chép tỉ mỉ, nhưng cuối cùng, ông cũng buông bút, gấp sổ lại:

  • Tôi biết thằng bé ấy rồi… Nó là một thằng bé bất trị đấy tôi cũng có ý định đưa nó ra lớp nhưng hãy thong thả không thể giải quyết ngay một lúc được đâu. Trường mình còn nhiều khó khăn, nhận nó vào rồi thì nát bét cả…

Nói rồi, ông bàn luôn sang chuyện khác. Chỉ có Chiếm là không nói gì. Bàn tay to lớn đặt trên bàn cứ lật qua lật lại. Anh gật đầu tán thành ý kiến của ông hiệu trưởng nhưng đôi lông mày cứ nhíu lại. Giờ giải lao, anh đến bảo tôi:

  • Chuyện này đáng lẽ không nên đưa ra hội đồng, tôi đã định bàn với chị từ mấy

hôm trước, bận quá thành ra quên mất. Theo tôi, chị cứ tìm hiểu, vận động nó ra lớp rồi báo cáo sau, vấn đề là ở nó…

Họp về, đêm đã khuya, cứ nghĩ mãi tôi không sao mà ngủ được. Câu chuyện thật là khó khăn phiền phức. Có lúc tôi tự trách mình sao lại đi nhúng vào những chuyện khó khăn như thế. Có ai bắt tôi đâu. Tôi cứ coi như là mình không biết gì hết, cứ coi như không có cái thẳng bé hư hỏng ấy ở trong làng này thì đã sao. Trường sở còn khó khăn, mọi người không muốn nhận nó vào học, điều ấy chẳng ai có lỗi gì. Sao tôi lại không nghĩ như thế được? Có lúc tôi lại trách mình sao không cương quyết đấu tranh để mọi người phải đồng ý cho Nam vào học. Sao tôi không dám mạnh dạn nhận trước mọi người việc vận động nó đi học và giáo dục nó? Nhưng liệu tôi có dạy nổi nó không? Tôi nhớ lại những ngày học sư phạm, nhớ lại những bài giảng về cách giáo dục những trẻ em hư hỏng, nhớ lại những chuyện trong phim Bài ca sư phạm… Có lúc tôi tưởng như mình sẽ làm được tất cả những điều đã được học được biết ấy; có lúc tôi lại thấy những điều tốt đẹp ấy có lẽ chỉ có thể thực hiện được ở trong những hoàn cảnh khác. Thế thì làm sao bây giờ?

Tôi trở dậy ra bàn ngồi chấm bài. Cúi mặt trên những tờ giấy khổ nhỏ, đầu óc tôi trở nên thư thái nhẹ nhõm. Em thì viết những hàng chữ to nắn nót, sạch sẽ. Em thì viết nguệch ngoạc, chữ nhỏ lí nhí. Có em thỉnh thoảng lại viết một chữ in… Chỉ cần nhìn qua chữ, tôi cũng nhận được tên các em và hiểu tính nết của chúng. Nhờ ở đoán chữ như thế nên việc tìm hiều học sinh của tôi trong những ngày đầu qua rất nhanh và gây cho tôi nhiều hứng thú. Tôi có được kinh nghiệm ấy là do cha tôi ngày xưa cũng là một thầy giáo. Tuy dạy trường tư nhưng cha tôi làm việc rất tận tâm. Ngoài giờ đi dạy về lại soạn bài, chấm bài. Hôm rét thì trùm chăn từ đầu trở xuống, hôm nực thì chỉ mặc một chiếc áo mỏng cắm cúi làm việc đến tận khuya. Thương bố, tôi thường đứng đằng sau thỉnh thoảng lại phe phẩy quạt đuổi muỗi. Bố tôi quý tôi lắm nên có gì hay là bảo cho tôi biết. Bố tôi dạy tôi đoán tính người qua chữ viết. “Con ạ, trông mặt mà bắt hình dong… tâm địa người ta thế nào nó bày cả ra ngoài mặt hết nhìn chữ viết cũng biết được một phần. Cái anh chữ nhỏ lít nhít này tính tình cũng nhỏ nhặt, chiu chắt. Còn cái anh viết thẳng thắn, hàng vào hàng, không sai sót một nét, tính cần thận chặt chịa, còn cậu này thì nghịch ngợm lắm, con xem…”. Để cho tôi tin những điều đoán ấy là đúng, nên mỗi khi gặp những người đó, bố tôi lại chỉ cho tôi biết để tôi nhận xét xem họ có đúng như những điều bố tôi đoán hay không? Dần dà, những cái đó đối với tôi, trở thành một trò chơi thích thú.

Đến nay, là một giáo viên, mỗi khi tôi chấm bài cho học sinh thì chuyện cũ lại trở về. Và, trên từng trang giấy, những cô bé, những chú bé, mỗi em một kiểu cách, một tính nết cứ sừng sững hiện ra trước mắt tôi. Nhưng cũng có lúc tôi phải dừng lại tự hỏi: “Có phải như thế này không?”. Cái em Thân này là chúa nghịch ngợm, sao chữ viết, câu văn lại dịu dàng, hiền lành thể? Con bé Hiền, một con bé vụng về, nhút nhát. sao chữ lại sắc sảo, linh hoạt như con trai? Cô bé Ngàn ăn mặc lôi thôi cẩu thả, sao bài lại làm rất cẩn thận sạch sẽ? Có cái gì trái ngược trong những cô, chú bé này nhỉ? Có thể là do hoàn cảnh gia đình hay vì một lý do nào đó mà mình không biết…

Tôi ghi những nhận xét và cách sửa đổi vào lề giấy thật cẩn thận, tỉ mỉ. Khuya lắm, khi những con gà ngoài chuồng cất tiếng gáy, tôi mới đứng dậy xếp dọn đi ngủ Nhìn số bài đã chấm xong, tôi ngạc nhiên quá. Sao tôi lại có thể chấm một lúc được ngần này bài nhỉ? Cái gì đã giúp tôi không biết mệt mỏi, buồn ngủ để làm việc như thế? có phải rằng bất cứ việc gì dù khô khan tẻ nhạt đến đâu, nhưng nếu ta thực yêu mến, gắn bó với nó thì ta sẽ tìm thấy nguồn cảm hứng giúp ta làm việc một cách say mê và tìm thấy tất cả những cái hay, cái đẹp của nó. Những tờ giấy nhỏ, đủ các cỡ, tờ bần, tờ viết nắn nót tờ lệch lạc, lem nhem nhưng lại là cả những con người phơi ra trước mặt tôi, bắt tôi phải có trách nhiệm đối với nó.

Mỗi trang giấy là một con người, giá tôi được đọc một trang của Nam nhỉ? Không biết chữ nó viết như thế nào? Chắc là xấu lắm. Không, có thể không phải…

Hình ảnh thẳng Nam lại hiện ra trước mắt tôi và buổi họp hội đồng ban tối lại trở về trong trí. Có lẽ nào mình lại chịu bó tay… Dù thế nào mình cũng sẽ cố hết sức. Trước kia, khi bố chết, mình phải bỏ học mất hơn một năm, hôm trở lại trường sao mà sung sướng thế. Chắc nó cũng vậy, nếu không, sao nó cứ đến trường chơi? Cái gì làm cho nó ghét cay ghét đắng mình như thế? Mình nên làm như thế nào đây?

Tôi lấy giấy viết thư cho Thành. Tôi hỏi anh về chuyện thằng Nam, nhưng chỉ viết được mấy dòng là tôi ngừng lại. Có lẽ tôi không nên nói chuyện này cho Thành biết. Mệt mỏi, tôi gục đầu xuống bàn, và ngủ.

– Dậy đi, Huệ ơi, cô giáo !…

Có tiếng ai gọi. Tôi choàng dậy. Trời đã sáng. Bà mẹ chị Hà đã dậy thổi cơm sớm, chạy vào đánh thức tôi. Đôi mắt bà cụ nhìn tôi âu yếm:

Khổ thân cô giáo, thế ra cô thức suốt đêm à? Thế mà người ta cứ bảo dạy học là nhàn.

Chị Hà cũng đã dậy. Chị đang đánh phân ở trong chuồng. Chị mặc chiếc áo cộc tay màu nâu non, quần xắn cao quá gối để lộ đôi bắp chân mập mạp, rám nắng. Chị lấy cuốc, sục phân từ dưới lên, đánh cho tơi ra rồi xúc đổ lên cái gióng cân đã mắc sẵn ở góc sân. Tôi chạy ra quét sân, hót đống mùn rác, lá khô và một mê cỏ đầy đồ xuống rồi đuồi hai con lợn vào. Chuồng sạch, hai con lợn cong đuôi chạy khắp. Chúng dũi, chúng ngửi, chúng đạp, chúng nhai rồi chúng rít lên… Chị Hà chạy vào bếp bê nồi cám ra. Tôi lấy bát múc cám đổ vào máng. Hai con lợn lao vào, cái mõm ngắn dũi xuống, sục sục đớp đớp, tiếng nhai tóp tép ngon lành. Cám còn nóng nên thỉnh thoảng chúng lại phải ngửng lên, lắc lia lắc lịa. Cám bắn vung ra hai bên. Mùi cám béo ngậy, mùi bèo chín nục bốc lên. Hai con lợn ăn lấy ăn để. Da bụng chúng căng lên, hồng hồng, cái đuôi nhỏ quẫy tít…

Trong nhà, bé Hoa đã dậy. Nó ra hè ngồi một lúc cho tỉnh ngủ rồi đi mở cửa chuồng gà, tung thóc ra sân. Đàn gà lốc nhốc con trống, con mái, con con lích chích chạy xô đến chí chóe chen nhau mồ thóc. Tiếng mỏ mồ trên sân lộc cộc, đều đều, rộn ràng.

Đàn gà ăn hết, con chạy đi uống nước, con ra vườn, con vào bếp… Bé Hoa vào nhà đem sách ra học. Em ngồi trên một chiếc ghế con, lưng tựa vào vách, quyển sách mở đặt trên gối, giọng trong trẻo nhảy nhót:

…Bước lên đồng trên,

Thấy con sông mới Bước xuống đồng dưới Thấy con kênh Đào.

Bước ra đồng sau Thấy gầu đang tát.

Bước về đồng trước,

Thấy guồng đang quay…(1)

Bé Hoa đọc đi đọc lại. Mái tóc cắt ngắn, nuột nà, đen bóng lúc lắc theo giọng đọc. Thỉnh thoảng em lại ngừng đọc quay ra nhìn tôi, đôi mắt chớp chớp như muốn hỏi: “Cô ơi, cháu đọc thế có được không?”  “Được, cháu cứ đọc đi, hay lắm !”. Tôi nói rồi ôm cháu vào lòng, lấy lược chải lại tóc cho cháu.

  • Cô chải búp đa cho cháu kia !
  • Chải búp đa không đẹp đâu cháu ạ. Cô chải cho cháu như cái đuôi con gà trống ấy nhé!

– Ứ ừ, ứ ừ…

Hoa lúc lắc đầu. Tôi cười, chải lại tóc cho cháu theo kiều có một cái búp đa dài ở giữa đỉnh đầu. Hoa sờ tay lên đầu nhoẻn miệng cười rồi giơ tay đuổi mấy con gà cho nó khỏi vào nhà và nhìn theo đàn chim đang chíu chít bay ra bay vào trên những cây nhãn ngoài vườn. Đôi mắt em sáng lên, vui thích.

Ngoài đường, mọi người đã đi làm. Người quang gánh, người dắt trâu, người vác cuốc, tốp năm tốp bảy vừa đi vừa cười nói ran ran. Họ đi xa rồi tiếng cười vẫn còn vọng lại. Nắng đã lên. Qua cánh cổng mở rộng, cách một đường ngõ nhỏ, cánh đồng trải ra mênh mông một màu xanh xa tít. Gió sớm tạt từ phía xa lại đưa lên một mùi thơm nao nức của lúa đang lên sữa.

  • Ca dao của Bút Ngữ.

Nhìn cánh đồng rộng buổi sớm, đón ngọn gió đầy hương lúa tôi thấy người tỉnh táo, đầu óc trong sáng. Một niềm vui trong trẻo tràn vào trong tôi khích động đến những gì sâu kín nhất làm bừng dậy một sức mạnh kỳ lạ. Tôi cảm thấy những lo lắng ngại ngần của tôi đêm qua về việc đưa thằng Nam vào học thật là vô lý. Và bao nhiêu công việc khác nữa cũng như đều trở nên đơn giản, dễ dàng.

Sung sướng quả tôi cất tiếng hát.

  • Ai hát mà hay thế? Cử như đài ấy thôi.

– À, My đấy à? Vào đây? Đi đâu về thế ?

– Đi gánh phân. Mình tranh thủ gánh sớm để về tắm một cái rồi trưa lên huyện họp.

– Tắm ở đâu thế hả My?

– Tắm ở sông.

– Cho mình đi với!

– Ừ, thì đi…

Tôi cầm cái làn quần áo, khăn mặt, xà phòng theo My đi. Sau buổi sáng chủ nhật đi thăm đồng với My rồi cùng dạy bổ túc, tôi và My đã trở thành đôi bạn thân thiết.

Tuy mới quen nhưng tôi đã học được ở My nhiều điều hiểu biết về đời sống ở nông thôn. My bày cho tôi cách đi đêm mà không cần dùng đến đèn; cách trông bầu trời, xem rễ cây cỏ mà đoán trước được ngày nắng ngày mưa; cách phân biệt các giống lúa, cách cấy mạ, cách đặt gốc sắn và cách hái chè… Biết bao nhiêu điều mới lạ, hấp dẫn đối với tôi. Còn tôi, tôi dạy My học thêm toán (My đang học lớp năm bổ túc) khoa học (My rất yêu thích môn học này) có khi tôi dạy My một bài hát mới và dậy cả thêu thùa nữa. Chúng tôi quấn quýt nhau và chẳng có ngày nào là không tìm đến nhà nhau.

Chúng tôi đã ra đến bờ sông.

– My có biết bơi không?

– Biết. Huệ không biết bơi à?

– Không.

-Thế thì phải học đi.

Buổi sáng, sông vắng người. Hai bên bờ sông là hai bãi mầu chạy dài, thỉnh thoảng, giữa bãi cát tĩnh mịch lại nhỏ lên một tảng đá lớn bạc trắng vì nắng gió. My cởi áo ngoài rồi chạy ùa xuống nước. Cử chỉ tự nhiên, mạnh bạo của My làm tôi bớt ngượng. Tôi cũng cởi áo và chạy theo My. Nhưng tôi làm sao mà chạy theo My được? Tôi dừng lại, sặc, tóc ướt sũng.

– Phải có một cái phao My ạ!

– Không cần. Cậu buộc túm hai ống quần lại, mình giữ cho, thế, đập mạnh đi, cả hai chân…

My quàng tay ôm ngang lưng tôi. Tôi theo lời My đập mạnh cả hai chân, nước bắn tung tóe. Sung sướng, thoải mái biết bao nhiêu khi được ngâm mình ở giữa một dòng sông. Tôi thấy mình như trở lại tuổi trẻ thơ. Chắc My cũng thế. Cô bơi, lặn, vùng vẫy như một con cá. Tóc ướt sũng. Đôi mắt to đen láy như cũng ướt. My bảo tôi rằng My rất yêu dòng sông này nhưng không thích ở chỗ nước chảy hiền từ quá. “Như thế sẽ khó mà xây được trạm thủy điện Huệ ạ. Có xây thì cũng còn lâu. Bố mình đi Lào-cai về kể chuyện ở Sa-pa có một nhà máy thủy điện nhỏ xinh lắm, bé như cái chùa làng mình thôi thế mà cũng đủ điện cho cả thị trấn dùng, Làng mình mà có nhà máy thủy điện thì thích quá! Ừ, chắc rồi cũng sẽ có…”.

Mơ mộng, My lan man kể cho tôi nghe từ chuyện cái nhà máy thủy điện xinh xắn ở Sa-pa đến chuyện làng ngày còn bị tạm chiếm con sông này là đường bí mật của bộ đội cán bộ như thế nào. Cuối cùng My kể cho tôi nghe về chuyện học bơi của My…

  • Mình biết bơi là nhờ bố mình đấy! Bố mình bởi giỏi lắm. Ngày làng còn bị tạm

chiếm, bố mình từ vùng tự do về mỗi đêm hai lần bơi qua sông này. Bố mình có một cách tập bơi lạ lắm. Mình còn bé tí, ngày mới hòa bình được ít lâu ấy mà, ông ấy đem mình ra sông ném tòm xuống nước. Chao ôi! mình sợ đến muốn chết ngất đi. Nhưng mình vẫn phải cố vùng vẫy để ngoi lên, không thế thì chìm mất. Còn bố mình thì cứ nhìn mình mà cười như nắc nẻ… Mình chẳng bao giờ quên cái lần tập bơi với bố ấy. Nhưng có lẽ nhờ thế mà sau này mình trở nên dạn dĩ. Bố mình quý mình lắm, còn mẹ mình thì cứ mắng mình là đồ con gái trời đánh, cứ như con trai ấy, sau này chẳng có thằng nào dám rước đâu!. My cất tiếng cười giòn giã rồi lao mình vào giữa dòng sông. Trong ánh nắng chói lòa, giữa những làn sóng nhấp nhô thỉnh thoảng tôi lại nhìn thấy mái tóc rủ lòa xòa của My nhỏ lên. Khuôn mặt ướt đẫm tươi cười quay về phía tôi, bàn tay vẫy vẫy…

Tôi vừa về đến nhà thì cụ Thuận đến. Một tay cụ xách điếu cày, một tay cụ ôm chồng sách cũ. Nhìn thấy cụ, tôi mới chợt nhớ ra hôm nay là ngày soạn bài tập thể. Cả trường chia làm hai nhóm soạn bài. Nhóm dạy lớp ba bốn, nhóm dạy lớp một hai. Nhóm dạy ba bốn soạn ở nhà Chiếm. Nhóm một hai, có tôi, cụ Thuận là tổ trưởng. Hôm nào soạn bài cụ cũng đến sớm, dành dăm ba phút chuyện trò nước nôi cho đến đúng bảy giờ rưỡi mới bắt tay vào làm việc, ai đến sớm cũng mặc. Sáng nay cũng thế, sau chén nước, điếu thuốc, dăm ba câu chuyện, cụ đưa cho tôi một chồng sách, bảo:

– Lúc nào rỗi, cô giáo đem mà xem, sách soạn bài năm ngoái của tôi đấy. Năm ngoái tôi cũng dạy lớp hai… À, bài tuần này cô giáo soạn chưa?

Nghe cụ hỏi, tôi lúng túng. Bài tuần này tôi chưa soạn. Biết nói thế nào bây giờ? Không biết cụ Thuận có hiểu cho là tuần này tôi bận nhiều việc hay lại cho là tôi lười biếng thì khổ quá.

– Cô giáo ạ, cái nghề mình nó lắt nhắt như đàn bà bận con mọn ấy, phải tranh thủ làm trước chứ không thì rồi bấn đấy! Tôi là cứ bao giờ cũng soạn bài trước. một tuần, để ngộ nhỡ có việc gì đột xuất đánh đùng một cái thì không lo nữa.

Nói rồi cụ chạy xuống bếp thổi lửa hút thuốc, chắt nước uống. Xong đâu đó, cụ đến ngồi bên cạnh tôi, giọng thấp hẳn xuống.

Cái chuyện hôm qua ấy mà… Chả hiểu cô giáo nghĩ thế nào chứ tôi về là cứ nghĩ mãi. Nó tội vạ lắm kia. Cái thằng Nam ấy, cô chưa biết chứ tôi thì còn lạ gì nó nữa. Năm kia, nó hại tôi một vố đấy. Ngày ấy Đảng và Chính phủ chưa tổ chức hợp tác mà. Cái ao đằng sau nhà tôi thả vô khối là cá. Gần tết, cá to bằng cổ tay, thế mà nó hại tôi mất cả. Chả là tôi không cho nó học, nó thù tôi, nó mò mẫm vào tận trong rừng, tìm lá cơi lá cời gì đó đem giã nhỏ ra đổ xuống ao nhà tôi. Nó đổ đêm hôm trước thì sáng hôm sau cá nổi lên trắng cả ao. Năm ấy nhà tôi mất cái tết. Khổ một nỗi là không có chứng cớ thành ra biết mà không làm gì được. Thật là quân ghê gớm, cô đừng có nhúng vào mà lôi thôi phiền nhiễu. Mình mới vào nghề, cố lo mà giảng dạy, công tác cho tốt, hơi đâu mà mua dây buộc mình…

Căn dặn xong đâu đó, cụ giở sổ soạn bài của tôi ra xem xét rất cẩn thận và chốc chốc lại gọi “Này, cô giáo”. Cụ vạch cho tôi thấy những chỗ sai sót. Rồi, cụ gật gù:

  • Chế độ mình thật quý hóa. Tôi dạy học đã mấy chục năm mà có bao giờ soạn bài

tập thể như thế này đâu… Ngày trước ấy à? soạn một năm dạy hàng mấy năm kia, cô giáo ạ!

Nói rồi, cụ dạy tôi cách soạn một bài giáo án lao động. Tỉ mỉ như một người cha dạy con, cụ dạy tôi đủ điều, từ cách chia tổ lao động là phải chia đều có em bé, em lớn chứ không nên chia theo tổ học tập đến cách dặn dò mang dụng cụ: lao động gì thì nên mang dụng cụ gì, dụng cụ như thế nào…

– Cô giáo ạ, cô giáo phải bắt các em làm cho đúng kỹ thuật mới, tránh tai nạn lao động, làm cho tốt, bảo đảm chất lượng chứ không cần nhiều đâu…

– Dạy xong cách soạn giáo án lao động, cụ bảo tôi cách cho điềm hạnh kiểm… Nhìn mái tóc bạc phơ, khuôn mặt răn rúm cúi trên trang giấy viết từng chữ một, tự nhiên tôi thấy bồi hồi cảm động. Cái gì đã thúc đầy con người già nua này làm việc cần mẫn như thế? Và, dưới bàn tay gầy guộc kia, bao nhiêu con người đã lớn lên? Cái cảm giác khó chịu hôm đầu phai nhạt dần dần và mất đi từ lúc nào không biết. Giờ đây trong tôi chỉ còn lại một tình cảm mến phục lặng lẽ. Tôi thấy mình phải học tập ở cụ rất nhiều điều, nhưng không thể làm giống như thế được. Mà phải khác, khác nhiều…

Gần trưa, ông hiệu trưởng đến. Ông đến thăm nhóm soạn bài và phổ biến công tác mới. Vội vã, hấp tấp, ông dựng xe ở bậc cửa rồi vừa đi vào vừa nói:

  • Các đồng chí, chiều nay các em lao động xong thì cho tập trung lại phổ biến cho

các em biết cuối tháng này xã có tổ chức một buổi mít tinh. Mỗi em chuẩn bị trước một lá cờ nhỏ, một phù hiệu đeo ở tay hoặc dán ở mũ để đi cổ động. Khẩu hiệu và phù hiệu thế nào sẽ phổ biến sau, còn hiện nay để chuẩn bị cho hôm đó, mỗi em cắt hoặc viết một khẩu hiệu (càng to càng tốt) để dán ở những nơi công cộng. Các đồng chí lấy giấy ghi khẩu hiệu cho:

Một là: Ra sức thi đua xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ngày một vững mạnh.

Hai là: Tích cực chuẩn bị thu hoạch vụ mùa và làm phân, chuẩn bị cho vụ đông-xuân 58–59 thắng lợi vượt bực..

Ba là: Tích cực học tập bộ túc văn hóa là góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa giàu mạnh và đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi.

  • Các đồng chí nhớ cho là em nào cũng sẽ có một cái, và mỗi đồng chí chúng ta

nhất thiết phải có cả ba cái. À, còn các lớp bổ túc thế nào, các đồng chí vẫn dạy cả đấy chứ? (Ông đưa mắt nhìn tôi).

  • Vẫn dạy cả, thế các em bé có kẻ khẩu hiệu không hả bác?
  • Sao lại không? Lớn kẻ lớn, bé kẻ bé!
  • Nói xong, ông ngồi xuống ghế, giở những quyền sổ soạn bài ra xem qua rồi đứng

dậy. Cụ Thuận kéo ông lại :

  • Uống hụm nước đã nào, bác!

Thôi, cho tôi kiếu. Các đồng chí làm việc đi không mất thì giờ. Tôi cũng phải về ngay để sang xã mượn con trâu cho lớp ông Chiếm chiều nay bừa nốt cái đám mạ ở cửa đình.

– Này, cô Huệ, có chuyện gì mà nom cô phờ phạc thế? Không có gì à? Ừ thì thôi, tưởng cô ốm, phải giữ sức khỏe để mà làm việc lâu dài chứ !…

Ông lại gần tôi hỏi rồi hấp tấp quay ra. Tiếng guốc nện giòn giã trên sân gạch. Tiếng xích xe đạp khô dầu kêu xè xè, xa dần. Ông cụ Thuận chưng hửng đặt chén nước xuống rồi nhìn theo mãi. Không hiểu ông nghĩ gì mà ngồi lặng đi một lúc rất lâu. Mọi người nghỉ một lát rồi lại tiếp tục làm việc.

IV

Tháng mười. Cuối thu. Những ngày thu muộn năm nay đầy nắng ấm và gió lạnh. Lúa đã chín. Năm nay được mùa. Lúa đồng trên đồng dưới nằm rạp như trải chiếu, vàng ánh một màu tơ tằm. Khắp nơi trong làng ran ran tiếng nói cười. Tiếng đập lúa thình thịch vang lên trong các sân hợp tác. Người ta tổ chức ăn cơm tập thể. Vụ thu hoạch đầu tiên của hợp tác xã được mùa đem đến cho mọi người nhiều tin tưởng, phấn khởi.

Trường học nghỉ mùa vào giữa những ngày ấy. Các em lớn thì theo thầy giáo đi gặt; em nhỏ thì ở nhà trông em, giúp đỡ gia đình để bố mẹ đi gặt. Thỉnh thoảng các em họp lại một buổi đi mót lúa về làm quỹ của trường.

Tôi và một chục em lớn lớp bốn đi gặt cho tổ một hợp tác xã Từ-đường. Đây là lần đầu tiên tôi đi gặt nên bỡ ngỡ và khó khăn quá! Lúc đầu khi mới thấy tôi đến bà con xã viên im lặng nhìn, vẻ mặt chờ đợi xem xét. Đến khi tôi bắt đầu gặt thì mọi người rũ ra cười. Nhưng sau thấy tôi lúng túng quá thì không ai cười nữa mà chạy lại dạy tôi tỉ mỉ từ cách đưa liềm, cách lượm, cách xén và cả cách bôi vôi vào hai ống chân để trừ đỉa mỗi khi gặt sang những ruộng nước. Tôi tập lượm. Một anh thanh niên cầm liềm đi xén, ôm một bó lúa to đã xén rồi đến trước mặt tôi, giọng vui đùa:

  • Lượm thế này cơ, cô giáo ơi!…

Anh kêu lên rồi cúi xuống vòng mấy sợi rơm qua bó lúa, xốc lên quay tít, vừa quay anh vừa xướng lên, giọng cao voi vói:

  • To đai, dài gáy, ngắn váy thì mẹ chồng mới yêu cơ, cô giáo ơi!

Mọi người cười ầm lên, tôi ngượng nóng cả mặt. Mỗ hôi ướt đẫm áo, lạnh cả một khoảng lưng. Mệt nhưng vui. Mấy em học sinh gặt nhanh chẳng kém gì xã viên. Các em không chịu gặt cùng hàng với tôi. Các em cố tình tụt lại phía sau và lảng ra xa. Như thế các chú được tự do hơn, tha hồ mà hun chuột, đào nhái. Những con nhái cốm, béo bóng nước, dài ngoẵng nằm nép dưới các gốc lúa thấy động, nhảy toáng lên. Các em chạy theo về, chụp. Cứ bắt được con nào, chúng lại đến trước mặt tôi giơ ra khoe. Chúng bảo thịt nhái ăn ngon và bổ hơn thịt gà.

Nhờ có hướng dẫn nên chỉ một lúc sau, tôi đã biết gặt, mỗi khi cúi xuống, đưa liềm xiết ngang thân khóm lúa, đám lúa lại xòa vào mặt tôi. Những hạt thóc mẩy tròn chạm trên da mặt tôi ram ráp. Mỗi khi cắt xong, tôi nâng lượm lúa trên lưỡi liềm đưa lên ngang người thì một mùi thơm ngọt sực nức tỏa ra ôm ấp lấy người tôi. Khi đặt bó lúa xuống, đứng thẳng dậy, một luồng gió vừa thoảng tới, tôi tưởng như người mình cũng đang tỏa hương vậy.

Gặt sang ngày thứ ba thì tôi đã quen tay. Các động tác đã nhanh và gọn hơn. Nhưng thật là mệt mỏi! Các khớp xương đau nhừ. Những lúc ấy tôi mới hiểu hết những vất vả của công việc đồng áng và càng thấy rõ việc vào hợp các để cải tiến lối làm ăn lạc hậu, để giúp đỡ nhau, để đưa khoa học, máy móc vào sản xuất là vô cùng cần thiết. Những giờ giải lao, tôi nói chuyện đó với các xã viên (sau này mỗi khi nhớ lại những điều tôi nói hôm ấy, tôi lại thấy ngượng và buồn cười. Tôi mới chân ướt chân ráo về nông thôn, cầm liềm chưa hết ngượng mà đã nói chuyện cải tiến sản xuất, thay đổi cách lao động. Thật là sách vở quá!). Nhưng có lẽ nét mặt tôi lúc đó chân thành, những lời nói hăng hái, tin tưởng quá nên bà con cũng chịu khó nghe và tán thành.

Mấy cô gái nghe tôi nói thì có ý thẹn, ngồi lùi ra xa, tránh mặt sau những đống lúa, rút những cọng rơm cho vào mồm nhai nhai. Có tiếng cười khúc khích, và cùng một lúc mấy cánh tay đẩy ra trước mặt tôi một cô gái có khuôn mặt tròn, cằm hơi nhọn, da trắng, mặc áo nâu sẫm, chít khăn vuông đen kéo sụp xuống tận mắt.

– Đây này, sắp sửa làm bà giáo rồi mà vẫn chưa biết đọc đây này.

– Ơ… rõ dơ… các cô học nhiều thì ấm vào thân các cô chứ ai nhờ. Tôi ngu si dốt nát, tôi khổ thì mặc tôi!

Nói rồi cô cau mặt, vùng vằng đứng dậy ra ngồi ở một góc xa, đầu cúi thấp xuống. Một em học sinh ghé sát vào tai tôi thì thầm:

  • Cô Lựu, vợ thầy giáo Chiếm đấy!
  • Vợ à?
  • Vâng. Ăn hỏi từ năm ngoái.
  • Cưới chưa ?
  • Chưa. Hình như chê nhau rồi cô ạ.

 

*

*  *

Buổi chiều gặt xong, tôi thường về muộn hơn mọi người. Gặt xong, tôi cho học sinh họp, rút ưu khuyết điềm hôm nay và dặn dò công việc ngày mai. Họp xong, các em vội vàng chào tôi rồi chạy biến. Đường chiều vắng, rộng thênh và đầy gió mát. Tôi đi giữa những thửa ruộng đang gặt dở, những thửa ruộng mạ mới đang xanh và những thửa lúa vừa chín như đi giữa ấm no hạnh phúc. Tôi không còn xa lạ với cuộc sống chung quanh nữa và mọi người đã đến với tôi thân thiết, chân tình hơn. Cứ cái đà này thì tôi làm việc sẽ mỗi ngày một tốt. Lòng rộn ràng sung sướng, tôi cất tiếng hát se sẽ. Cái liềm buộc cạnh đôi quang cặp ở đầu đòn gánh như chia vui cùng tôi, đập vào nhau kêu lách cách, lách cách như cùng đánh nhịp cho câu hát của tôi.

  • A, cô giáo đây rồi!… Gớm, cô lại mà nhận lấy học sinh của cô…

Một anh thanh niên tay cầm quyển sổ, tay cầm cái cân hình như đang chia thóc ở đâu đó vừa trông thấy tôi vội vã chạy lại, kêu lên một cách vui mừng rồi cắm cúi đi trước. Anh dẫn tôi đến cái tảo mạc gần đình. Cửa tảo mạc đóng kín, mấy đứa trẻ con vây quanh, bên trong có tiếng đập cửa thình thành và tiếng gào văng vẳng:

  • .. a… cậy lớn bắt nạt ông… Mẹ nó chứ… không mở cho ông, ông phá!
  • Đứa nào thế nhỉ? Tôi vội vã chạy đến. Anh thanh niên đưa cho tôi cái chìa khóa rồi kể lể :
  • Cô không đến đây sớm mà xem. Học trò của cô đánh con nhà người ta chảy cả

máu mồm máu mũi. Lúc tôi đến can, nó còn định đánh cả tôi. Quân ghê gớm thật! Tôi đang bận chia thóc chứ không thì nó biết tay tôi. Thôi, bây giờ tôi giao trả nó cho cô. Cô phạt nó thật nặng vào.

  • Đứa nào thế?
  • Thằng Nam học sinh của cô chứ còn đứa nào?
  • Thằng Nam ? !

Tôi sửng sốt khi nghe đến tên nó. Tôi cầm lấy chìa khóa và khó khăn lắm mới mở được cửa. Bên trong tối om. Một mùi hôi mốc xông lên. Thằng Nam đang ngồi trên cái đòn nhà táng. Chung quanh nó rơm rác, trấu, cỏ khô bừa bãi. Thằng Nam ngồi đó, mặt gân lên như đang chuẩn bị gây gổ, mắt lơ láo như mắt rắn, cằm bạnh ra. Nhìn thấy tôi nó chợt hốt hoảng và cúi mặt xuống. Tôi cũng cúi mặt, quả thực tôi không biết làm thế nào bây giờ. Tất cả những chuyện xấu về nó và những quyết tâm của tôi để cho nó đi học cùng một lúc lại trở về rộn lên trong óc tôi, nhưng cũng chẳng làm tôi nghĩ ra được một cách đối xử nào cho thích đáng.

  • Đứng dậy, Nam!

Nó vùng đứng lên, nói như gào:

  • Tôi không có tội gì sất… Ai bảo nó chửi bố tôi?

Tiếng nó khản đặc.

  • Ừ, không có tội thì thôi. Bây giờ em muốn gì?
  • Muốn gì!

Nó nhắc lại rồi ngửng lên nhìn tôi, đôi mắt hoảng hốt lạ lùng hết sức. Có lẽ nó không hiểu tôi định nói gì. Tôi nhắc lại.

  • Muốn… cho tôi về… để tôi thổi cơm không có mẹ tôi đánh tôi…
  • Ừ, thì em về đi, đợi tôi cùng về với!
  • Không đâu, mẹ tôi đánh tôi.

Nói rồi nó đi ra, mặt vênh lên nhìn tụi trẻ con đứng xem. Tôi đi theo nó. Nó nhất định không chịu đi ngang hàng với tôi. Khi tôi đi nhanh, nó đi chậm, lúc tôi đi chậm thì nó vượt lên trước và thỉnh thoảng lại nhìn trộm tôi một cái.

Đến đoạn đường rẽ về nhà, tôi dừng lại hỏi nó:

  • Em định bao giờ đi học?
  • Tôi không đi!
  • Tại sao không đi?
  • Không thích!

Em đã lớn rồi đấy… Nếu em không đi thì sang năm không được học nữa, mà không học thì sau này rất khổ…

Nghe tôi nói, nó cúi đầu xuống, đứng lùi lại phía sau. Tôi chờ đợi và hy vọng nó nói một câu gì. Nhưng rồi nó cứ đứng im như thế mãi đến khi tôi quay lại thì nó đã biến mất từ lúc nào rồi.

 

*

*  *

 

Sau vụ gặt, bộ mặt xóm làng thay đổi hẳn. Cái màu xanh xanh, xam xám của đường làng, nhà cửa, được phủ lên một màu vàng, một màu vàng sáng tươi và ấm áp. Màu vàng của rơm rạ, của những mái nhà mới, những đàn gà, những chú bò no béo tốt, của những sân đầy thóc và của màu nắng tháng mười…

Mọi nhà đua nhau nhuộm vải. Những mảnh vải dài, rộng, đủ các màu: nâu tây, cảnh kiến, trứng sáo, hạt dẻ, gụ xẫm căng dài trên các sân. Ngoài đồng, người vẫn còn đông bộn. Chỗ gặt nốt những thửa ruộng chín muộn. Chỗ cày bừa, chỗ gieo mạ, chỗ cấy rau ăn tết… Trong các nhà đông con, bà mẹ, bà cụ ở nhà suốt ngày ngồi bên thềm trông vải, khâu vá và may mới. Tiếng máy khâu trong nhà bác thợ may giữa làng lại chạy đều, chạy suốt đến đêm khuya. Trong làng, đây đó, có những cột mắc máy ga-len mới. Đêm đêm từ trong đình vẳng ra tiếng trẻ con múa hát, cười đùa

Nhà chị Hà cũng có thay đổi. Cái quây thóc buồng bên đã dỡ đi từ hồi đang gặt, bây giờ lại được quây lại, to hơn và toàn thóc mới. Bé Hoa được một bộ quần áo hoa, một cái cặp da con và trong nhà thêm một cái bàn mới quang dầu bóng loáng.

Lớp tôi (cũng như trong cả trường) cũng đổi khác nhiều. Những bộ quần áo mới, những cái bút máy, mũ, nón, cặp da xuất hiện. Em nào em nấy nét mặt phởn – phơ… Nhưng cũng còn có em mặc rách, vá víu vụng về. Các em là con nhà đông con, bố mẹ bận nhiều việc nên phải khâu vá lấy. Ở những em trai thì điều ấy chẳng nói làm gì, nhưng ở những em gái thì điều ấy làm tôi bận tâm. Các em nhỏ này chỉ mấy năm nữa sẽ thành những cô gái. Những cô gái thì phải mặc đẹp, phải biết khâu vá khéo… Tôi biết khâu vá mọi thứ sao tôi không dạy các em? Chỉ mấy năm nữa các em sẽ trở thành những cô gái…

Tôi cho họp tất cả các em gái ở trường lại, nói chuyện cho các em nghe và thành lập một tổ khâu và thêu thùa. Các em sung sướng và vui thích đến đỏ bừng cả mặt khi nghe tôi nói rằng nếu các em chịu khó học thì chẳng bao lâu có thể may lấy được quần áo, biết thêu cả hoa lá và chim cò nữa…

  • Cô ạ, cô dạy em ạ…!

Các em nhao nhao lên. Em nào cũng muốn được tôi dạy chứ không muốn học lại bạn. Nhưng cả trường hơn trăm em, tôi dạy sao hết được. Mỗi lớp tôi chỉ nhận một em; em đó học rồi về dạy lại lớp. Trong số mười hai em gái lớp tôi, tôi chọn Ngàn. Các em có vẻ ngạc nhiên lắm vì Ngàn ăn mặc lôi thôi và không biết khâu vá gì, mà trong lớp thì có em đã biết khâu, có em ăn mặc sạch sẽ gọn gàng hơn… Ngàn sung sướng gục đầu xuống bàn, lấy tay che lên chỗ vai áo rách chưa vá rồi bảo tôi:

  • Cô ạ, em không dạy các bạn được đâu…
  • Sao lại không? Em cứ học rồi khắc biết, nhưng phải chăm chỉ.
  • Vâng ạ.

Ngàn bẽn lẽn đáp lại và chăm chú nghe tôi nói rồi cắm cúi khâu. Tuy còn vụng về ngượng nghịu, nhưng tôi đã thấy ở đôi bàn tay Ngàn sự mềm dẻo khéo léo – điều này tôi đã biết từ trước – khi đọc những bài viết của Ngàn.

Từ hôm được học nữ công (cái tên gọi này nghe rất lạ, rất hấp dẫn đối với các em) các em gái lúc nào cũng bận bịu. Trước giờ học, trong giờ chơi, các em không chơi đùa như trước nữa mà túm tụm vào nhau. Em thì khoe vừa xin mẹ được mảnh vải mới để học thêu; em thì giơ cho bạn xem những con chỉ màu đẹp đẽ mà em vừa đi chợ huyện mua được… Rồi em này bảo em kia khâu, vá, cắt, thêu…

Ông Trí rất vui thích khi thấy trong trường có những cảnh ấy, nhất là khi thấy học sinh trong lớp ông ăn mặc nom lành lặn, tươm tất hơn trước. Ông nói với các chú con trai:

  • Các cậu xem đấy, các cậu cũng phải học tập đi, đàn ông học sẩy học sàng.
  • Tôi cũng muốn học lắm, nhưng…
  • Chiếm lúng túng nói rồi giơ bàn tay ra trước mặt. Bàn tay với những ngón to thô

và cứng làm tôi có cảm giác như nếu anh cầm cái kim thì chỉ khâu một vài mũi là kim gẫy hoặc sẽ buột rơi xuống đất.

  • Chó giữ nhà, mèo bắt chuột, ngựa không biết cày thì ngựa kéo xe…

Chiếm lẩm bẩm rồi bỏ đi. Mấy hôm sau anh xin ở đâu về một ống bễ, một cái đe. Những em lớn, em thì kiếm than, em cho mượn kìm búa, em tìm sắt vụn đem đến, họp nhau lại thành một tổ, ngày ngày ngoài giờ học lại kéo nhau đến rèn, dập, uốn… Các em chữa lại những cái cuốc, xẻng, dao.

Tiếng búa chan chát, tiếng kéo bễ, tiếng lửa reo vù vù… Không khí có cái gì mê mải,

rộn ràng như không khí của ngày xuân, ngày tết của tuổi thơ.

  • Ngày cuối cùng của vụ gặt, hợp tác xã Từ đường khao chúng tôi một bữa chén.

Cũng là nhân ngày ăn mừng được mùa, hợp tác mổ lợn. Chúng tôi ngồi ăn với xã viên trên những mâm gỗ mộc đặt giữa sân đất. Mấy ông giáo ngồi ăn riêng với các cụ già ở trên thềm. Họ uống rượu. Vừa ăn, họ vừa nhắc lại những ngày ăn đình ăn đám năm xưa…

Chiếm không ngồi cùng mâm đó. Anh ngồi chung với thanh niên ở tít tận mé ngoài. Vừa ăn họ vừa tranh cãi nhau về tình hình quốc tế. Thôi thì đủ chuyện: Chuyện Trung-quốc cảnh cáo Mỹ – Tưởng… Chuyện Quy ba tuyên bố độc lập, chuyện Liên-xô phóng vệ tinh thứ hai…

Tôi ngồi ăn với các chị phụ nữ. Chúng tôi có bao nhiêu chuyện để nói với nhau, nhưng lại chẳng nói được gì vì vừa ăn vừa phải đứng lên “tiếp tế” cho các mâm khác và trong nom đám trẻ con.

Ăn gần xong thì chị Bái đến. Hình như chị vừa đi họp ở đâu về. Chiếc áo màu gụ xẫm còn mới, một vuông ni- lông bọc quyền sổ cầm ở tay, đôi dép cao su đen đầy bụi, cái nón lúc lắc ở cánh tay. Vừa thấy chị, mọi người nhao nhao lên mời ngồi vào mâm mình. Chị lắc đầu nhìn quanh, nháy mắt cho tôi. Tôi chạy ra.

  • Lộ “bí mật” rồi nhé! Chết nhé!
  • Cái gì thế chị?
  • Cái gì à? “người ta” đến thăm chứ còn cái gì? Ngồi ở nhà ấy…
  • Ai cơ ?
  • Thôi đi đi, đừng vớ vẩn nữa… Chồng chưa cưới của cô chứ còn ai?
  • Chị đùa em!…
  • Ô hay, cô này đến lạ, có về ngay không? “người ta” đợi đến tiếng đồng hồ rồi…

Thành, Thành đến tận đây với tôi ư? Sung sướng quá, tôi vội vã chạy về.

Ở nhà, Thành đang ngồi trong buồng, và không hiểu thế nào mà anh đã mò được cuốn nhật ký của tôi giấu ở dưới gối và đang đọc. Anh đọc mê mải, không biết tôi đã đến bên cạnh.

  • Đưa trả em đây, đừng có làm cái lối xem trộm như thế!

Thành quay ra, trả tôi quyển sách, mặt tối sầm lại. Anh đã biết tất cả mọi việc rồi. Em đã thấy chưa, em rất dại…

  • Anh bảo dại cái gì kia?
  • Dại cái gì thì em biết đấy… Cái sẹo chẳng hạn…
  • Thôi, anh biết đâu mà chưa chi đã nói… khoan đã, bây giờ anh cho em biết tình

hình thi của anh như thế nào… sao anh không viết thư cho em biết?

  • Anh cũng định viết, nhưng…

Thành bỏ lửng câu nói, thừ người, đôi mắt lộ vẻ mệt mỏi chán chường. Tôi chợt thấy anh gầy nhiều so với hồi tôi chưa đi. Đôi mắt trũng sâu xuống, thâm quầng. Thương anh quá!

  • Anh hỏng thi rồi Huệ ạ. Anh xin chuyển về huyện Hà dạy học. Anh phải nói hết

nước hết cái bố mẹ anh mới bằng lòng. Anh đã nghĩ nát óc ra rồi, về đây vẹn cả đôi đường. May có ông bạn của bố anh dạy trên tỉnh, anh đổi cho con ông ta về Hà-nội.

Nói rồi anh chạy lại nắm lấy tay tôi, giọng nghẹn lại:

  • Anh đã như thế này, em thấy thế nào?
  • Sao lại thấy thế nào? Anh về đây dạy học cũng như dạy ở Hà nội. Ở gần anh, em vui lắm…
  • Ừ, ở đời, có khi sự bất hạnh lại là khởi đầu cho mọi việc tốt lành…

Thành ở lại với tôi một ngày. Buổi sáng, tôi dẫn anh ra cánh đồng và cũng như sáng chủ nhật đi chơi với My tôi dẫn anh lên đồi.

  • Em dẫn anh đi đâu thế?
  • Em dẫn anh đi xem
  • Ở đâu kia?…
  • Cái cảnh này đẹp lắm.
  • Vừa hỏi, Thành vừa đi theo tôi. Tôi dẫn anh len lỏi đi vào giữa những hàng cây,

hái hoa. Và, cuối cùng tôi dẫn anh đi đến gốc nhãn um tùm, chỉ xuống dưới cánh đồng.

  • Kia kìa, anh thấy không?
  • Cái gì kia? Anh không thấy? Cánh đồng… ối….
  • Tôi kêu lêu. Trước mắt tôi không phải là cánh đồng lúa xanh chạy dài đến chân

trời mà một cảnh khác. Một cánh đồng đang chuyển động, loang lổ nhiều màu sắc khác nhau – Chỗ trơ trụi sau ngày gặt hái; chỗ chưa gặt lúa nằm rạp vàng rượm như nong tằm; chỗ đang cày bừa, bùn nước loang loáng và chỗ mạ xanh rờn. Khác hẳn hôm trước, hôm nay có bao nhiều người trên cánh đồng. Họ đi lại, làm việc rộn rã và tiếng cười nói tiếng hát vọng lên tận đồi cao.

  • Đẹp quá, anh xem kia, những người gánh lúa! lòn ấn Tôi không ngờ cánh đồng

trong mùa gặt lại đẹp đến thế. Bao nhiêu con người trên cánh đồng. Cách đây không bao lâu, cũng có tôi trong những người ấy…

  • Em thật lạ, có thế mà em cũng bắt anh phải đi bao nhiêu đường đất…
  • Em đưa anh ra sông nhé. Năm 48 Pháp có cho tàu đến định đổ bộ lên làng, mình đánh bật được…
  • Thôi, anh xin em…

Thành cúi mặt đi xuống đồi. Chúng tôi trở về nhà, dọc đường chẳng ai nói với ai một lời.

Vào buồng, Thành xoay ra trang trí buồng cho tôi. Anh đóng những bức tranh lên tường, làm một cái giá sách nhỏ bằng tre treo trên tường rồi xếp sách lên đấy, hái những bông hồng ngoài vườn cắm vào lọ để lên bàn. Anh bảo rồi sẽ mắc cho tôi một cái máy ga- len nữa.

Xong đâu đấy, anh đem sách ra làm cho tôi một cái dàn bài tỉ mỉ những thứ mà tôi phải học.

Phải cố gắng em a, kỳ thi vừa qua, anh thấy kiến thức của anh còn nhiều lỗ hổng… Chắc em cũng thế. Bây giờ chúng ta phải học lại tất cả. Em thi đua với anh nhé!

  • Ừ, thi đua, thi đua…
  • Thành ở lại với tôi một ngày mà hình như cả làng ai cũng biết. Một ngày có bao

nhiêu người đến để xem mặt Thành. Người nào đến cũng có lý do hẳn hoi: người thì đến để gọi chị Hà đi họp (mặc dù chị đã đi họp từ sáng rồi), người đến hỏi xem đến tối có họp tổ không, người thì hỏi phương án chính thức đã làm xong chưa. Nhiều nhất là trẻ con, đứa chạy vào chơi với cái Hoa, đứa đứng ngoài cổng, sau nhà, bên hàng rào và có đứa rất bạo chạy vào tận nơi vờ hỏi tôi cái này cái nọ rồi chào Thành thật to:

  • Chào thầy ạ! Những chuyện ấy làm tôi buồn cười và thấy vui vui. Nhưng Thành

thì lại tỏ vẻ khó chịu lắm. Anh cau mặt bảo tôi:

  • Thật là những hiện tượng thiếu văn hóa!

Gần trưa, Chiếm đến. Có lẽ chưa biết là có Thành ở đây và đến vì việc gì cần lắm, anh đi vội vàng vào nhà, tay xách một cái hòm thợ mộc, tay cầm một cái cưa. Vừa nhìn thấy Thành anh đứng dừng lại hơi lúng túng. Lạnh lùng và chủ động, Thành đứng dậy, bắt tay Chiếm, mời thuốc. Rồi, nhìn Chiếm từ đầu đến chân, trên môi thoáng một nụ cười nửa miệng, anh giới thiệu một cách khéo léo:

  • Tôi là Thành… Anh cùng dạy với em Huệ?
  • Vâng. Anh về hôm nào? Anh công tác ở đâu ạ? Chiếm niềm nở hỏi chuyện Thành

nhưng trong người như có điều gì chẳng yên nên hai bàn tay cứ lùa mãi vào mái tóc bồng rối và người thì xoay trở luôn luôn trên ghế. Anh cười nhưng mắt lại như mải nhìn một cái gì đó vô hình trên tường. Một lúc anh bảo tôi:

  • Ông Trí bảo tôi đến dặn chị là ngày mai được nghỉ, chị chuẩn bị giáo cụ trực quan

để báo cáo.

Nói đoạn anh xách hòm đứng dậy chào chúng tôi rồi đi ra. Thành vẫn giữ nụ cười trên môi, đứng dậy đưa tiễn Chiếm ra đến cổng:

  • Anh ở lại chơi với chúng tôi đã, chẳng mấy khi…
  • Thôi, xin phép anh. Để khi khác, bây giờ tôi đang bận!…

Thành lại giơ tay và cũng như lúc đầu, anh chỉ cầm lấy mấy đầu ngón tay của Chiếm khẽ lắc lắc rồi buông ra. Chiếm đi khỏi, Thành cười phá lên, ngả người ra ghế.

  • Anh cười cái gì thế?
  • Thế mà còn phải hỏi à? Thằng cha vui tệ, buồn cười quá… Nó mê em đấy!
  • Mê em? Anh chỉ nói bậy!
  • Chứ còn gì? Nhìn dáng điệu hắn anh biết, em phải biết rằng con mắt anh nó cũng

biết “giải phẫu”.

  • Không phải đâu, chắc có việc gì mà anh ấy không tiện nói đấy thôi!…
  • Việc gì? Việc đến nhà người ta để báo mai nghỉ à?… A ha!…

V

 

Buổi chiều Thành về, tôi đưa tiễn anh ra đến đầu làng. Trở về, tôi rẽ vào nhà Chiếm. Nhà Chiếm là một ngôi nhà là ba gian nằm giữa một vườn cây ăn quả. Ngôi nhà nhỏ, sạch sẽ, ngăn nắp và có nhiều cửa sổ. Chiếm đi đâu vẫn chưa về. Ông bố đang trồng cây ngoài vườn, mái tóc bạc trắng, cắm cúi trên luống đất, không biết có tôi đến. Bà mẹ Chiếm đang ngồi sảo thóc ướt ở sân. Thấy tôi bà nói:

Em nó ra trường từ sáng sớm đấy cô ạ ! Bà cụ mời tôi vào nhà uống nước rồi kể lể:

  • Chẳng hiểu công việc thế nào mà em nó cứ đi suốt ngày ấy, hôm nào về đến nhà,

cơm canh cũng nguội cả. Cô giáo có bận như thế không? Hôm qua bảo hôm nay nghỉ đi gặt cho hợp tác thế mà đến sáng lại thấy đi, không biết đi đâu, chặt cả một cây tre ở nhà mang đi đấy, để làm gì không biết, mấy lần trước cũng thế. Tôi có hỏi thì nó chỉ nói: “Rồi con sẽ đền u mà”. Đền u, cái ngữ anh thì lấy tre đâu mà đền u? Năm ngoái dạy ở Hiệp-dâu về đào cả mấy cây vải ở vườn mang đi đấy cô giáo ạ!

Giọng bà cụ kéo dài nhỏ nhỏ vừa như trách móc vừa như âu yếm, bằng lòng. Trong nhà Chiếm đồ đạc kê rất ngăn nắp, gọn gàng. Trên tường, treo nhiều tranh to, nhỏ đủ các cỡ. Mấy cái bằng khen từ ngày Chiếm còn đi học và những giấy khen dạy từ năm ngoái được đóng trong những cái khung bằng tre ngà vót kỹ, bóng lên nước. Cạnh bàn làm việc treo một lá cờ Đoàn bằng sa- tanh và mấy cái khăn quàng còn mới nguyên, có lẽ đó là những thứ chuẩn bị cho buổi kết nạp đội viên tối mai. Trước bàn làm việc, dán một khẩu hiệu nhỏ: “Sống, làm việc, học tập như những người Cộng sản”. Trên bàn bề bộn, đầy ắp những sách vở, giấy má, tranh vẽ, bản đồ, giáo cụ trực quan làm dở…

Đấy, lúc nào cũng bừa bãi thế đấy cô ạ. Cứ là đêm nào cũng lúi húi đến gần gà gáy chưa xong.

Vừa nói, bà cụ vừa sắp xếp lại các giấy má trên bàn, cầm cái đèn để xuống gậm bàn. Tôi đang chăm chú nhìn cái bản đồ Việt-nam vẽ rất đẹp treo gần cửa sổ thì chợt nghe ở đâu đó rất gần, tiếng một người con gái hát ru em vẳng tới. Tiếng hát trầm trầm, ngân dài. Ai hát mà hay thế hả bà?

  • Cô Lựu đấy!
  • Cô Lựu à? Cô ấy ở gần đây ạ?
  • Cách có cái vườn thôi. Cô giáo quen cô ấy à?
  • Không, cháu chỉ biết thôi.

Nghe tôi hỏi, bà ngồi im lặng một lúc rồi bỏ ra ngoài sân sảo thóc. Tôi chợt nhớ lại buổi gặt hôm nào, nhớ lại khuôn mặt tròn tròn trắng trẻo, cái cằm nhìn nhọn và vuông khăn kéo thấp xuống, thật là một cô gái xinh xắn dịu dàng. Một cô gái dễ yêu!

  • Bà ạ, – Tôi ngồi xuống bên cạnh bà cụ, cùng sảo thóc và khẽ hỏi
  • Cháu hỏi bà cái này nhé.
  • Vâng. Cô giáo cứ hỏi đi, cái gì kia ạ?
  • Là… có phải anh Chiếm nhà ta định lấy cô Lựu phải không ạ?
  • Phải đấy, cô giáo ạ!
  • Sao cụ không cưới đi, để cô ấy về làm đỡ cụ, có cháu bế cho vui cửa vui nhà?
  • Ôi dà, thế đã chẳng có chuyện…

Bà cụ nói rồi ngửng lên nhìn ra vườn, tay sảo thóc mạnh thêm. Thóc như mưa rào xỏa xuống sân thành những vùng rộng.

  • Đầu đuôi thế này cô giáo ạ… Tôi nói ở đây cô giáo đề ở đây đừng nói lại với nó

làm gì, không rồi nó lại bảo là tôi hay chuyện. Nguyên là năm ngoái em nó ra trường được về dạy tận Hiệp-dâu, nó ít về nhà lắm, có khi hơn tháng ấy. Mà tôi thì nào có được khỏe như bây giờ đâu, ông cháu cũng thế, lại phải cái năm hạn, làng thì chưa có hợp tác. Hai vợ chồng già chăm sao nổi năm sào ruộng. Tôi muốn nó lấy vợ. Nhưng nó không nghe. Tôi cứ tưởng nó phải lòng ai trên ấy hay trên tỉnh thì thật khổ cho tôi quá. Mình nhà quê, nói cô giáo bỏ quá cho chứ gái tỉnh thành về đây chịu sao nổi, chỉ ăn rồi ngồi vá gấu quần cũng hết ngày thôi… Nhưng sau hóa không phải. Một hôm tôi bị ốm, ốm rõ nặng. Ông cháu lúng túng quá, cái trò đàn ông cô biết đấy,… thế là hàng xóm phải thay nhau sang trông nom tôi. Cái con bé Lựu là hay sang nhà tôi nhất. Nó chăm sóc tôi như chăm sóc mẹ nó ở nhà. Có đêm nó còn sang ngủ cả ở nhà tôi nữa. Con bé thực tốt quá! Một buổi nó đang múc cháo cho tôi ăn thì thằng Chiếm về. Thế là hai đứa nói chuyện với nhau. Hôm ấy cũng chưa nói chuyện gì riêng tây đâu cô giáo ạ. Con bé thì kể chuyện tôi ốm như thế nào, tôi ăn được gì, mong Chiếm về ra sao. Còn thằng Chiếm thì kể nó đang phải làm gì, tại sao mà không về ngay được. Kỳ ấy nó ở nhà bốn ngày. Hai đứa xem ra quấn quýt nhau lắm. Tôi thấy thế cũng mừng thầm. Lựu, nó là đứa con gái ngoan tốt nết, hiếu thảo không ai bằng đầu cô ạ. Trước kia tôi không định hỏi cô Lựu cho con tôi đâu, tôi nhằm cô Nhàn xóm dưới kia. Con bé ngoan lắm, nhưng phải cái khí to người. Nó đứng có dễ cao bằng thằng Chiếm đấy, được cái làm khỏe thì không ai bằng. Cha mẹ hai bên đều bằng lòng cả. Con cái Nhàn cũng ưng. Tôi đã đem trầu cau đến chơi nhà nó, mẹ nó cũng đã lên đây. Nhưng thằng Chiếm thì lại lảng ra. Tôi bảo, nó lửng lơ đáp:

  • Con lấy vợ chứ u lấy vợ đấy à?
  • Thế thì anh chê nó cái gì nào?
  • Không chê cái gì cả, nhưng con không yêu thì con không lấy được!

Thế là thôi! Cuối năm ấy cô Nhàn lấy chồng, bây giờ đã sắp hai con rồi! Đến cái Lựu, tôi xem ý ra chúng nó có yêu nhau thật cô ạ. Gia đình bên ấy cũng bằng lòng gả. Ông nhà tôi cũng ưng lắm. Tôi đã mua trầu cau đi hỏi cho nó và định cuối năm này thì cưới. Tôi mua thêm một con lợn thả sẵn vào chuồng nuôi thêm mấy con gà nữa. Mọi việc đã thu xếp đâu vào đấy cả thì kỳ nghỉ hè vừa rồi, được nghỉ hơn một tháng, nó về ở nhà, thế là hỏng chuyện! Nó về nghỉ nhà nhưng nó có ở nhà đâu. Nó đi làm với hợp tác, đi dạy bổ túc, đi họp, đi làm phân với thanh niên… Thôi thì có trời mà biết hết được nó làm những gì chỉ thấy ăn rồi đi, ăn rồi đi… Chẳng hiểu thế nào mà hai đứa lại tránh mặt nhau. Tôi hỏi. Nó nói:

  • Không có gì đâu mẹ ạ!

Khi tôi bàn đến chuyện cưới, nó chỉ cười:

  • Cưới làm gì vội hả mẹ? Cứ thư thả đã…

Thế rồi nó đi. Con cái Lựu giận gì nó không biết mà tránh cả mặt tôi. Tôi gạn ép mãi nó mới nói:

  • Anh ấy chê con lạc hậu, con không xứng đáng với anh ấy… Thôi, bà hỏi người

khác cho anh ấy! Tôi mắng thằng Chiếm, nó nói:

  • U không biết, con không muốn như thế này đâu… Con chỉ muốn cho cô ấy sung

sướng. Cô ấy chưa hiểu con rồi cô ấy khắc hiểu. Mẹ xem, mẹ gần sáu mươi tuổi, cô ấy mới mười tám mà hai người sống có khác gì nhau không?

  • Nó nghĩ thế phải đấy. Con gái chứ đã móm mém như tôi với bà đâu mà cứ quanh

quẩn… Bố nó nói xen vào. Ông bố nào mà chả bênh con giai hở cô!

Thế là tôi chẳng biết nói thế nào nữa. Ông bà bên ấy cũng già rồi, mong cho con cái yên phận, nên cứ nói ra nói vào. Câu chuyện lan ra, cả làng ai cũng biết… Cô xem, thế tôi có khổ không. Năm nay em nó được về làng dạy, về ở nhà thế này, tôi mừng lắm, nhưng cũng chẳng biết thế nào. Tính nó có được như con nhà người ta đâu, nó bướng bỉnh lắm kia cô giáo ạ. Cô cùng dạy với em, cô giúp đỡ em hộ tôi với. Tôi chỉ có mình nó!

Ở nhà bà cụ về, tôi đi tìm Chiếm. Tôi tin rằng Chiếm đến nhà tôi không phải như Thành nói mà vì có việc cần đến tôi. Từ trước đến nay chẳng bao giờ vô cớ mà Chiếm đến nhà tôi cả. Tôi đi tìm Chiếm rất lâu mà không gặp. Ở đâu người ta cũng bảo Chiếm có đến và đã đi chỗ khác rồi. Cuối cùng, tôi gặp anh ở ngay chính lớp của tôi dạy. Anh đang ngồi trên nóc nhà đảo lại đám ngói ở phía cuối lớp. Ở đấy có mấy cái mè bị gãy, ngói trụt xuống. Những hôm mưa lớp thường bị dột. Ngoài sân mấy em học sinh đang lấy tre và ra đánh thành những cái gianh to dựng vào phía sau lớp.

Các em học sinh thấy tôi thì chào qua một câu rồi lại cúi xuống tiếp tục làm việc. Chiếm cũng thế. Tự nhiên tôi thấy mình trở nên thừa và như một người khách lạ… Có lẽ họ cho rằng tôi trốn trách nhiệm? Thế thì không thể chịu được! Đã thế thì tôi không cần nữa, tôi đứng dậy bỏ ra về.

– Chị Huệ ơi, bỏ thầy trò tôi đấy à? Chiếm gọi tôi rồi nhảy xuống đất.

Thôi, chị về đi, đừng để anh ấy ở nhà một mình… Có cô thì chợ cũng đông, cô đi lấy chồng thì chợ vẫn vui… Sắp xong cả rồi. Ban sáng đến định rủ chị đi làm cho vui, thấy chị bận thành ra chúng tôi làm một mình vậy.

– Anh ấy về rồi. Sao hôm nọ họp nhà trường bảo thứ năm mới lao động chữa lớp cơ mà?

– À, chị chưa biết nhỉ? Tối qua, đài báo tin mai có gió mùa đông bắc. Tôi lo các em bị mưa…

Nghe Chiếm nói, tôi thấy hối hận. Ra tôi giận dỗi thật vô lý. “Họ” chân thành và quan tâm đến công việc của mình chu đáo biết bao nhiêu. Còn mình thì đi giận dỗi và nghĩ xấu về “họ”. Thật đáng ghét quá!

  • Anh Chiếm phân công cho tôi làm gì đi?
  • Phân công à? Thích thật, bây giờ mình được là chỉ huy.. Thế thì xin bà chị chẻ

cho ít lạt để mấy hôm nữa nhổ mạ… Còn các việc ở đây thì đã tạm xong!

Tôi ngồi chẻ lạt và chợt nhớ đến câu nói ban nãy của Thành về Chiếm. Thật tiếc, sao lúc này không có Thành ở đây để anh thấy rằng ý nghĩ của anh về Chiếm thật sai lầm và chẳng tốt chút nào. Rồi tôi sẽ nói chuyện này với Thành.

  • Này anh Chiếm hình như lúc nãy đến nhà tôi, anh có điều gì không bằng lòng?

Có gì mà không bằng lòng – Chiếm cười khà khà, – mình không biết khéo léo. Anh ấy thì khéo quá. À, mà tại mình đang bận. Chị biết đấy, mai…

Rồi Chiếm lảng sang chuyện khác. Một lát sau anh đột ngột hỏi tôi:

  • Chuyện thằng Nam đến đâu rồi?
  • Chuyện thẳng Nam?

Tôi nhắc lại lời Chiếm và sửng sốt. Cách đây mới có mấy hôm tôi còn gặp nó, còn lo lắng về nó, thế mà giờ đây nó đã đi khỏi đầu óc tôi rồi. Tôi đã quên nó. Tôi sợ hãi nhận ra rằng cùng với thằng Nam là bao nhiêu công việc khác như xây trường, củng cố các lớp bổ túc, làm giáo cụ đều bị xóa mờ hết trong đầu óc tôi từ lúc Thành đến. Đầu óc tôi chỉ còn rộn lên những nghĩ ngợi về tương lai, nghĩ đến những buổi gặp gỡ sắp tới, việc học thêm, cái lọ hoa và cái máy ga len… Câu hỏi của Chiếm, việc làm của Chiếm đã kéo tôi trở lại…

  • Hôm qua tôi và ông Trí có bàn nhau về chuyện nhà trường. Tôi có nói đến chuyện

thằng Nam. Lúc đầu ông ấy còn phản đối, nhưng sau khi phân tích qua lại, ông ấy cũng đồng ý là có thể cho nó vào lớp được nếu nó đã hối lỗi và có đủ sức theo học. Chị nhận việc ấy nhé?

Tôi gật đầu và nhớ lại cái buổi chiều thằng Nam biến mất trước mặt tôi. Sao cái hiện tượng ấy lại khích động lòng tôi đến thế? Rõ ràng nó là một thằng bé kỳ lạ và thông minh!

  • Được, tôi nhận. Nhưng anh phải giúp tôi một tay.
  • Xin sẵn sàng.

Rồi anh cười. Nụ cười tươi tắn và thoải mái. Tự nhiên tôi thấy người phấn chấn và lòng bừng lên một niềm tin.

Ở trường về, tôi hỏi thăm đến nhà Nam. Lòng hồi hộp tôi bước thật nhanh tưởng như nếu tôi đi chậm lại thì mọi việc sẽ hỏng cả. Sao thế nhỉ? Không biết có phải tại nhiệt tình làm việc của Chiếm đã chuyển sang tôi hay tại ngày mai là ngày nghỉ, ngày mai có đợt gió mùa đông bắc đầu tiên tràn về. Tôi cũng không biết nữa. Tôi đi vội vàng. Đường xa quá. Khi tôi đến nơi thì chiều đã muộn.

Nhà Nam là một ngôi nhà lá nhỏ, cũ kỹ, nằm lọt thỏm giữa một vườn tre xanh ngút. Tre um tùm che kín cả mái nhà nên giữa chiều mà trong nhà như đã chạng vạng tối. Cả nhà không có một ai, không một tiếng động nhẹ. Ngoài sân, một cái sân đất nện dối loáng thoáng rêu xanh âm và lạnh. Mấy con gà đói nhớn nhác bới rác ngoài gốc tre. Im lặng, dưới bếp, một vệt khói xanh bò dài trên mái,

  • Có ai ở nhà không?

Tôi hỏi rồi mở cánh liếp che bếp. Trong bếp, một cảnh ấm áp. Thằng Nam – tôi nhận ngay ra nó, mặc dù nó ngồi quay lưng trở ra coi như không biết có tôi, liên tiếp cời rơm vào bếp. Trên bếp, nồi cơm đang sôi. Cạnh Nam, một thằng bé trạc độ bốn năm tuổi đang lúi húi lùi thóc. Thấy tôi nó đứng vụt dậy, lễ phép chào : Chào cô ạ! Chào cô ạ!

Tôi ngồi xuống cạnh nó, đẩy rơm vào bếp rồi hỏi:

– Mẹ đi đâu rồi hả Nam?

Nó không ngẩng lên mà đầu càng chúi xuống, hai tay run run.

  • Đi chợ.
  • Bao giờ về hả em?
  • Tối!

Nó vẫn trả lời cộc lốc như những lần trước, nhưng giọng có khác hơn, dịu nhẹ và hơi bối rối.

  • Này em, tại sao hôm nọ…

Tôi chưa nói hết câu thì Nam đã đứng dậy đi ra ngoài. Tôi đang lúng túng chưa biết nên thế nào thì mẹ Nam đã đi chợ về. Thấy tôi, bà hoảng hốt:

  • Cháu nó phải tội gì thế cô ?

Tôi chợt hiểu, vội vã nói cho bà biết là tôi đến đây để nói với bà cho thằng Nam đi học. Khi tôi nói rõ ràng Nam là một đứa trẻ thông minh, có thể theo học được thì mắt bà sáng lên.

  • Vâng, cô ạ, của đáng tội, trước kia cháu cũng không đến nỗi nào. Nhưng từ khi bố

cháu mất đi, rồi năm kia lại bị đuổi học thì cháu nó đâm hư hỏng chẳng coi ai ra gì.

Hồi ấy còn đang kháng chiến cô ạ. Làng Liên-sơn này bị tề khổ lắm. Ta đánh nhau mấy nó mãi rồi mới bị tề đấy cô ạ! Thật chẳng gì khổ nhục bằng sống trong làng tề, cứ nơm nớp như cá nằm chốc thớt. Làng đang bị tề thì bố cháu bị ốm. Thuốc không có, cô bảo ngày đó đã làm gì có trạm xá bệnh viện chữa bệnh cho nhân dân như bây giờ, chỉ có nắm lá xì xăng thôi. Bố cháu thì tạng yếu, thế là cứ ốm dấp xuống, mỗi ngày một nặng. Cháu Nam ngoan lắm, suốt ngày trông em, săn sóc bố. Một buổi nghe bố đòi ăn một cái bánh mặt trăng, tôi thì tiền không có một xu, cô giáo bảo lấy gì mà mua? Bà con xóm giềng cũng cố giúp đỡ nhưng cô giáo bảo thời buổi loạn lạc đói kém thế ai có nhiều mà giúp? Nghe bố đòi, không có, thế là nó bỏ nhà đi biệt từ sáng đến tối mới về, dúi vào tay tôi một gói nặng, mở ra những ba cái bánh! Tôi thật không ngờ. Nhưng thầy cháu có còn ăn gì được nữa đâu, tay cầm cái bánh, chưa đưa đến miệng đã buông rơi xuống đất. Đến chiều thầy cháu trở bệnh rồi a đi …

Chôn cất cho thầy cháu xong, tôi lại đòn gánh lên vai, xuôi ngược tần tảo. Thời buổi khó khăn quá, lại mất mùa luôn nên một mình tôi kiếm không đủ nuôi hai cháu. Nhiều hôm, hai bữa chỉ có cháo! Quần áo của các cháu mỗi đứa chỉ có một chiếc đùm đụp, rách như tổ đỉa, hôm nào mưa gió ướt át là chúng phải ở truồng, khổ lắm cô giáo ạ! Thương mẹ, thương em, thằng Nam đâm ra hư hỏng. Nó lang thang khắp các nơi. Trong làng, ngoài xóm, chợ búa nào cũng có mặt nó. Nó đi… nó đi ăn… cắp cô giáo ạ. Những hôm đầu tôi có biết đâu như thế, mãi đến hôm nó hốt hoảng chạy về, mặt bê bết máu, rút trong ngực áo ra một cuộn vải hoa. Thương con, ê chề với làng xóm, tôi cấm tiệt không cho nó đi đâu nữa. Nhưng tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa, khó gột rửa lắm. Người ta chửi bới nó, móc máy, cạnh khóe tôi. Có lúc tôi chỉ muốn cắn lưỡi mà chết đi cho rảnh. Nhưng nó thì lại chả coi ai ra gì, bất chấp tất! Tôi lo lắng quá, không biết làm thế nào… Cho đến ngày hòa bình, trường làng lại mở. Trường làng ngày ấy chỉ có hai lớp thôi, mình cụ giáo Thuận dạy. Tôi nghĩ phải cho cháu đi học thì cháu mới thay đổi tính nết được. Thế là rồi cố làm lụng, ăn nhịn để dành, cố năn nỉ xin thầy giáo cho cháu đi học. Được đi học, cháu chịu khó học, chịu khó làm, tâm tính như thay đổi hẳn. Nhưng chưa được một khóa thì cháu bị đuổi… Nguyên do thế này cô giáo ạ. Chả là ở lớp cháu, có đứa có một bút máy mới mua. Chẳng biết đứa nào lấy hay nó đánh mất ở đâu, nhưng cứ đổ cho cháu. Thế là hai đứa đánh nhau. Thầy giáo đuổi nó về không cho học nữa. Cháu thôi học từ hôm đó, và cũng từ hôm ấy nó đâm liều lĩnh, bướng bỉnh, gây gổ lung tung. Nó lại ăn cắp, lại đánh nhau… Đoàn thể, hợp tác giúp đỡ cháu đã nhiều cũng chẳng ăn thua gì. Cô ơi, cô đã đến đây, cô có lòng hỏi đến, tôi chả giấu cô điều gì. Cô thương tôi, cô thương cháu, cô giúp tôi dạy dỗ cháu nên người…

Đôi mắt người mẹ rưng rưng, bàn tay xiết chặt lấy tay tôi, tin cậy, gửi gấm.

*

*   *

Ở nhà Nam về, lòng tôi xôn xao bao nhiêu ý nghĩ. Bên ngoài trời tối đã lâu. Bóng tối mịn màng, xốp nhẹ trùm xuống khắp xóm làng. Lẫn trong tiếng gió xào xạc cuốn trên đường là tiếng một cánh liếp nhà ai buộc hờ, bị gió quật lên quật xuống phành phạch.

Đi được một quãng, tôi đứng sững lại: nó đang đứng trước mặt tôi, lưng tựa vào một búi tre, mắt nhìn cắm về phía trước. Nó đang nghĩ gì thế? Tôi nhẹ chân lại gần, đặt tay lên vai nó. Nó giật bắn người quay ngoắt lại. Trông thấy tôi, nó run lên định chạy. Tôi nắm chặt lấy tay nó, kéo lại gần.

  • Im, cô bảo..

Tôi nắm lấy vai nó. Người nó như mềm ra, ngả vào tôi. Bao nhiêu bướng bỉnh, gây gổ lúc này như không còn ở nó nữa. Nó chỉ còn thuần là một đứa trẻ yếu đuối, tin cậy vào tôi trong một tình cảm thân thiết. Tôi đặt tay lên mái tóc dày dặn, bù bịt những đất cát của nó, lòng xúc động.

Và tôi nói. Tôi không còn nhớ là tôi đã nói những gì nữa, chỉ biết rằng tôi đã nói rất nhiều. Tôi nói đến những lỗi lầm nó đã mắc phải, nói những điều tôi nghĩ về nó, những triển vọng của nó, những lần gặp gỡ trước, đến vết sẹo trên mặt tôi… Cuối cùng, tôi bảo :

– Mai đi học, em nhé!

Trong im lặng, tôi thoáng nghe thấy tiếng nấc. Nó khóc, nước mắt ướt đầm cả tay tôi.

– Ngẩng lên em ! Con trai mà khóc thì hèn quá ! Mai lại đi học, vui lên chứ!

Tôi nói và đỡ nó đứng thẳng dậy. Như giữa một cơn lốc, nó lảo đảo dựa vào người tôi. Bàn tay nhỏ và nóng nắm lấy tay tôi. Đôi mắt đăm đăm nhìn lên, chứa chan nước mắt.

 

VI

 

Mùa đông.

Năm nay mùa đông đến sớm, vội vàng và đột ngột. Giữa lúc nắng thu còn vàng ánh và mùi thơm của các loại hoa cỏ còn sực nức thì một đêm nào đó trở dậy đã nghe mùa đông đến rồi. Gió và mưa.

Trong những ngày ấy các em đi học, áo tơi, nón lá, đi dầm trong mưa rét lướt thướt. Nhà trường đặt kế hoạch chống rét cho học sinh. Tôi chia lớp học ra thành nhiều tổ. Những em ở gần vào một tổ với nhau để giúp nhau lúc đi, về. Buổi sáng, trước khi vào học, tôi đốt lửa cho các em hơ quần áo và tay chân cho đỡ cóng. Những em ở xa thì vận động gia đình gửi gạo cho các em đến ở nhờ nhà những bạn ở gần trường. Nhưng có những việc mà tôi chẳng sao lo trước được: có hôm, sắp đến giờ học thì trời sập mưa (những trận mưa lớn còn rớt lại từ mùa thu hay mùa hè xa xôi nào đó kéo đến cùng dông gió ầm ỹ). Nhiều em phải nghỉ học. Tình hình học tập sút hẳn. Tôi rất lo vì sắp hết học kỳ một rồi mà sức học của các em còn đuối lắm. Theo kế hoạch chung của nhà trường thì phải tranh thủ dạy bù vào những hôm trời nắng ấm và những ngày chủ nhật đẹp trời thì dạy thêm cho những em học kém.

Những em học kém ở lớp tôi có trên một chục. Những em này, có em vì còn ít tuổi, có em vì ngồi trong lớp không chịu nghe giảng, có em về nhà ham chơi không chịu học, có em vì nhà bận, phải nghỉ học nhiều. Tất cả các em gộp lại thành một lớp nhỏ học thêm vào những hôm rỗi rãi, thuận tiện.

Đã lâu, hôm nay trời mới nắng ấm, lại trúng vào ngày chủ nhật. Các em rủ nhau đến nhà tôi học thêm. Các em đến sớm, hạ cánh cửa xuống làm ghế, kê ngồi xung quanh giường. Bảng là cái bàn dựng lên, quay chân vào tường. Hôm nay tôi dạy các em viết chính tả, tập đọc và chữa mấy bài toán tập cho về nhà làm từ mấy hôm trước.

Đọc chính tả cho các em viết thực là mệtt vì tiếng địa phương ở đây nhầm dấu và nói ngọng hết. Vì vậy muốn cho các em viết đúng chữ thì phải đọc sai dấu đi, dấu “hỏi” thành “ngã”, “sắc” thành “nặng”, nếu đọc đúng thì các em sẽ viết sai. Vì thế nên có em học khá mà trong một bài chính tả ngắn cũng mất đến hơn một chục lỗi. Tôi kiên quyết đọc rất đúng các dấu một cách thật rõ ràng.

  • Các em ạ, các em mà cứ viết sai như thế này mãi thì không được đâu. Đã đành là

người địa phương nào nói tiếng địa phương ấy, nhưng phải nói cho chính xác, cho đúng tiếng phổ thông. Nào, bây giờ các em bỏ bút xuống, đọc theo tôi.

Mặt trăng tròn như một cái đĩa vàng treo lơ lửng giữa nền trời xanh biếc.

Mặt trăng tròn như một cái đĩa vàng treo nơ nửng giữa lền trời xanh biết.

  • Không được, đọc lại, cái “đĩa”, chứ không phải cái “địa”, lưỡi phải đưa vào

trong…

Cả lớp tròn môi đọc theo tôi. Có một vài tiếng thôi mà nghe sao khó khăn, vất vả đến thế! Đọc xong, có em ngồi ngây ra, có em mặt đỏ lên và ngơ ngác như vừa làm một việc gì lầm lỡ vậy.

Thằng Nam ngồi ở một góc xa nhất. Nó ngồi riêng rẽ trên một cái ghế con, quyển vở để trên bậu cửa, mắt lơ đãng nhìn ra ngoài sân. Nó không đọc. Trong lớp, nó phát âm vào loại giỏi nhất (tôi thật không hiểu nhờ đâu mà nó được như thế) có những chữ khó cả lớp mắc lỗi thì nó lại viết hoàn toàn đúng. Cái giọng the thé, mỗi khi nó đứng lên đọc bài – rất ngắc ngứ và chậm chạp – làm cả lớp phải cười ầm lên nhưng tôi thì lại chả bẻ được nó một chữ sai nào. Vì thế nên khi mấy em bên cạnh nó đọc nhầm, tôi bắt đọc lại thì nó nheo mắt, gãi tai, làm điệu bộ chế nhạo. Lúc đầu, những đứa bạn nó cứ lờ đi như không biết. Nhưng một lúc sau chúng ngồi thẳng lên, bàn tay vòng ra sau lưng, nắm lại thành những nắm đấm chắc nịch, đầy vẻ tức giận.

  • Này, làm cái gì thế? Đi học hay là đi đánh nhau? Nghe tôi hỏi, chúng ngồi ngay

ngắn lại, hai tay đặt lên vở mắt chăm chú nhìn lên bảng. Còn thằng Nam thì vờ ngơ ngác nhìn quanh như không hề biết chuyện gì xảy ra ở đâu vậy.

Nhìn dáng điệu nó, tôi phải quay đi để khỏi phì cười. Thằng Nam mà đóng kịch thì chắc đạt lắm (sang xuân, ban văn nghệ nhà trường củng cố lại, nhất định phải đưa nó vào đội kịch). Nhưng dù thế nào cũng không thể để nó trêu chòng các bạn như thế được. Cách đây ít hôm đã có một trận đánh nhau về chuyện ấy rồi. Hôm ấy trong giờ tập đọc, học sinh tập phát âm từ “chiến sĩ”. Giờ chơi được một lúc thì trẻ con vào mách tôi Nam và Thắng đánh nhau. Chúng đánh nhau rất kịch liệt, tôi phải cùng hai em nữa lăn sả vào mới lôi được chúng ra. Đứa nào cũng hầm hầm, mặt đỏ bừng, gầm ghè như muốn nuốt sống nhau. Tôi bắt cả hai đứa ở lại làm kiểm điểm. Thằng Nam nhất định không chịu.

  • Em làm gì? Cô giáo dạy em thì em đọc chứ em làm gì?
  • Thế em đọc cái gì?
  • Em đọc “chiến sĩ”.
  • Không phải… Nó đọc “chiến sỉ”… nó cứ trỏ vào mặt em mà đọc như thế ! – Thắng vội vàng nói rồi hằn học nhìn Nam.

Lúc ấy tôi mới hiểu ra nguyên nhân. Bố em Thắng tên là Chiến mà Nam thì không bao giờ nói nhầm dấu cả.

Giờ ra chơi, tôi gọi Nam ra chỗ vắng, bảo:

  • Em làm như thế để làm gì hả? Các bạn, đứa nào cũng quý em, sao em lại muốn

gây gổ cho mất đoàn kết như thế? Em chế riễu các bạn như thế thì được cái gì mà các bạn thì đau khổ. Em không nhớ trước kia – ngày em bắt đầu đi học ấy – các bạn cứ hay nói em, em khổ như thế nào à?

Nó cúi đầu xuống, đôi mắt lộ vẻ buồn rầu, hối hận. Chắc nó nhớ lại những ngày vừa qua. Cái ngày đầu tiên nó đi học thật là một ngày đặc biệt mà tôi chắc rằng nó sẽ không bao giờ quên được. Hôm ấy (sau hai ngày tôi đến nhà nó) Nam đến lớp rất sớm. Không hiểu nghĩ thế nào nó vào lớp và ngồi sẵn ở đó. Có lẽ nó sợ đến muộn thì sẽ bị nhìn, bị hỏi chăng? Đến khi bên ngoài có tiếng trẻ lao xao đi đến thì nó hết sức bối rối và thấy rõ rằng mình đã tính lầm. Thế là nó gục đầu xuống quyển vở để khỏi phải nhìn thấy ai.

  • Đứa nào thế nhỉ? Đứa nào ngồi vào bàn tao thế nhỉ?

Đám trẻ nhao nhao hỏi nhau. Khi nhận ra thằng Nam thì chúng im lặng, bỏ đi ra ngoài, túm tụm nhau lại bàn tán xem tại sao tôi lại cho thắng Nam vào học. Thằng Nam nghe thấy hết. Nóng tiết, nó vùng đứng dậy, cắp sách ra về. Nhưng chỉ đi được nửa đường thì nó quay lại. Khi kẻng vào học đánh được một lúc thì nó đi đến (lúc này cả lớp đã vào học). Khác hẳn lần trước, nó vênh mặt lên, mắt nhìn thẳng, ưỡn ngực chào tôi rồi đi vào lớp, đàng hoàng ngồi vào chỗ tôi vừa chỉ cho nó. Cả lớp lặng đi một lúc rất lâu. Chú bé ngồi cạnh Nam lặng lẽ ngồi lùi vào góc bàn, thành ra mình nó chiếm một khoảng rất rộng. Thằng Nam lúc đầu giương giương tự đắc vì việc đó, hai tay nó khuỳnh khuỳnh đặt trên bàn, mắt nhìn ngang, nhìn dọc. Giờ chơi, chả mấy đứa chịu chơi với nó, ngoài một vài đứa đầu bò, đầu bướu. Chắc nó cũng hiểu đó là điều chẳng tốt đẹp gì cho nên nó có vẻ buồn phiền lắm. Để tỏ ra mình không đến nỗi nào, nó không chơi với đứa nào nữa. Nó tha thần đi từ chỗ này qua chỗ khác, cuối cùng nó ngồi phệt xuống hè, hai tay úp lên mặt. Tôi phải đến nói chuyện với nó và bảo nó rằng đây là buổi đầu chưa quen thì thế thôi chứ vài hôm nữa sẽ khác đi.

Học tan, tôi cho họp các tổ trưởng và đưa chuyện Nam ra bàn. Ở lớp nhỏ tôi thường định ra mọi việc rồi nói cho các em làm. Nhưng việc này thì không thể như thế được, đây là chuyện tình cảm phải để các em tự nguyện thì mới tốt. Qua hồi lâu bàn bạc tụi trẻ thấy rõ nếu cứ lạnh nhạt với Nam mãi để nó chỉ chơi được với những đứa không tốt thì thật là nguy hiểm. Vả lại, nó vào học muộn, bỏ bài nhiều, còn phải giúp đỡ nó học nữa chứ! Cuối cùng, bàn qua bàn lại mãi, tất cả thấy nên đưa Nam vào tổ một là tổ gồm những em nhỏ, ngồi ở những bàn đầu để Nam phải luôn luôn nhìn lên bảng (vì tôi đứng ngay trước mặt mà) và tổ trưởng tổ một sẽ kết bạn với Nam để giúp Nam về mọi mặt. Tổ trưởng tổ một là Sơn – một chú bé học giỏi người nhỏ, đầu to, trán cao rất thông minh. Sơn là con một đồng chí bộ đội. Sơn đã từng theo bố lên ở đơn vị hàng năm trời nên tác phong cũng có vẻ bộ đội lắm. Mỗi khi nói gì, Sơn thường đứng rất thẳng, vung tay lên, vẻ dứt khoát mạnh mẽ. Hôm ấy Sơn cũng đứng lên, vung tay nói:

  • Sơn xin hứa với cô và các bạn là sẽ giúp đỡ bạn Nam học tập tiến bộ, không làm

gì để học tập kém ạ !

Từ hôm ấy thằng Nam có bạn. Những hôm đầu, chúng chơi với nhau không được tự nhiên lắm. Nhưng ít lâu sau, không khí dần dần thân mật. Chúng đã hiểu nhau hơn và cuối cùng là chúng thân nhau thực sự. Không khí ở trong lớp trở lại bình thường như những ngày Nam chưa đến. Nhưng thỉnh thoảng lại cứ xảy ra những chuyện như thế đấy! Thật là bực mình! Tôi đi đến cạnh Nam.

  • Em không nên chê bai các bạn như thế. Em cũng chả hơn gì chúng nó đâu. Cười

bạn, rồi bạn lại cười trả thì xấu hổ!

Nam cúi nhìn xuống đất.

Giờ giải lao, tôi thấy nó lăng xăng, vồn vã hỏi chuyện hết đứa này đến đứa kia và chỉ một lúc sau thì các trẻ đã quên hết mọi chuyện.

*

*  *

Giải lao vào, đến giờ chữa toán tập. Tổ trưởng đứng lên đọc đầu bài: “Em đem 1000(1) đồng ra hợp tác mua một quyển vở giá 300 đồng, một cái bút giá 200 đồng. Hỏi em còn lại bao nhiêu tiền ?”.

Tôi hỏi:

  • Các em làm bài cả chưa?

Cả lớp đáp:

  • Thưa cô làm rồi ạ!

Em Nam lên bảng chữa !

– Thưa cô, em chưa nghĩ ra…

(1)Tiền cũ

– Mấy hôm rồi mà vẫn chưa nghĩ ra à? Thôi được, em cứ lên bảng!

Nó đứng dậy, cầm vở để trước mặt tôi rồi đến đứng trước bảng. Nó đứng im, tay mân mê hòn phấn và nhìn những hàng chữ một cách chăm chú. Chung quanh nổi lên tiếng rì rầm, tiếng cười khúc khích. Thắng Nam chớp mắt lia lịa rồi quay lại, gườm gườm nhìn xuống, hằn học.

  • Nào, làm đi, em nghĩ xem người ta hỏi gì?

Tôi gợi ý rồi nhìn nét mặt lỳ ra của nó mà lo lắng. Nó học dốt và kém trí nhớ quá. Có những hôm nó chăm chú nghe giảng nhưng đến khi tôi bảo nó nhắc lại câu tôi vừa nói thì nó đã không còn nhớ gì nữa. Vì vậy nên nó không bao giờ thuộc bài.

  • Về nhà em có chịu học không?
  • Có ạ!
  • Sao không thuộc bài ?
  • Em không biết !

Nó chịu khó học bài lắm. Những bài học thuộc lòng dài nó đọc lầu lầu không sai một chữ. Nhưng đến khi tôi hỏi thì nó không sao trả lời được. Hỏi ra tôi mới biết nó đã thức rất khuya để học từng câu từng chữ mà nó không hề hiểu nghĩa là gì hết và quên liền ngay sau khi đọc. Thế là thế nào nhỉ? Có lúc bực, tôi gắt lên. Nhưng liền ngay sau đó tôi thấy một điều thật tai hại là Nam đã hoàn toàn rối trí và ngây ra như không hề được học một cái gì bao giờ vậy.

– Nào, em bắt đầu đi! Thế em ra hợp tác mua gì nào? Muốn biết bao nhiêu cả thảy thì làm tính gì?

– Tính cộng! Tính cộng! Thưa cô em ạ!

– Em! Em ạ!

Các trẻ ở dưới nhao nhao xin lên chữa. Có đứa đứng cả dậy. Thằng Nam hết nhìn xuống dưới lại nhìn tôi, luống cuống. Hòn phấn trên tay nó rơi xuống đất từ lúc nào nó cũng không biết. Đôi mắt nó nhìn những dòng chữ trên bảng một cách chăm chú và kỳ lạ như nhìn những con gì vậy.

  • Thôi, em Nam về chỗ, chú ý nghe giảng, lần sau lên bảng vậy. Em Tiến lên chữa

tiếp!

Một thằng bé dong dỏng cao có khuôn mặt trái soan ngăm đen, mái tóc đen nhánh, đôi mắt mơ màng và hàng lông mi dài như con gái, nhanh nhẹn chạy lên bảng, nhặt hòn phấn, viết thoắng lên. Tôi đang chăm chú nhìn Tiến viết bỗng cảm thấy sau lưng có một người nào đó cũng đang chăm chú nhìn tôi…

Tôi quay lại và nhận ra đó là Thành. Thành đang đứng tựa vách nhìn lớp học, đôi mắt lộ vẻ ngạc nhiên và buồn rầu. Tôi chạy lại.

  • Anh đến từ lúc nào thế? Sao không gọi em? Anh vào trong buồng mà nghỉ đi. Em

dạy một lúc nữa thôi. Được, em cứ dạy đi, anh đứng xem em dạy!

  • Không. Không được đâu, chịu thôi!

Thành cười rồi lặng lẽ đi vào buồng.

Chị Hà đi cấy cũng vừa về. Chân tay chị đầy bùn, sũng nước, rét se lại. Nhưng đôi má (có lẽ vì gió) lại đỏ hồng lên. Chị tong tả đi vào sân nhưng vừa nhìn thấy chiếc xe đạp của Thành dựng ở hè thì chị dừng lại, nhìn tôi, che miệng cười. Rồi, chị nhanh nhẹn chạy ra vườn nhổ thêm mấy củ su hào, vào buồng bưng liễn mỡ và cái rổ con đựng mấy quả trứng ra, chạy xuống bếp.

  • Mẹ ơi, làm thêm cái này!
  • Ừ, đưa đây, tao đã thổi thêm cơm rồi !

Thế là hai mẹ con nấu nướng, dọn dẹp để đón tiếp Thành. Chị Hà coi Thành như một người em (một cậu em tài giỏi vừa nể lại vừa thương), còn bà cụ thì mỗi khi Thành đến là quấn quít, săn sóc như con mình vừa đi đâu xa về vậy.

Chữa xong bài toán thứ hai, tôi cho học sinh về. Nhẽ ra còn phải chữa thêm hai bài nữa, nhưng tôi không sao yên tâm mà làm thêm được khi Thành đang sốt ruột đi đi, lại lại trong buồng. Tôi dặn các em cách làm rồi cho về và chạy vào.

  • Anh chờ em đã lâu chưa? Sao anh đến mà không báo cho em biết trước. Thật khổ,

toàn những chuyện bất ngờ…

  • Thế mà bất ngờ à? Hôm nay là ngày gì em có biết không? Ai bầy ra cái kiểu dạy

ngày chủ nhật như thế? Anh nói gì lạ thế? Ai bầy? Học sinh kém quá thì phải dạy thêm chứ ai bầy?

Tôi gắt lên và thấy bực bội. Nhẽ ra Thành phải vui lòng trước những việc làm của tôi chứ, sao lại có vẻ khó chịu, bực tức và giận dỗi? Ừ, mình gắt thật đấy nhưng mình đúng… Tôi bỏ đi ra ngoài, quét dọn nhà cửa, bàn ghế. Cơm đã chín. Chị Hà đi sang hàng xóm dáng chừng là để báo lại buổi họp đại hội xã viên buổi chiều. Mâm cơm chỉ có tôi, Thành, bà cụ và con bé Hoa. Cô ăn đi, thày giáo ăn đi…

Bà cụ đon đả mời rồi xới cho Thành những bát cơm đầy ở tận giữa nồi. Mùi cơm gạo mới thơm ngọt ngào. Anh ấy nghĩ thế là không đúng, mình sẽ nói cho anh ấy rõ, nhưng bây giờ không nên để anh ấy buồn; anh ấy đến thăm mình..

  • Anh dạy học ở huyện như thế nào?

Bận lắm em ạ. Bận khác ở Hà nội, có lẽ tại anh mới về, không biết rồi sau ra sao. Học sinh thì dốt nhưng nói chung còn dỗi dãi hơn ở Hà nội nhiều. Anh đang nghĩ xem làm thế nào để thừa thì giờ hơn. Tay hiệu trưởng ở đấy cũng “tạch tạch xè”. Trước kia cũng có ở Hà-nội ít lâu, thích anh lắm. Làm việc với tay ấy thật thoải mái!

Ừ, thật thế anh ạ, làm việc với nhau thì phải thật hiểu nhau chứ không thì khổ lắm. Đây này, trước kia, ông hiệu trưởng ở đây cũng thế, ông ấy ghét anh Chiếm lắm, nói anh ta chẳng ra gì, bây giờ làm việc chung với nhau ít lâu đã thân nhau ra dáng!

Câu chuyện đã có đà cởi mở. Tôi vui vẻ kể cho Thành nghe những chuyện xảy ra ở trong trường, trong làng từ sau vụ gặt, chuyện Nam đã đi học và hỏi anh phải làm như thế nào để dạy được những đứa học dốt như thế. Thành chăm chú nghe tôi kể chuyện, nét mặt thản nhiên, nhưng đến chuyện thằng Nam thì anh cau mặt lại :

  • Em lạ thật, có phải cái thẳng ném em thành sẹo ấy không? (chuyện này do Thành

xem nhật ký mà biết). Em đưa nó vào lớp làm cái gì thế? Bây giờ nó giết người ra đấy em có chịu trách nhiệm được không? Ốc chả mang nồi mình ốc lại còn tha cọc rêu!

Thành nói gay gắt, bực tức. Tôi giật mình không ngờ Thành lại có thể nói những lời đáng ghét đến như thế. Nỗi bực tức lúc nãy lại trở về. Người tôi nóng bừng lên. Tôi muốn nói, muốn tranh cãi, nhưng đang bữa cơm nên đành im lặng. Thành biết tôi đang cáu giận nên không nói gì nữa. Hình như cũng biết là chúng tôi đang giận nhau, bà cụ mẹ chị Hà thỉnh thoảng lại nói dăm câu chuyện pha trò làm cho không khí bớt căng thẳng. Con bé Hoa thì mỗi lúc một sợ Thành. Nó ăn nhỏ nhẻ, rón rén như một con mèo nhỏ trước người lạ và thỉnh thoảng lại nhìn trộm Thành một cái.

Ăn cơm xong, Thành đi mắc máy galen cho tôi đúng như lần trước anh đã hứa. Khéo léo và nhanh nhẹn, chỉ một lúc sau trong cái loa nhỏ, tôi đã nghe thấy những tiếng nói từ Hà-nội truyền về. Đầu tiên là một bài hát.

Bà cụ chủ nhà chạy vào nghe và suýt xoa:

  • Trời ơi, quý hóa quá đi thôi cậu giáo, nghe cứ như người ta nói ấy nhỉ? Con cái

Hà nhà tôi về chắc nó thích lắm!

  • Em đem ra nhà ngoài để cả nhà nghe chung anh nhé. Chị Hà là tổ trưởng phụ

trách sản xuất cần nghe tin tức, thời tiết…

Tôi nói và cảm thấy chuyện này có thể làm Thành phật ý. Nhưng không, anh ngồi im một lúc rồi nói: Thế cũng được!

Rồi, lạnh lùng, anh mắc cái máy galen ra nhà ngoài. Bà cụ sung sướng quá, cuống quýt lên hết chạy ra lại chạy vào như một đứa trẻ. Thành nhếch mép cười bảo tôi:

  • Người nông dân cái tính họ thế đấy. Họ mà thiệt đến thân thì họ chả để mình yên

đâu. Nhưng hễ lợi một tý thì trông họ cứ… y như con rối!

Anh nói thế là không đúng, là không tốt! – Tôi nói, giọng nghẹn lại – Em hỏi anh, em ở đây thì lợi lộc gì mà gia đình này đã nhường cho em cả một gian buồng để ở, thổi nấu cho em ăn. Mỗi khi anh đến thử hỏi rằng anh đem đến cho họ những gì mà họ chăm sóc anh ân cần, chu đáo như ruột thịt thế? Lại còn anh Chiếm nữa. Anh còn nhớ lần trước anh nói anh ấy như thế nào không? Em không thể chịu được khi mà anh chỉ nghĩ xấu về mọi người…

  • Ừ ừ… có thể anh chưa hiểu. Nhưng…. sao hôm nay em hăng hái thế?

Thấy tôi giận, Thành làm lành, đi vào buồng lấy những quyển sách trên giá xuống:

  • Em đã đọc hết những chuyện này chưa?
  • Em đọc được ít thôi,
  • Thế mà anh cứ tưởng thế nào em cũng đọc hết rồi! Thế mấy chủ nhật trước em

làm gì?

  • Làm gì à? Chủ nhật đầu em đi vận động các lớp bổ túc. Gặt xong, họ nghỉ nhiều

quá không vận động lại thì đến vỡ. Chủ nhật thứ hai em đi họp với xã bàn về việc xây trường, họp cả tối nữa. Sắp sang học kỳ hai rồi mà việc xây trường chưa ra đâu vào đâu. Còn chủ nhật vừa rồi thì đi đào giếng với thanh niên, học sinh; đi phát động phong trào trừ bệnh đau mắt hột. Anh không biết chứ làng này là đau mắt nhiều lắm. Bây giờ phải vận động mỗi nhà đào một cái giếng. không được dùng khăn mặt chung, đau mắt thì phải nhỏ thuốc… kết quả rất tốt anh ạ. Còn tuần này…

Thôi, đừng nói nữa, anh biết rồi. Bây giờ thì ở đâu mà chẳng lắm việc, phải liệu cách mà xén bớt đi chứ.

  • Em không thể như thế được. Em không hiều anh nghĩ như thế nào mà lại nói như

vậy…

Tôi lẩm bẩm, lúc này tôi không thấy tức bực và gắt lên như lần trước được nữa mà một sự kinh ngạc như kỳ lạ làm tôi choáng người. Tôi nhớ lại, trước kia (khi Thành còn là thầy giáo và tôi là học trò) trong những giờ lên lớp giảng bài, trong những buổi nói chuyện với học sinh, Thành không nói như thế. Anh thường nói người thanh niên mới lúc nào, ở đâu, dù làm gì cũng phải đầu tàu (danh từ này ngày đó còn mới lắm) gương mẫu không chịu khuất phục trước khó khăn, gian khổ để cống hiến mọi khả năng, sức lực cho tổ quốc. Chúng ta sống trong hòa bình chỉ gian khổ chứ các chiến sĩ cách mạng… Anh nói rất hay về những người lao động quên mình, những chiến sĩ đã hy sinh cho tổ quốc… Những câu nói ấy làm nức lòng bao học sinh. Và nhất là tôi. Bây giờ, sao anh lại nói như thế? Anh là một người giả dối ư? Có lẽ nào… Tôi không tin, tôi không muốn tin…

Bên ngoài nắng đã lên. Chim đua nhau bay ra hót chiu chít ngoài vườn. Một đôi chim câu nhà ai bay vào sân đậu trên mái bếp gù gù rỉa lông cho nhau. Những ngọn gió nhè nhẹ, se lạnh qua cửa sổ thoang thoảng mùi rêu ẩm và mùi hoa huệ mới nở.

Tôi ngồi bên cửa sổ khâu nốt cái áo gối. Thành ngả trên giường đọc thơ. Im lặng quá! Nhưng không phải sự im lặng êm đềm mà một sự im lặng ngưng tức trước cái gì sắp nổ ra – sự im lặng trước cơn giông. Mình có nên nói ra không? Mọi tình cảm muốn tốt đẹp điều trước tiên phải chân thật. Mình không nói ra tức là mình đã bằng lòng với những điều không tốt ấy. lòng mình thì căm thù những điều ấy – thế nghĩa là mình không chân thật. Vả lại, không thể để như thế được. Dù thế nào cũng không thể để như thế.

Anh Thành này.

– Gì hả?

– Em có chuyện này muốn nói với anh.

– Em nói đi…

– Em thấy dạo này anh khác trước nhiều quá. Em nói thật đấy, anh không bằng lòng em cũng cứ nói… Không biết có phải là anh thay đổi hay là bây giờ em mới hiểu rõ anh?…

Anh chả thay đổi gì cả. Có em mới thay đổi thì có ! Thành bỏ quyển sách xuống giường nhìn tôi. Trong đôi mắt hơi nheo lại thoáng vẻ bực bội và sốt ruột. Đôi mắt như thúc giục “nào, có gì nữa cứ nói nốt ra”.

  • Em thay đổi? Đúng, từ hôm em đi dạy đến nay em có thay đổi nhiều lắm. Hôm

mới về có lúc em đã có ý nghĩ xấu nhưng đến hôm nay, thì không gì có thể làm em rời bỏ được những công việc này… Em rất sung sướng khi thấy điều đó, em thấy em… (tôi định nói em tiến bộ hơn trước nhiều, nhưng thoáng thấy Thành mỉm cười nên tôi ngừng lại). Mà anh thì như ngược lại. Sao anh lại khó chịu và không bằng lòng những việc em làm? – Những việc mà trước kia anh thường ca tụng? Nhẽ ra, anh phải giúp đỡ để em làm tốt mới đúng chứ?

  • Sao tôi lại không giúp đỡ cô? (Thành ngồi bật dậy) – Cô xem, tôi đã nói với cô

bao nhiêu lần, tạo cho cô bao nhiều điều kiện để cô vươn lên, nhưng cô có nghe tôi đâu, cô cứ lao vào những việc vô ích !

  • Việc gì vô ích?

Tôi ngắt lời Thành, mặt nóng bừng. Cái cảm giác đau đớn vì bị xúc phạm, sự sợ hãi khi thấy một sự thật sau những lớp vỏ giả dối, những giận dỗi của bao nhiêu lần trước cùng một lúc dồn dập đến. Người tôi run lên :

  • À, ra theo anh, thì những việc gì có lợi cho anh mới là có ích, còn tất cả những

việc khác đều vô ích… Ích gì thế? Tôi thật không ngờ anh lại là đồ… Ích kỷ!…

Tức giận, nghẹn ngào, tôi đứng dậy bỏ đi ra đường.

 

VII

 

Cái gì đã xảy ra thế? Mình đã nói gì thế? Mình đã mắng anh ấy, hừ, mình đã nói nặng lời quá, mình không muốn như thế nhưng thật không thể chịu được. Ích kỷ, đúng là ích kỷ, nhưng lẽ ra mình không nên nói ra câu đó mà nên phân trần phải trái thì anh ấy sẽ thấm thía hơn. Anh ấy yêu mình, nhưng anh ấy đã sai lầm, mình phải giúp anh ấy. Anh ấy khổ, mình làm sao mà sung sướng cho được? Mình mong muốn mỗi khi gặp nhau cùng nhau bàn chuyện công tác, giúp nhau giải quyết những khó khăn để làm tốt mọi việc. Mình có muốn như thế này đâu…

Tôi đi loanh quanh trên đường làng vừa giận vừa thương. Tình thương mỗi lúc một nhiều cứ lấn lên trên nỗi giận. Tôi quay về, nhưng Thành đã đi rồi.

  • A, giỗi, giỗi là hèn, là trẻ con…

Tôi bật cười khi nhìn thấy cái mũ của Thành bỏ quên trên bàn. Tôi đem giấu xuống dưới gậm giường và tin rằng thể nào Thành cũng quay lại. Nhưng Thành không quay lại nữa. Tôi để cái mũ vào chỗ cũ và thừ người. Lúc này tôi mới hiểu được cái gì đã xảy ra. Có lẽ nào lại như thế? Tôi không tin, không muốn tin những sự thật đó, vừa sáng lên như một bó đuốc trong đêm để mọi người nhìn thấy nhau lại vừa mơ hồ và đáng sợ như một miệng vực làm người ta phải lùi lại. Có lẽ nào lạ như thế? Bực bội, mệt mỏi, tôi bỏ đi ngủ.

  • Cô giáo ơi! Cô giáo!…

Có tiếng ai gọi vội vã. Tôi choàng dậy.

  • Gọi mãi không thấy cô giáo thưa, cứ tưởng cô giáo làm sao rồi, cô ra mà nghe đài

đang nói, nhanh lên cô!

Bà cụ đứng ở cửa buồng giục rối lên. Cái gì thế nhỉ? Tôi vội vã chạy ra. Bên ngoài trời tối đã lâu. Trong nhà, đèn đã thắp. Không khí có cái gì lạ lùng. Chị Hà đi họp đâu đã về đang ngồi trên giường, đôi lông mày chị cau lại, hàm răng cắn chặt trên vành môi dưới. Cạnh chị, một tờ báo nát nhầu mở rộng. Con bé Hoa ngồi cạnh mẹ, hết nhìn mẹ lại nhìn tờ báo. Còn bà cụ thì hết chạy ra lại chạy vào dáng điệu bối rối. Trong cái loa nhỏ, một giọng nói vang vang vừa dứt.

– Cô giáo ơi, lại đây!

Chị Hà chỉ vào tờ báo mở rộng để trên giường, gọi tôi. Tôi chạy lại. Trên trang nhất của tờ báo một dòng chữ đen thẫm nổi lên : “PHÚ-LỢI – trại tập trung giết người của Mỹ – Diệm… Ngày 1 tháng 12-1958 vừa qua chúng đã bỏ thuốc độc làm cho hơn một nghìn người bị chết…”.

Tôi choáng người, không tin ở mắt mình nữa. Liên tiếp mấy tháng nay tôi đã nghe bao nhiêu tin buồn về miền Nam, bây giờ lại đến Phú-lợi.

– Đây này, cô giáo nghe… “Những người còn sống sót trèo tường kêu cứu bị chúng nã súng bắn rồi phóng lửa đốt…”.

Chị Hà đọc to lên rồi buông tờ báo xuống, ngồi sững. Tôi thoáng nghe thấy tiếng chị nghiến răng. Con bé Hoa luống cuống, mấy ngón tay nhỏ tý xíu vò vò mép tờ báo. Bà cụ thì chạy xuống bếp nói gì lầm rầm như khấn. Tôi bàng hoàng, khắp người nổi gai như lên cơn sốt.

Ngoài sân, có tiếng chân người bước vội vã. Chị Bái đến. Một tay chị cầm đèn chai, một tay chị cầm cuộn giấy. Vừa vào đến cửa chị đã nói:

– Thế này thì có chịu được không? Bốn năm rồi, tổng tuyển cử thì không chịu mà cứ mỗi ngày nó giết của mình bao nhiêu người. Hà ơi, đi đi, các bà ấy tập trung đông đủ cả ở đình rồi đấy. Tối hôm nay “cậu thay mặt ban cán sự lên đọc bài báo này rồi phát động luôn một đợt thi đua cấy nhanh, cấy dầy chống Mỹ nhé ! Mình đã thảo luận với anh Thân chi ủy rồi! Các đoàn thề khác cũng sắp làm cả thôi, phụ nữ mình làm trước sốt dẻo, tốt nhất!

Chị Hà xếp tờ báo lại, cầm quyền sổ con trên bàn rồi hai người dắt nhau vồn vã đi ra, vừa đi vừa bàn về buổi họp sắp tới. Tiếng nói xen tiếng chân bước rộn rã.

Tôi ngồi lặng trên bậu cửa, lòng xáo động. Bà cụ ở dưới bếp đi lên tay bưng liễn cơm, tay bưng bát canh vừa đun lại. Bà để lên bàn rồi lại gần tôi, sẽ sàng:

  • Cô giáo ơi! lại mà ăn lấy miếng cơm cho ấm bụng! Tôi đun canh lại rồi đấy. Cả

nhà ăn rồi. Cơ khổ, ăn từ sáng đến giờ mà không biết đói ư?

Thấy tôi vẫn ngồi yên, bà cụ băn khoăn lắm. Bà đi ra, đi vào rồi đến ngồi bên tôi, vuốt ve cái vạt áo của tôi, giọng thấp xuống:

  • Buồn làm gì mãi hả cô giáo? Cậu giáo thật là người tốt quá. Năm nay tôi ngoại

sáu mươi tuổi đầu mà chưa thấy ai quý vợ, à quên, quý người gì nhỉ, à, quý người đặt vấn đề như thế đâu. Phải tội cậu giáo khí sẵng quá, nhưng có quý người ta mới thế chứ không thì có hoài hơi… cô lo nghĩ làm gì cho nó gầy người ra.

  • Không phải vì chuyện ấy đâu cụ ạ!
  • Thế thì chuyện gì hả cô giáo? Hay nhà tôi có điều gì không nên không phải.

Bà cụ bối rối hỏi rồi lo lắng nhìn tôi chăm chăm. Không phải tại nhà ta đâu cụ ạ, cụ xem đấy, bao nhiêu việc, mà cháu thì…

  • À, ra thế !…

Bà cụ bỡ ngỡ nhìn tôi – đôi mắt thông cảm, bằng lòng

 

*

*    *

 

Ở nhà ông Trí tối nay không hẹn mà có một buổi họp. Thường thường, buổi tối cụ Thuận hay rẽ qua đây uống nước, hút thuốc, kề cà vài câu chuyện xem có tin tức gì mới không rồi mới về nhà làm việc. Chiếm và Nho thì qua xem báo. Bác Cường, bác Trà, ông Cần thì ở ngay nhà bên cạnh nghe tiếng người cũng chạy sang.

Tối nay, khi tôi đến thì mọi người đã đến đông đủ và đang bàn một chuyện gì đó. Ông cụ Thuận, vẫn cái dáng điệu quen thuộc: ngồi tựa lưng vào tường, mắt nheo lại lơ mơ nhìn bức tường trước mặt, một tay bưng chén nước nhấp từng ngụm nhỏ, một tay sờ sờ cằm nhổ từng sợi râu một. Ông Trí thì nhăm nhe tay sổ, tay bút chì chỉ chực ghi. Chiếm thì cắm cúi xem báo, mái tóc hồng xõa xuống, đôi lông mày đen dài dậm nhíu lại gần nhau. Mấy người kia người thì vừa hút thuốc vừa nói thao thao; người thì nằm dài trên giường bẻ đóm tanh tách.

  • A, cô Huệ, thế là đủ mặt! Thấy tôi, ông Trí reo lên rồi buông bút, hạ kính để

xuống bàn, gọi với  xuống nhà dưới:

– Nụ ơi lên thầy bảo!

Con bé con vội vã chạy lên, đứng dấu mình ngoài cửa thò nửa khuôn mặt bé tí hồng hồng nhìn vào. Ông Trí mở ngăn kéo đưa cho nó một cái túi vải nâu:

  • Em xuống bếp rang cho thầy chỗ lạc này nhé, nhanh lên!
  • Thôi ăn làm gì? Bất quá mỗi người dăm ba hạt, phí đi!

Cụ Thuận giữ tay ông Trí lại.

  • Có phải mua đâu mà sợ tốn? Lạc ở nhà quê, mẹ cháu gửi lên cho đấy!
  • À, thế thì được!

Tôi ngồi xuống cạnh mọi người, lòng dịu lại. Tôi nhớ đến những chuyện xảy ra lúc ban sáng giữa tôi và Thành. Tôi ngạc nhiên thấy như nó đã lùi đi xa tít vào một quá khứ nào, mờ nhạt đến gần như vô nghĩa. Thay vào đó là một cái gì thôi thúc, da diết.

  • Kìa, cô giáo, nghĩ gì thế? Uống nước đi không có nguội!

Ông Trí khẽ đập vào vai tôi rồi chạy xuống bếp bưng lên một bát to đầy lạc rang nóng hổi:

  • Nào, các đồng chí, lại đây!

Mọi người xúm lại. Mỗi người một nắm xoa xoa, thổi thổi, nhai tóp tép. Ông Trí vừa sát vỏ lạc vừa nói:

  • Cái ý kiến của các đồng chí bảo rằng nhân dịp này ta phát động một phong trào

xây dựng trường sở chống Mỹ là rất hay. Bây giờ các đồng chí vừa ăn vừa bàn cụ thể xem sao?

  • Tôi thấy nên phát động thêm một phong trào thi đua học tập nữa.

Nho nằm ngả trên giường, vừa thổi đám vỏ lạc trên tay vừa nói:

  • Ý kiến hay đấy. Ông cụ Thuận phụ họa.
  • Thôi, ôm đồm rồi lại xôi hỏng bỏng không? Học tập thì bao giờ phát động chẳng

được. Ta nên tập trung vào việc xây dựng trường sở đã. Nào, các đồng chí cho ý kiến xem ta nên làm thế nào?

Ông Trí nhổm lên, rồi lại ngồi xuống, đeo kính, mở sổ, cầm bút nghiêng mắt nhìn mọi người, chờ đợi.

 

*

 

Buồi họp tan thì đã quá nửa đêm. Trời tối và rét lắm. Ở nhà, bà cụ và con bé Hoa đã đi ngủ từ lâu. Chị Hà cũng vừa về. Chị hỏi tôi:

  • Cô giáo mệt à? Sao cô không ăn cơm?
  • Tôi bận đi họp chị ạ! – Tôi nói dối – Cũng không thấy đói.
  • Cả ngày mới ăn có một bữa mà không đói à? Tôi đem cơm lên ta cùng ăn nhé!
  • Thôi chị ạ, tôi không đói đâu!
  • Sao lại không? Tôi mới ăn buổi chiều mà bây giờ đã muốn ăn rồi đây.

Chị Hà đem cơm lên cùng ăn với tôi. Vừa ăn, chị vừa thuật lại cho tôi nghe buổi đại hội phụ nữ vừa xong. Nhìn đôi mắt long lanh sáng, đôi gò má ửng đỏ (vì gió rét hay vì ánh đèn) và nụ cười tươi tắn của chị tôi thấy vui lây. Những ý nghĩ nhỏ nhoi, mung lung trong tôi từ tối đến giờ bỗng lớn lên vùn vụt và trở thành một quyết định.

  • Chị Hà này!
  • Gì thế cô?
  • Chị cho tôi tham gia công tác phụ nữ với, được không?
  • Cô giáo muốn làm công tác phụ nữ à? Ôi, thế thì còn gì bằng. Mấy lần chúng tôi định mời cô làm chỉ sợ cô bận !

Chị nói, giọng vui mừng xen lẫn ngạc nhiên, hồi hộp. Đôi mắt màu nâu của chị nhìn tôi âu yếm và thân thiết.

Cơm nước, dọn dẹp xong đâu đó, chị đến ngồi bên tôi tỉ mỉ kể cho tôi nghe những công việc của phụ nữ trong xóm mà tôi sẽ nhận.

  • Không khó gì đâu cô ạ, chỉ cần mình chịu khó đi sâu đi sát chị em thôi. Phụ nữ ta

bây giờ tiến bộ lắm chứ không như ngày còn bị chiếm, khó khăn lắm. Ấy thế mà cũng làm được tất cả, phụ nữ làng mình có thành tích kháng chiến đấy cô ạ!

  • Trong kháng chiến, chị Hà cũng tham gia công tác phụ nữ à? Tôi vừa giở những quyền sổ vừa hỏi.
  • Không. Hồi kháng chiến mình tham gia du kích và thông tin. Chị Bái mới làm

công tác phụ nữ. Ngày ấy chị Bái mới có hai con thôi, hai con mà còn trẻ đẹp ra phết nhé! Chị ấy hoạt động mạnh lắm. Tụi Ngụy rất căm, chúng muốn bắt chị mà không được. Chúng bắt con chị. Nhưng đời nào bắt được, hai đứa bé cũng khổ lắm, phải chạy hết hầm này đến hầm kia. Mẹ hoạt động mà con thì chạy trốn… Cô đã nghe chị ấy hát bao giờ chưa nhỉ? Chưa à? Chị ấy hát hay có tiếng ở làng này đấy! Ngày làng này bị tề, tiếng hát của chị ấy là được việc lắm. Cứ có một cái hầm bên cạnh bốt thế là tiếng hát của chị ấy lanh lảnh cất lên. Chúng bắn. Chị thụp xuống. Chúng thôi. Chị lại hát. Một lần chúng bắn chị tránh không kịp, thế là bị viên đạn hớt mất một chỏm tóc, bây giờ còn cái sẹo ở giữa đầu đấy ! Có những đêm, lúc chị ấy bắt đầu hát chúng bắn, nhưng sau thấy chị ấy hát hay quá thế là chúng thôi không bắn nữa. Khối tên Ngụy mê tiếng hát của chị ấy, vác súng, bỏ bốt trở về làng đấy ! Thích không? Ngày ấy chắc cô giáo còn bé lắm nhỉ?

Vâng. Còn bé tí xíu. Mẹ tôi cho tôi ngồi vào trong thúng mà gánh đi tản cư đấy chị ạ!

– Thế à ?

Chị Hà bật cười ha hả rồi ngồi thu lại, kéo chăn phủ lên người tôi, đôi mắt nhìn xa xa, mơ màng.

Chị kể chuyện kháng chiến nữa đi.

  • Kề gì bây giờ nhỉ? Làng mình bị tề từ cuối năm bốn tám cô biết rồi chứ, ừ, suốt từ

48 đến ngày hòa bình…

Chị vặn to ngọn đèn rồi nhìn vào đám khói nhỏ đang cuộn lên từng vòng, từng vòng. Đôi mắt chị chợt buồn và trên má thoáng hằn xuống những nếp nhăn nhỏ những nếp nhăn mà tôi chưa trông thấy bao giờ. Bên ngoài, trời vẫn mưa. Tiếng nước nhỏ trên bậc thềm tí tách đều đều…

  • Cái cảnh làng tề, chả nói chắc cô cũng biết, thôi thì cực khổ trăm chiều. Nhưng

mình đâu có chịu. Trong mấy năm, có hàng trăm trận đánh nổ ra. Trận to nhất mà cả làng ai cũng nhớ mãi là trận chống tề cuối năm 48 cô ạ – Trận đó, giặc đem đến gần một đại đội ngụy binh, súng ống nhiều vô kể, có cả ô tô đi kèm nữa. Trong làng hồi đó ta chỉ có đâu ba tiểu đội du kích. Nhưng các anh ấy đánh hăng lắm, cứ nấp sau các bụi tre mà bắn tỉa ra, hoặc ném lựu đạn, quần nhau với địch đến gần suốt một ngày trời… Nó thiệt hại nhiều nên vào được làng, nó đốt, nó khủng bố ghê lắm, nhưng bà con cũng đã kịp chạy đồ, cất giấu của cải rồi. Trận đó mình mất mấy đồng chí. Ngày ấy tôi cũng bằng tuổi cô giáo bây giờ, chả mấy khi được ở nhà đâu, toàn trốn chạy, nằm hầm thôi. Trận đánh ấy cũng có một số bộ đội về phối hợp. Có một đồng chỉ bị thương không rút được nằm lại dưới hầm nhà tôi…

Chị Hà ngừng lại không nói nữa soi hai bàn tay ra trước ánh đèn nhìn một lát rồi khoanh lại và ủ vào trong vạt áo.

  • Tôi được phân công săn sóc anh ấy. Chúng tôi thương nhau lắm. Quê anh ấy ở tận

Thanh hóa, bố mẹ chết chẳng còn ai… Mấy tháng sau anh ấy khỏi. Trước khi đi, đoàn thể bí mật lo cho, chả có cỗ bàn, chè nước gì đâu cô ạ, chỉ có một lá cờ và mấy đồng chí ngồi quanh thôi… Được mấy hôm thì anh ấy ra đi. Tôi có mang con cháu Hoa. Anh ấy đi khắp nơi, đánh hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, thỉnh thoảng lại gửi về cho tôi một lá thư dài tôi đọc mãi không hết…

  • Thế rồi sao chị?

Tôi hỏi khẽ rồi kéo thêm chăn trùm lên vai cho chị. Chị ngồi im không nhúc nhích. Đôi vai nhỏ xuôi xuôi hơi cúi làm cái chăn lại tuột xuống.

  • Sau ngày hòa bình lập lại được ít lâu, anh ấy ốm rồi mất.

Khác hẳn mọi khi, đêm nay chị Hà nói nhiều, với một giọng trầm trầm, tha thiết lạ thường. Nhưng đột nhiên chị ngừng lại, trở lại với cái dáng kín đáo hàng ngày, đôi mắt xa xôi. Tôi hiểu nên không hỏi gì nữa. Đêm ngủ, gần sáng chợt tỉnh dậy, tôi nhìn thấy ánh đèn hắt vào cửa buồng và cái bóng nhỏ nhắn của chị Hà cắm cúi trước bàn. Chị đang kiểm tra lại phương án chính thức của tổ mà anh kế toán vừa đem lại lúc chiều. Buổi tối, chị hỏi mượn tôi bản cửu chương và lúc này chị vừa viết vừa lầm rầm đọc. Chị ngồi nghiêng, ánh đèn tỏa hồng một bên má, bàn tay cầm bút thỉnh thoảng lại đưa lên miệng cắn cắn, nghĩ ngợi. Đêm lạnh, tôi cuộn mình trong chăn, thao thức. Cái gì đã thúc đẩy chị làm việc, cái gì đã làm con người chị tốt đẹp, cứng rắn vượt lên trên mọi đau khổ riêng tư như thế?

Đợt phát động phong trào xây dựng trường sở chống Mỹ được học sinh hưởng ứng nhiệt liệt. Đầu tiên là một buổi lao động tập thể: cả trường đến công trường đá bên kia sông Đào đập đá thuê suốt một ngày. Sau đó, tản ra phát huy sáng kiến, tùy các em, tìm cách đóng góp.

Khắp trong làng, chỗ nào cũng có những cảnh lạ mắt: mấy em gái nhỏ chiều chiều rủ nhau ra đồng, tay áo, ống quần xắn cao lên như đi cấy, sợi dây gai buộc thắt ngang lưng lủng lẳng một cái giỏ con, cúi lom khom men theo các bờ ruộng bắt cua, bắt ốc. Đến tối, các em họp nhau lại, dồn giỏ cho nhau. Sáng hôm sau đem ra chợ bán rồi bỏ tiền vào ống tre. Vài em khác, mỗi em một rổ con, một móc sắt lang thang trên các đường làng, bờ bụi, nhặt sắt gỉ, giẻ rách, ống bơ, chai lọ, mảnh thủy tinh đổ dồn lại thành một đống. Những em lớn rủ nhau đi những nơi xa, tìm những đầm lạch bỏ hoang, tát nước, bắt cá. Có những em gái xin nhà được ít mạ đem cấy suốt dọc các bờ ao, bờ ngòi thành những vạt lúa xanh rờn. Về nhà, các em tìm những chỗ đất hoang cuốc, xới lên, trồng rau. Có em xin gà con nuôi.

Riêng có Nam là không làm gì cả.

Hôm tôi vận động lớp phát huy sáng kiến thi đua với các lớp khác thì nó cau mặt, vẻ khó chịu. Khi tôi gợi ý một số việc để các em có thể làm để kiểm tiền thì nó nhìn đi chỗ khác. Nó có vẻ lo nghĩ và định làm một việc gì đó mà chưa thực hiện được. Có khi đang ngồi trong lớp, tôi thấy nó cau mặt. Buổi tối, thỉnh thoảng tối lại thấy nó chạy qua trước cửa nhà tôi tay cầm một cái gậy, vẻ mặt vừa hăm hở vừa lo lắng. Nó đi về phía miếu Ba-Cây đó là một cái miếu bỏ hoang, lở lói nằm dưới gốc ba cây bàng lớn, um tùm rêu mốc, đêm nào tối trời, trẻ con và người dát không dám đi qua. Thế mà thằng Nam tối tối cứ vác gậy chạy về phía ấy. Nó định làm gì thế ? Tôi hỏi, nó chỉ nhe răng ra cười.

Một đêm đã khuya, tôi sắp đi ngủ bỗng thấy thằng Nam huỳnh huỵch chạy vào, hai tay lôi một vật gì dưới đất miệng the thé gọi tôi. Tôi cầm đèn chạy ra. Đó là con cầy hương. Nó to bằng một con chó lớn, mắt xanh như mắt mèo, lông dài, đen bóng, mùi hôi sì. Đó là con cầy hương ở trong miếu, đêm đêm thường mò vào trong xóm bắt gà, bắt chim. Nhân dân rình mãi mà không bắt được.

– Bắt con này làm gì hả Nam?

– Để ăn ạ, thịt nó ngon lắm, ngon hơn thịt lợn!

Thằng Nam nhanh nhẹn trả lời, đôi mắt nhìn tôi có vẻ hân hoan lắm. Chuyện trò một lát nó lôi con cầy hương về nhà và thức đến gần sáng để làm thịt. Hôm sau nó đem ra chợ bán được gần năm nghìn đồng đưa cho tôi để góp vào quỹ xây trường. Những đứa khác phục Nam lắm. Đối với chúng, đó là một việc anh hùng. Chúng túm tụm nhau lại bắt Nam kể chuyện rình bắt cầy hương cho nghe. Chúng nghe rất say mê tuy rằng thằng Nam chỉ kể một cách lơ là, đại khái và thường bỏ dở câu chuyện.

 

*

*  *

 

Trong làng, mọi hoạt động cũng rộn rã lên. Chị Hà bận lắm. Chị đi suốt ngày, cái nón, chiếc túi vải tong tả. Chị khoe với tôi :

  • Phụ nữ làng ta kỳ này lại có thành tích, cô giáo nhé! Bảy sào ruộng cấy đúng kỹ

thuật mới này, bốn con lợn, năm tám con gà để ủng hộ này. Và đây cô xem…

Chị giơ ra trước mặt tôi một tập cuống phiếu tiết kiệm xây dựng nhà máy dệt mùng Tám tháng Ba (8-3) ở Hà-nội

– Hết sạch nhé!

Chi đoàn thanh niên lao động phát động một chiến dịch làm phân chống Mỹ trong ba ngày liền. Ban ngày tất cả đoàn viên đi các đầm hoang vớt rong rêu về ủ phân. Rét cắt thịt, những anh thanh niên vẫn cởi trần trùng trục bơi lặn như nhái ở dưới nước. Các cô gái lưng thon, tay áo, ống quần xắn cao lên tận gối, má đỏ hồng hồng kĩu kịt gánh về xóm những gánh phân đầy đồ thành những đống to như đống ra.

Ban ngày phải dạy học nên tôi chỉ lao động với chi đoàn được vào buổi tối: vào hang Rồng nhặt phân dơi. Đường từ làng đến hang Rồng xa gần chục cây số nên chúng tôi phải đi từ chập tối. Vừa ăn cơm chiều xong, tôi đã nghe tiếng gọi:

– Cô công chúa làng ta ơi, đi thôi!

Từ các ngõ xóm, thanh niên nam nữ tốp năm, tốp bảy kéo ra. Các cô gái chít khăn mỏ quạ, mặc áo bông, buộc một sợi dây ngang người. Các anh thanh niên mặc phong phanh hơn, trên đầu quấn một cái khăn đầu rìu. Mỗi người cầm một thanh nửa tép dài đập giập, đầu cây nửa nhét một nắm rơm. Năm sáu người khác đầy một cái xe bỏ. Họ đi thành một hàng dài, vừa đi vừa cười, đùa, ghẹo nhau và hát. Mùi thuốc lá thái lấy thơm hắc lên.

Tôi đến bên cạnh Chiếm, hỏi khẽ:

– Sao anh không rủ Lựu cùng đi lấy phân?

– Rủ Lựu? Chị làm như cô ta tích cực lắm ấy? Tôi chịu rồi đấy!

Nói rồi anh chạy vượt lên phía trước giằng lấy hai càng xe của một anh nào đó, kéo xe chạy lộc cộc trên đường.

Cách đây mấy hôm, tôi có đến nhà Lựu. Đó là việc làm đầu tiên của công tác phụ nữ tôi nhận kết hợp với công việc của người giáo viên nữa. Tôi đến nói chuyện

với Lựu về nhiệm vụ của người phụ nữ mới và vận động Lựu đi học. Lúc ấy đang giữa trưa, Lựu ngồi trong buồng khâu vá. Lựu ngồi trên giường, soi ra cải cửa sổ tò vò nhỏ xíu sâu kim rồi cắm cúi khâu, chung quanh Lựu hàng đống quần áo rách vứt bừa bãi. Lựu khâu rất nhanh, và khéo léo chỉ loáng một cái là đã vá xong một miếng mụn to bằng những đường chỉ nhỏ mứt.

Lựu nói chuyện với tôi một cách dè dặt, kín đáo. Khi tối nói đến việc Lựu nên đi học, đi họp, đi tham gia công tác thì Lựu ngừng khâu, cúi đầu xuống:

– Chị xem em lúc nào cũng một đống việc thế này thì đi đâu được. Bố em thì ốm luôn, mẹ em thì yếu sức, lại một đàn em nhỏ

– Bây giờ thì ai không bận. Phải thu xếp lại chứ?

Tôi bầy cho Lựu cách giao những việc vặt cho các em, Lựu chỉ làm những việc chính trong nhà. Và việc nào nên làm trước, việc nào nên làm sau, việc nào không nên làm… Tính ra thì có thừa đủ thì giờ cho Lựu đi học, đi họp…

– Chị ở ngoài vòng chị không biết được đâu, việc vặt nó không có tên, làm suốt ngày mà chẳng được ai tính đến. Thôi, em chịu mang tiếng lạc hậu cho các em em chúng nó đi học…

– Không phải làm như thế mà mọi việc vẫn tốt, các em Lựu vẫn đi học, Lựu vẫn công tác tiến bộ, chỉ cần biết, sắp xếp..

Lựu im. Tôi gợi chuyện về Chiếm. Lựu tỏ vẻ bực bội lắm. Khi tôi nói rằng Chiếm rất yêu Lựu và lúc nào cũng mong muốn cho Lựu sung sướng nhưng phải cái tính Chiếm nóng nảy quá, thì Lựu cười nhạt.

– Chị ơi, đàn ông nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu… Anh ấy chẳng yêu em nữa thì anh ấy nói như thế, chứ em, chị xem, em ăn ở như bát nước đầy…

– Thì Chiếm vẫn bảo cô rất tốt. Nhưng…

– Chị ơi, người ta có học, có công tác, người ta dễ nói lắm chị ạ. Chị xem, gặp em lần nào anh ấy cũng nói thế này, thế nọ. Em nhục lắm, đến bố mẹ em đẻ ra em cũng chả làm khổ em như thế.

Tủi thân, Lựu thút thít khóc.

– Lựu ạ, chắc Lựu hiểu lầm anh Chiếm… Lựu có giận mình cũng nói. Lựu phải sống, làm việc khác đi. Thanh niên bây giờ người ta không sống như thế, Lựu đừng tự giam hãm mình…

– Bố mẹ em phong kiến lắm chị ạ !

– Phải đấu tranh chứ. Cái chính là ở cô.

Lựu im lặng nghe tôi nói, vẻ mặt lơ đễnh, buồn rầu. Đôi mắt hoe hoe đỏ. Hai tay khoanh vòng trên gối, đầu cúi xuống. Hàm răng đen bóng, đều đặn cắn vào tay áo dứt dứt.

Sau hôm đó Lựu không tránh mặt tôi như trước nữa mà mỗi khi gặp tôi Lựu thường dừng lại, hỏi dăm ba câu.

– Thế nào, Lựu đã đi học được chưa?

– Để em còn thu xếp dần dần đã chị ạ!

Lựu vẫn còn ngại ngần, đo đắn lắm. Nhưng giọng nói và dáng điệu đã khác trước. Tôi hy vọng.

Có lẽ Chiếm chưa biết chuyện ấy. Nhiều lần tôi đã định nói chuyện lại với anh để anh thay đổi lại cách đối xử với Lựu nhưng chưa có dịp nào.

Trên kia, đoàn người vẫn đi theo cái xe lăn đều trên đường. Đến một ngã rẽ bỗng Chiếm ngừng lại, quay xuống, nói to:

– Đề nghị các đồng chí hát lên một bài cho vui nào ! Nữ đồng chí Huệ cầm càng cho !

– Ê, có hai cái càng thì anh đã cầm hết rồi, cô ấy lấy gì mà cầm nữa.

Tiếng một người con gái nào the thé đáp lại. Tất cả cười phá lên. Một cô gái có khuôn mặt bầu bầu, hai mắt to tròn long lanh trong bóng tối chạy lại ôm lấy vai tôi, thở dồn dập. Cái túi thuốc nho nhỏ lúc lắc bên vai. Tôi nhận ra My.

– Hát một bài cho anh em nghỉ đi Huệ ạ !

– Chịu thôi, ngại lắm…

– Sao lại ngại… Huệ hát hay lắm nhưng chỉ hát ở nhà đề nghe một mình thì không tốt đâu, phải không?

– Đi thế này thì hát thế nào được?

– Thế nghỉ một lúc nhé!… Này, các đồng chí — My chạy ra giữa đường bắc loa tay nói to — Ta nghỉ một lát ở đây đi, được nửa đường rồi. Đồng chí Huệ sẽ hát cho chúng ta nghe một bài. Đồng ý không?…

– Đồng ý ! Đồng ý…

Mọi người nhao nhao đáp và nhanh nhẹn ngồi quay lại quanh tôi. Người tôi nóng ran lên. Chưa bao giờ tôi hát ở chỗ đông người và trong không khí lạ lùng như thế này, tôi vừa thấy ngại lại vừa thấy muốn được hát to lên và hát thật hay. Nhưng hát bài gì được bây giờ ?

– Tôi hát bài « Câu hò Hiền-lương » có được không ạ?

– Hay lắm, hát đi!…- Nhiều tiếng đáp. Tôi nhìn thoáng thấy những đôi mắt long lanh và nhiều nụ cười hướng về phía tôi. Một bàn tay nào nắm lấy tay tôi.

… Nhắn ai luôn giữ câu nguyền, qua cơn bão tố vững bền lòng son. Ở câu hò chiều nay…

Lúc đầu tất cả im lặng nghe, nhưng đến đoạn giữa bài hát thì có nhiều tiếng hát theo. Những tiếng hát sai giọng, không quen hát, nhưng nghe sao xúc động đến thế. Tôi dừng lại, bài hát đã hết. Nhiều tiếng vỗ tay. Và có người lẩm nhẩm hát lại…

– Chà, cứ thế này, anh em đi hết đêm được! Tiếng một người thanh niên nào nói.

– Huệ thấy không? Hát thế thật là tốt… – My nói rồi đứng dậy – Anh em ơi, ta lại đi thôi… Đến hang lại hát nữa… Mọi người đứng dậy hối hả… đi vào bóng đêm đen suốt. Ánh lửa bập bùng. Có tiếng hát và tiếng ai cười rúc rích. Có cổ nào ăn trầu với quế mùi thơm cay và ấm sực. Gió đêm lạnh và khổ giạt từ những cánh đồng lên mang theo mùi đất bùn nồng nồng và mùi mạ non thơm nức.

 

VIII

 

Ở xe ngựa xuống, tôi đi theo lời dặn của Thành. Đây là lần đầu tiên tôi đến thăm anh. Sau hôm giận nhau ít hôm Thành viết thư xin lỗi và hẹn tôi đến thăm anh. Từ xa, tôi đã nhìn thấy Thành. Anh đang đi đi lại lại trên con đường nhỏ trước nhà, đầu cúi nhìn xuống đất, miệng lẩm nhẩm đọc một cái gì đó. Những người đi chợ qua dừng lại chào anh rồi tránh xuống vệ đường.

Thấy tôi, Thành mừng lắm. Anh dẫn tôi vào chào gia đình. Vừa vào đến buồng anh tôi đã phải ngạc nhiên vì một cảnh đầy đủ mà đã lâu – từ ngày xa Hà-nội bây giờ tối mới lại thấy: trên đầu giường, trên bàn, trên giá, chỗ nào cũng đầy sách. Bên cạnh bàn làm việc là một cái bàn trắng nhỏ, hình vuông, trên để một hộp kền sáng loáng (bộ đồ mổ anh gửi mua ở Đông-Đức) và nhiều lọ to trong ngâm đủ các loại cá ướp thuốc và cuối bàn một bộ xương chim câu khù lưng đứng trên một cái giá gỗ.

– Vào buồng anh cử như vào buồng bác sỹ ấy !

– Thế mới làm việc được chứ! Huệ này, hôm nay anh sẽ cho em xem một cái này hay lắm!

– Cái gì? Đâu?

– Thì hãy khoan đã nào. Em uống nước đi đã. Nước chè hoa nhài đấy, cả bánh nữa, bánh dừa của em đấy!

Thành mở hộp bánh đưa cho tôi – đó là thứ bánh dừa mà tôi thích nhất. Chúng tôi vừa ăn bánh vừa nói chuyện.

– Tuần vừa rồi sao anh gửi thư, em không trả lời?

– Em bận quá, suốt cả ngày, suốt cả đêm..

– Ghê nhỉ? Em làm gì mà bận thế?

– Phú-lợi… Sao chúng lại dã man đến thế nhỉ? Em thấy là cứ phải đánh. Nó giết người mình như thế, mình để yên sao được! Trường em phát động phong trào xây dựng trường sở thu được một số tiền kha khá, lấy được hơn một nghìn chữ ký. Trường anh phát động phong trào gì?

– À, hình như cũng có đấy, anh chưa hỏi. Hôm ấy anh đi tỉnh vắng. Ừ, miền Nam dạo này cũng đen tối thật. À, quà của anh đâu?

Thành lửng lơ đáp rồi nhìn vào làn của tôi.

– A, trứng, cam, chanh, các thứ này là lắm sinh tố lắm đây. Em đem cho anh nhiều thể. Áo gối của anh khâu xong rồi à? Em thêu khá nhỉ?

– Đâu mà khá, bỏ lâu ngày kém đi đấy.

– Ừ, muốn khá phải tập luôn. Em biết không, bàn tay người bác sỹ giải phẫu cũng phải thật mềm dẻo, khéo léo. Anh cho bàn tay người bác sỹ giỏi cũng phải tinh vi như bàn tay người thợ thêu và mềm dẻo như tay người vũ nữ, anh có cái này cho em luyện tay đây này…

Thành mở va-ly lấy ra một mảnh vải trắng đưa cho tôi.

– Em đem về thêu hộ anh cái khăn trải bàn. Thêu hình chữ nhật to bằng khổ cái bàn nhà ngoài ở nhà anh ấy em nhớ không? Thêu toàn chỉ trắng trên khăn trải bàn thì tuyệt. À, báo cho em biết một tin mừng là ba anh vừa đuổi được cái lão thuê nhà ngoài đi rồi. Em có biết ba anh làm thế nào không? Ba anh bảo để chuẩn bị cho anh cưới vợ… hự hự… (Thành cười những tiếng hự ngắn trong cổ họng). Thế là tha hồ rộng thích thật! Ba me anh dọn ra ở nhà ngoài, các em anh ở nhà giữa, chúng mình ở cả gian trong. Đồ đạc thì đủ cả rồi, chỉ thiếu những thứ vặt. Huệ này, em bảo màn che cửa làm bằng hàng gì cho đẹp?

– Gớm, anh cứ làm như chúng mình đã về ngay rồi đấy, lo xa quá!

– Lo xa, đó là những thứ thiết thân, không lo, em bảo bỏ cho ai. Mấy tháng nữa thì hết niên học.

Thành vừa nói đến đấy thì ngoài cửa có hai người thanh niên đi vào. Thấy tôi, họ dừng lại, hỏi Thành dăm ba câu rồi quay ra ngay. Trở vào, Thành bảo tôi: Hai cậu giáo viên trong tổ tự nhiên của anh đấy. Thực hành rất kém. Cùng đồng nghiệp với nhau mà họ cứ như học trò. Họ hay kéo đến đây rất mất thì giờ. Anh cứ phải dặn ông cụ chủ nhà là có ai hỏi thì bảo anh đi vắng, thế mà cũng chẳng mấy khi thoát. À, trường em nghỉ học kỳ vào bao giờ nhỉ? có định nghỉ cùng với tết hay nghỉ lẻ?

– Em chưa biết!

– Em phải hỏi ngay để chúng mình còn định kế hoạch mà về chứ?

Nghe Thành nói đến nghỉ học kỳ và nghỉ tết tôi bỗng thấy lo quá. Bao nhiêu công việc còn dở dang, bao nhiêu học trò còn dốt… Và thằng Nam, tôi vẫn chưa tìm ra cách làm cho nó khá toán lên được. Không khéo nó phải ở lại lớp mất thôi, mà có ở lại cũng vẫn dốt.

– Em nghĩ gì thế?

– Không.

Tôi dấu không cho Thành biết những ý nghĩ của tôi. Tội rất sợ cái không khí căng thẳng và giận dỗi của lần gặp gỡ trước. Chắc Thành cũng thế, anh không hỏi không nói gì về những việc làm của tôi nữa. Như những người vô tư nhất, nhàn rỗi nhất chúng tôi ngồi bên nhau nói chuyện về ăn mặc, nghỉ ngơi và những biện pháp bảo vệ sức khỏe.

*

*   *

Sau bữa cơm trưa, Thành dẫn tôi ra vườn chơi. Anh chỉ cho tôi xem những cây mà anh bầy cho ông cụ cách chiết ghép và giảng cho tôi hiểu hồ nuôi cá mà thả phân thì tác dụng như thế nào. Anh nói thành thạo, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực hành.

– Anh mà làm cán bộ kỹ thuật cho xã thì tốt nhỉ?

– Anh chỉ làm cán bộ kỹ thuật cho em thôi!

Vừa nói, anh vừa lội xuống ao, cầm sợi dây gai buộc ở gốc sung kéo lên. Một con ếch cụ da bóng nhẫy bị buộc thắt ngang lưng nhảy đánh nhằng một cái vào người tôi. Không hiểu là cái gì, tôi hoảng sợ ngã ngồi xệp xuống cỏ. Thành cười ngất, kéo tôi đứng dậy rồi xách con ếch đi vào trong nhà. Con ếch trợn tròn mắt lên nhìn Thành, hai chân cử toài lại đằng sau bơi bơi như hai cái mái chèo, mồm kêu chí chóe.

Thành xách con ếch đi vào buồng, nhanh nhẹn mở hộp đồ mổ lấy các thứ ra để lên một cái đĩa trắng.

– Em ngồi đây, anh giải phẫu con này cho em xem… Nói đoạn, Thành kéo cái bàn trắng ra gần cửa sổ, lau sạch rồi đặt một miếng gỗ nhỏ lên đấy, rồi kéo con ếch lên. Con ếch hoảng quá cứ toài đi làm miếng gỗ rơi xuống đất.

Thành cúi nhặt miếng gỗ rồi nhanh nhẹn lấy cái kẹp cặp vào giữa cổ con ếch dí nó xuống miếng gỗ rồi cầm cái kim cắm sâu vào gáy nó. Thoắt một cái con ếch cứng đờ ra. Nó chết, nằm bẹp di trên mảnh gỗ hai chân sau toãi ra – Thành mở hộp lấy ra bốn cái kim khác cắm vào bốn chân nó, lật ngửa lên đóng vào mảnh gỗ.

Da bụng con ếch căng lên, phập phồng. Nó đã chết nhưng tim vẫn còn đập. Thành lấy cái kẹp giữ lấy mình con ếch rồi lấy cái kéo đề từ trên cổ nó rạch xuống. Da ếch dày nên Thành phải rạch lên rạch xuống mãi mới phanh được bụng nó ra. Anh dùng kẹp gạt đám gân, thịt lầy nhầy, moi ra một trái tim nhỏ xíu, đỏ hồng giơ lên trước mặt tôi, bảo :

– Em xem hộ anh đồng hồ để xem phản ứng thuốc của nó thế nào. Này, em xem dây thần kinh của nó…

Anh lách kéo vào mình con ếch, rạch ngang, rạch dọc gạt đám da thịt lầy nhầy lôi ra những sợi thần kinh nhỏ trắng như sợi chỉ gai rồi cầm nút điện gí vào. Tiếng xèo xèo, mùi khét lẹt bốc lên, những sợi thần kinh giật bắn.

Nhìn đôi mắt nheo lại ngắm nghía một cách say mê những sợi thần kinh ếch của Thành tôi bỗng nhớ lại… Hôm ấy Thành mổ một con thỏ… cách đây đã mấy năm nhưng tôi vẫn còn nhớ, cũng dáng điệu ấy. Đó là một con thỏ trắng vẫn chạy quanh quẩn ở sân trường. Hai tai nó hồng hồng lúc nào cũng dóng lên như đang nghe tiếng gì ở đâu xa. Chúng tôi bẻ lá đưa vào miệng nó. Nó ăn một cách dè dặt và ngon lành. Đôi mắt tròn màu nâu nhạt trong suốt nhìn chúng tôi ngây thơ và hiền lành như mắt một đứa trẻ. Nó quấn quýt tôi lắm. Một buổi, Thành bắt nó vào trong phòng thí nghiệm.

– Thầy giáo Thành làm thịt con thỏ rồi chúng mày ạ. Chúng tôi thì thầm rồi chen nhau đứng bên khe cửa phòng thí nghiệm nhìn vào. Khi tôi đến chỉ còn nhìn thấy những vũng máu đầm đìa trên sàn nhà và Thành đang kéo ra, ngắm nghía một cách say mê đám ruột, gan, tim của nó. Đôi mắt anh long lanh thích thú, bàn tay anh đỏ những máu. Hôm nay, nét mặt lạnh lùng và mê mải của Thành lại làm tôi nhớ lại cái cảnh hôm ấy.

Thấy tôi nhăn mặt, lắc đầu, Thành tủm tỉm cười:

– Em ngốc lắm, muốn học giỏi thì phải thực hành chứ. En không vào bệnh viện mà xem chứ bác sỹ giải phẫu người ta mổ người cũng như thế mà thôi. Im, anh kể cho mà nghe chuyện này nhé! Chuyện cũng đã lâu rồi, từ hồi còn Pháp kia, có một anh bác sỹ nọ, có một cô vợ cũng đại loại như em ấy, nhút nhát và ngốc nghếch.

Thành đi rửa tay rồi ngồi xuống cạnh tôi vừa vung vẩy tay cho khô nước vừa nói, giọng nhẽo ra, vẻ chán nản và khinh bỉ.

– Ừ, anh ta có người vợ cũng như em ấy, hơi tý là xúc động, hơi tý là khóc rất buồn cười. Mà anh ta thì ngược lại, anh ta là một bác sỹ giỏi. Mỗi khi ở bệnh viện về, anh ta thường kể cho vợ nghe đủ mọi chuyện: chuyện người chết, chuyện mổ xẻ, chuyện cấp cứu… Người vợ thường gạt đi và tỏ ý ghê sợ. Một hôm, à quên, một buổi tối mùa đông mưa và rét, anh không bịa đâu, chuyện thực đấy! Anh ta ở bệnh viện về mặc áo đi mưa và đi giày cao cổ. Anh bảo vợ:

– Này em, hôm nay anh có cái này cho em!

– Đâu đâu?

Người vợ hỏi rồi nhìn quanh nét mặt lộ vẻ sung sướng.

– Ở trong túi áo đi mưa ấy, em lại mà lấy!

Người vợ vội vã chạy lại, thò tay vào túi áo đi mưa lỗi ra một bọc vải trắng nhỏ, mở ra và chị ta hét lên một tiếng rồi chết ngất đi. Bọc vải rơi xuống đất, tung ra… Em biết là gì không? Một bàn tay người chết!

– Thôi, đừng kể nữa !

Tôi ngắt lời Thành rồi bỏ đi ra ngoài vườn, người bồn chồn hết sức. Làm sao có thể hiểu được tâm hồn Thành lúc này. Những hiện tượng đó là biểu hiện của lòng say mê khoa học hay một tâm hồn giá lạnh đến tàn nhẫn trước cuộc đời? Cái gì đã làm anh thích thú trước những việc làm và câu chuyện ấy?

– Em sợ à? Có cái gì mà sợ nhỉ? Con người xét cho cùng ra cũng chỉ là một sinh vật cao cấp chứ là gì?

Thành vừa đi theo tôi vừa nói, đầu hơi cúi xuống và trên môi thoáng một nụ cười nửa miệng.

*

*    *

Chuyến xe ngựa cuối cùng từ làng Hoài về Liên-sơn bắt đầu chạy vào lúc nắng chiều vừa tắt. Khi ông lão đánh xe vung cái roi vụt lên lưng con ngựa và chiếc xe bắt đầu chuyển bánh thì tôi quay nhìn lại. Đằng sau, qua những tấm vải bạt vừa cuốn hết, tôi nhìn thấy Thành. Anh đứng đó, giữa ngã ba đường nhìn theo tôi. Xe ngựa qua phố, ra cánh đồng, xa dần, xa dần…

– Chắc là hai vợ chồng mới cưới…

Mấy người đàn bà trên xe ngựa nhìn tôi rồi nói với nhau như vậy. Đó là những người bên kia sông Đào đi chợ Hoài sắm tết. Tôi nghe họ bàn nhau về giá gạo nếp và lá rong. Quang gánh, thúng mủng, rau cỏ xếp lù lù ở trước mặt. Đâu đó có mùi cam chín rất thơm.

– Ôi dào, bây giờ ở đâu nhà máy công trường cũng mọc lên, mấy ai mà chẳng đi xa, tàu xe tiện lợi, dễ dàng, xa mấy mà chẳng về được? Chị nào mau nước mắt lắm thì chỉ làm khổ người đàn ông…

Một chị phụ nữ rất trẻ có khuôn mặt ngăm đen, sắc sảo, và nụ cười rất tươi ngồi ở dãy trước mặt tôi vừa vỗ vào cái túi dết vừa nói:

– Có ăn nhạt mới thương đến mãn. Cô có trong hoàn cảnh ấy đâu mà cô biết?

– Sao lại không trong hoàn cảnh ấy? Nhà cháu đi công nhân tận Lào-cai tháng trước cưới, tháng sau đi…

– Ừ, cũng có người thế nọ, cũng có người thế kia !. .

Một bà cụ già giọng ồ ề ngái ngủ đáp lại rồi dựa vào thành xe, ngáp dài. Chiếc xe vẫn chầm chậm đi trên đường. Tiếng vó ngựa lóc cóc đều đều. Qua cửa xe, cánh đồng một màu xanh kéo dài mênh mông và rung rinh nhòa dần trong sương chiều. Mấy bà cụ trên xe dựa vào nhau ngủ gà ngủ gật, thỉnh thoảng lại choàng dậy ngơ ngác hỏi: « Đến rồi à?, rồi lại dụi vào nhau mà ngủ tiếp. Chị phụ nữ không ngủ mở ba-lô lấy ra một quyển sổ nhỏ, lẩm nhẩm đọc. Một lúc sau chị cất tiếng hát :

… Em xinh (là xinh) như cây lúa, là lúa (ơ) đẹp, lúa (ơ) xinh ý ỳ y… ấy mấy cây lúa kia là nhờ ai chăm bón, ấy mấy cây lúa kia là nhờ em chăm bón, xanh tốt đầy đồng, ý ỳ y… Tiếng hát nhí nhảnh, rộn rã trong buổi chiều vắng lạnh này nghe sao vui và ấm áp đến thế. Tiếng hát như đưa người ta đến trước một bếp lửa hồng, có tiếng nước reo vui trong ấm và tiếng trẻ con cười đùa. Tiếng sóng của dòng sông phía xa, tiếng gió đập vào các mảnh bạt lùng phùng chẳng át được tiếng hát mà càng làm tiếng hát nổi lên, vút xa, và những tiếng đó như tiếng đệm theo của một cây đàn lớn. Tôi nhìn cô bạn gái, ngạc nhiên và kinh phục. Chưa bao giờ tôi được nghe một giọng hát hay kỳ lạ đến như thế, một giọng hát trong đó như ánh lên tất cả ánh sáng của một tâm hồn.

– Chị thông cảm cho em nhé, chả là tối mai em đã phải lên diễn rồi. Mấy hôm nay em phải đi họp dân quân trên tỉnh không tập được. Chưa thuộc mà lên thì gẫy mất.

Hát hết bài, cô dừng lại, nhìn tôi nói, có ý ngượng. Tôi còn đang bàng hoàng chưa biết nói sao thì cô đã lại cất tiếng hát tiếp. Tôi tựa người bên thành xe nhìn ra ngoài.

Chiếc xe ngựa vẫn đều đều đi vào trong bóng chiều. Thỉnh thoảng qua một làng ven đường xe lại đỗ để cho người xuống. Ông cụ đánh xe ngồi im lặng trên chiếc ghế cao, một tay cầm dây cương, một tay cầm cái roi thỉnh thoảng khẽ vụt vào lưng con ngựa một cái rồi thỏ tay vào túi rút ra cái điếu gỗ nhỏ, nhét thuốc vào, bật lửa châm, đưa lên miệng ngậm. Ngồi đằng sau xe, tôi chỉ nhìn thấy cái lưng còng, những chân tóc sau gáy lởm chởm bạc, khuôn mặt gầy, nhăn nheo, đầy râu, một nửa cái ống điếu và đôi mắt nheo lại như ngủ.

…Con người sống được là vì trước mắt nó có cả một tương lai đầy hy vọng tươi vui và những gắn bó thiết tha với chung quanh. Cô gái kia yêu những bài hát trong vở kịch của cô, các bà đi chợ gắn bó với hàng họ của mình. Và, ông lão, ông gắn với con đường, cái xe, con ngựa, hành khách xuôi ngược đi về… Đó là cuộc sống! Những thứ ấy làm cho con người sống, tạo cho con người niềm vui và hy vọng. Thật đáng sợ nếu như con người tách ra khỏi những ràng buộc bình thường nhưng thiêng liêng ấy.

Cũng như tôi, tôi yêu học trò của tôi và mong muốn cho các em trở nên những con người tốt đẹp, những con người mai sau sẽ thay chúng tôi tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trong các em, tôi thấy tâm hồn tôi. Tôi yêu Thành. Cũng như những người yêu nhau khác, tâm hồn chúng tôi soi vào trong nhau, chứa đựng và bồi đắp cho nhau. Chúng tôi cảm thấy không thể sống mà thiếu nhau được. Nhưng, giờ đây điều ấy không còn nữa. Có cái gì đã len vào giữa chúng tôi. Tôi càng muốn gần anh lại càng thấy tách xa anh. Anh và tôi bỗng dưng như hai người xa lạ, đối lập, ngạc nhiên và chẳng bằng lòng trước những việc làm của nhau. Anh đang làm gì thế? Anh có yêu những việc ấy không? Anh làm nó vì ai? Tôi sợ hãi khi nhận ra rằng anh say mê làm việc, tìm tòi nhưng trong anh không có một chút gì là tình cảm. Trong đôi mắt sắc sảo, lời nói lạnh lùng, bàn tay khéo léo của anh, tôi không thấy tâm hồn anh mà chỉ thấy đó là những việc làm được thực hiện do những ý đồ, do sự cần thiết thể nghiệm mà thôi. Còn kết quả có ích lợi cho mọi người hay không lại là điều anh không nghĩ đến. Anh săn sóc, quan tâm đến tôi nhưng sao tôi vẫn thấy trong đó những hững hờ, những gì không do tình yêu mà do sự cần thiết phải làm như thế. Anh có yêu tôi không? Hình như tình yêu không như thế…

Ngoài kia, đêm đã xuống. Trời tối nhưng con đường vẫn ánh lên hồng hồng vì những đám bụi và những đồng nước hai bên đường hắt ánh sáng lên.

Xe vẫn đi. Đến cái quán đầu con đường rẽ, chiếc xe dừng lại. Đây là trạm đỗ cuối cùng. Mấy người đi chợ lục đục xuống, cô gái có giọng hát tuyệt vời ấy cũng xuống. Trên xe chỉ còn có tôi và hai bà cụ già nữa. Ông lão đi múc nước cho ngựa uống, châm thuốc hút và thắp cây đèn bão treo ra trước xe. Chiếc xe lại bắt đầu đi đều đều, lắc lư và rung rinh trong ánh đèn đỏ mờ.

Mệt óc vô cùng vì những ý nghĩ lan man, tôi ngồi thẳng lên, nhìn về phía trước. Lòng tôi bỗng rộn ràng, náo nức khi thoảng thấy trong bóng đêm mờ những lùm tre xa, đen thẫm quấn đầy những sương trắng.

– Đến Liên-sơn rồi có phải không cụ?

– Ừ, Liên-sơn đấy !

Liên-sơn ! Liên-sơn !… Tôi lẩm nhẩm gọi tên cái làng xa lạ ấy và thấy lòng nao nao nhớ mong.

 

IX

 

Một đứa trẻ đứng chờ tôi trong gió rét. Khi xe vừa đỗ xuống thì tôi trông thấy nó. Nó đứng trên đầu dốc, bên cạnh cái quán nước, cổ quấn khăn, hai tay thu thu trước ngực. Thấy tôi nó chạy lại, chào khẽ.

– Cái gì thế em?

Trong bóng tối mờ, tôi nhận ra Tiến — tổ trưởng tồ phụ đạo. Nghe tôi hỏi, Tiến ngẩng lên, nét mặt cương quyết, đôi lông mi dài chớp chớp.

– Thưa cô, buổi chiều em đến, cô đi vắng. Em đợi mãi. Em đến để đưa cô…

Nó cúi xuống lấy trong túi ảo ra một tờ giấy gấp tư đưa cho tôi, chào tôi rồi quay đi.

– Này Tiến, giấy gì thế? Tối thế này biết đằng nào mà đọc?

– Thưa cô, về nhà hẵng đọc…

Nó nói khẽ rồi vội vã bỏ đi. Qua một nhà bên đường, tôi ghé vào đọc nhờ tờ giấy.

 

Liên-sơn tháng 1-1959

Thưa cô giáo,

Tên em là Tiến – học sinh của cô. Hôm nay em làm đơn này thưa với cô một việc như sau: Thưa cô, nguyên là em tuy còn ít tuổi nhưng là lớn trong gia đình nên phải giúp đỡ cha mẹ trông nom các em. Em đi học thì không làm được việc giúp bố mẹ. Vậy em làm đơn này xin cô giáo cho em nghỉ học từ nay. Bao giờ các em em chúng nó lớn lên giúp đỡ được việc nhà thì em lại xin đi học như cũ. Mong có đồng ý. Được như vậy thì em nhớ ơn cô mãi mãi…

                                                                                                         Nay kính xin

                                                                                                           TIẾN ký

Tiến xin thôi học ư? Không thể được. Tiến là một thằng bé ngoan, chăm học và lễ phép, thầy giáo, bạn bè ai cũng yêu. Nhưng lâu nay cứ học đến giờ cuối là Tiến lại ngủ gật. Tay chống cằm, mắt lim dim thỉnh thoảng lại gật một cái. Cả lớp gọi Tiến là “ông gật”. Nó khổ sở và xấu hổ vì việc ấy lắm. Có khi đang giờ học nó xin phép ra ngoài đi rửa mặt hay chạy nhảy một lúc rồi mới vào. Có lẽ vì thế mà nó học kém. Tôi góp ý với nó là đêm nên đi ngủ sớm, sáng dậy phải tập thể dục. Nó chỉ cười và hứa cố gắng. Mấy hôm nay ngồi học, nó không ngủ gật nữa, tôi thật chủ quan cứ tưởng thế là mọi việc đã giải quyết xong. Không ngờ nó lại xin thôi học. Sao thế nhỉ? Dù thế nào cũng không thể để nó thôi học được. Mình phải đến nhà nó ngay.

Tôi đi vội về nhà. Ở nhà tôi cũng có mấy em đang chờ tối. Chúng đang ngồi nghe ga-len thấy tôi thì vội vã nói:

– Thưa cô, thầy giáo Chiếm bảo chúng em vào mời cô ra đình họp ngay ạ!

– Họp gì thế các em?

– Thưa cô, họp phụ huynh học sinh để bàn về việc xây trường ạ. Đáng lẽ mai mới họp nhưng vì mai xã mở đại hội bốn ngày nên phải làm tối nay, thầy giáo bảo chúng em nói với cô như thế ạ.

Họp sớm một ngày thì làm thế nào cho phụ huynh học sinh biết được?

– Dạ, chúng em đi bảo mồm ạ. Cả lớp bốn, lớp ba đi suốt buổi sáng ạ !

Tôi sửa soạn qua loa rồi vội vã theo các em đi họp.

*

*   *

Buổi họp bắt đầu từ chập tối, lúc tôi đến thì mọi người đang thảo luận câu hỏi “chúng ta có nên xây trường không? Khả năng của chúng ta có xây được không?”.

– Điều ấy thì ai chả rõ, thảo luận làm gì cho mất thì giờ?

– Mất thì giờ à? Chị không biết đấy, lúc đầu là chả ai chịu nhận trách nhiệm đóng góp đâu, cứ là bàn lảng. Phải cho họ thảo luận thế này thì mới có cơ sở mà nói, mà yêu cầu…

Chiếm trả lời tôi rồi chạy lại phía mấy ông chủ nhiệm. Họ đang thảo luận vấn đề gì đó, tiếng uôm uôm nghe không rõ. Ông hiệu trưởng ngồi xổm bên cạnh quyển sổ mở để đầu gối, cái bút trong tay, ông ghi lia lịa. Một lúc sau ông đứng lên, gập sổ lại, ra trước cái bàn gỗ mộc kê dựa vào cột đình. Tay nâng kính đặt xuống bàn, giọng ông cất cao lên:

Các vị đã thấy đấy, thời Pháp thuộc cả huyện ta mới có một trường tiểu học, xã ta chỉ có một lớp học quốc ngữ thế mà bây giờ xã ta đã có tám lớp, ngót 400 học sinh. Sang năm lên đến mười một lớp, con số phát triển vùn vụt, thật là mạnh mẽ. Không xây trường thì học vào đâu? Các vị đã đồng ý là xã ta năm nay phải xây trường và khả năng của ta có thể xây được vậy thì tôi xin đọc danh sách dự chi đề các vị nắm và cho ý kiến (danh sách này đã được xã và huyện duyệt). Đất thì xã cho rồi chỉ còn gạch, ngói, xi-măng, vôi, cát, công thợ. Nếu tất cả các thứ này phải mua thì số tiền tổng cộng phải chi là mười lăm nghìn đồng, tiền mới ấy!..”.

Phía dưới có tiếng xuýt xoa, tiếng tắc lưỡi và tiếng kêu “chà chà”…

– Con số ấy là to có phải không các vị? Mà nhà trường thì nghèo. Đợt phát động xây dựng trường sở vừa rồi được hơn một trăm, quỹ thì trắng, vậy các vị dịnh cho như thế nào?

Cả hội nghị im lặng rất lâu. Tiếng xì xào nhỏ nhất cũng tắt hẳn. Người ta nghe rõ cả tiếng trẻ con bú ở một góc xa, tiếng rít thuốc lào và tiếng nói thầm rất khẽ. Nhiều người cứ lùi dần về phía sau, ngồi vào những chỗ khuất, những chỗ có bóng tối, có người lùi dần ra phía cửa.

Chúng tôi nhìn nhau lo lắng. Nho nhìn xuống đất, vẻ rầu rĩ. Chiếm cau mặt chạy lại gần một đồng chí cán bộ xã thì thầm. Bác Cường, bác Trà lắc đầu. Ông Cần đứng dậy đi châm lại cái đèn vừa bị tắt. Chỉ có cụ Thuận là giữ được cái bình tĩnh thường ngày. Chăm chú trong cái vẻ lơ đãng, cụ vừa lim dim ngắm mọi người vừa nghe ông Trí nói, thỉnh thoảng lại gật gù. Thấy mọi người im lặng đã lâu, ông khẽ hích tay vào lưng ông Trí:

– Thế nào bác? để hội nghị chết mãi à?

Ông Trí lộ vẻ bối rối. Ông nhấc kính đeo lên mắt rồi lại tháo ra đặt xuống bàn kéo vạt áo lau lấy lau để. Vừa lúc ấy thì ông Thân chủ tịch xã, bước vào. Hình như ông đã biết mọi chuyện. Ông chạy ra trước hội nghị, cất tiếng hỏi:

– Bây giờ tôi xin các vị trả lời cho một câu “Ta có nên xây trường không?”.

– Có chứ, không xây thì học vào đâu?

– Ừ, thế thì sao các vị không lên tiếng cho? Thời dân chủ, ta là chủ nhân ông đất nước, sao ta không làm tròn trách nhiệm của mình? Xây trường là để cho con em các vị, trường là trường của ta, các đồng chí cán bộ, đảng viên sao cũng im?

Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Hình như ai cũng muốn nói nhưng lại ngại cất lên những tiếng nói đầu tiên. Chờ đợi lẫn nhau. Có tiếng xì xào ở một góc xa và đột nhiên, một cánh tay giơ lên. Tất cả mọi người dồn mắt nhìn về phía ấy. Ai cũng ngạc nhiên khi nhận ra ông cụ Đối. Ông cụ theo ai đến hội nghị? Có ai mời ông cụ

đi đâu?

– Cụ có ý kiến gì ạ?

Ông cụ Thuận vội vã chạy lại. Ông cụ Đối vịn vào tường đứng lên. Lưng còng, tóc bạc trắng, giọng ông cụ phều phào:

– Tôi xin có ý kiến. Tôi nghe nhà trường nói xây dựng trường cho các em học khó khăn, tốn kém mà tiền thì không có. Các con tôi lớn cả, các cháu thì còn bé chẳng có ai đi học, nhưng rồi các cháu tôi cũng lớn lên chứ, với lại con cháu nhà nào chả như con cháu nhà tôi. Tôi già rồi không làm được tiền. Nuôi được mấy con gà đấy, tôi sẽ bán hai con đề ủng hộ nhà trường, được độ gần một chục…

Mọi người xôn xao. Tiếng vỗ tay rào rào nổi lên. Và liền theo đó một không khí sôi nổi, hăng hái truyền đến mọi người.

– Tôi có một cháu học, nhà cũng chả có mấy, tôi xin đóng góp ba đồng và một cây tre!

– Tôi cũng thế!

– Tôi hai đồng với ba chục lá gồi !

– Tôi ba đồng, với một cây xoan!

Như cái nút thắt chặt vừa được tháo tung ra, tiếng rào rào nổi lên. Người ta theo nhau, dựa vào nhau mà xung phong. Chiếm đỏ mặt lên vì sung sướng, vội vã đứng dậy chạy lại bên bàn cầm lấy sổ, bút, đôi mắt chớp chớp:

– Các vị có thứ tự cho, tôi xin ghi!

Mọi người lúc ồn lên lúc lặng đi, tính toán. Mấy ông chủ nhiệm các hợp tác kéo nhau ra ngoài thềm ngồi bàn tán riêng. Rất lâu, các ông mới vào và thay nhau đứng lên:

– Về nguyên liệu hợp tác tôi ở gần núi xin xung phong đập, giỡ, còn di chuyển thì xin các hợp tác khác giúp cho !

– Đồng ý, đồng chí Chiếm ghi cho: 100 mét khối đá. Hợp tác xã Tiến – lên! − Ông Trí chạy lại gần Chiếm vội vã nói:

– Tôi, Hợp tác xã Quyết – thắng gần sông, xin bảo đảm cát!

– Tôi, hợp tác xã Từ – đường, xin bảo đảm mười công nề mộc!

–  Hợp tác xã Thống – nhất xin bảo đảm vôi, gio lò…

– Hoan hô! Hoan hô!

Hội nghị ồn ào hẳn lên. Tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô ầm ầm. Mọi người tranh nhau xung phong. Đến khuya thì mọi việc đã ngã ngũ. Tồng cộng lại tiền vẫn còn thiếu nhiều, gạch ngói thì chưa có. Nhưng mọi người đều vui vì bước đầu như vậy là thắng lợi tốt.

Hội nghị tan. Mọi người về hết chúng tôi còn ở lại bàn thêm một số việc cần làm ngay và lên danh sách những gia đình đã đóng góp và chưa đóng góp để đi vận động thêm.

Ông Trí vui lắm. Chia tay, ông bảo Chiếm:

Về nhà tớ ngủ đi, về làm hộ tớ cái thống kê để mai tớ đến các tay chủ nhiệm đề nghị cụ thể. À, mà mai còn phải đến đại hội xã viên nữa chứ nhỉ? Xây trường là xây chung cho làng xóm chứ riêng gì cho những người có con em đi học, phải không?

*

*   *

Liên-sơn 1 – 1959

Anh thân yêu,

Chắc anh sẽ ngạc nhiên khi nhận được thư này của em vì vừa mới hôm qua chúng ta còn ở bên nhau, còn im lặng hồi lâu vì chẳng tìm được điều gì để nói và chỉ mấy hôm nữa là chúng ta lại gặp nhau. Nhưng em thật không thể nào ngừng viết thư cho anh được. Vì sao anh có biết không? Em nói cho anh nghe nhé.

Lúc này đêm đã khuya lắm rồi. Em vừa ở nhà em Tiến về. Không biết anh có còn nhớ cái thằng bé ấy không ? Anh có còn nhớ cái hôm anh đến mà em đang dạy thêm cho học sinh không? Cái lúc mà em nhìn thấy anh cũng là lúc thằng Tiến vừa lên bảng. Nó là một thằng bé hơi gầy, cao, khuôn mặt trái xoan, ngăm đen, đôi mắt mơ màng và hàng lông mi dài như con gái, trông nó rất dễ thương anh ạ. Nó rất ngoan, thông minh và nhanh nhẹn, nhưng lại học kém và chiều tối hôm qua nó đến gặp em, xin thôi học. Làm sao lại để cho nó thôi học được anh nhỉ? Thế là chiều nay em đến nhà nó. Nhà nó ở mãi tận thôn dưới, cạnh chợ. Vừa vào đến cửa em đã trông thấy một ông cụ già tóc bạc trắng đang lom khom lội dưới cầu ao tay cầm một nắm bã rơm với nước đổ lên những quả dừa xếp một lượt dưới gốc tre.

– Chào cụ ạ, cụ làm gì đấy ?

– Ai hỏi tôi thế?

Ông cụ hỏi rồi ngửng lên. Khi nhận ra em, ông cụ vui vẻ mời em vào nhà. Em hỏi chuyện về Tiến. Em không ngờ câu chuyện kéo dài đến thế. Gia đình Tiến là một gia đình có nhiều đóng góp cho cách mạng. Bố Tiến trước kia là một du kích dũng cảm. Ông tham gia từ ngày đầu kháng chiến và có nhiều thành tích. Trong trận chống càn cuối năm 48, mình ông đã diệt được hơn một tiểu đội địch. Trận đó ông bị thương và bị bắt. Chúng tra tấn ông rất dã man bắt tù mấy năm ròng, nhưng ông không hề một lời nào phản lại Đảng. Đến nay, tuy sức yếu nhưng ông vẫn làm nhiều công tác của xã. Ông em Tiến, ngày kháng chiến đã già nhưng vẫn tham gia với anh em du kích, đi canh gác, tiếp tế đến nay tuy đã ngoại bảy mươi cụ vẫn tham gia công tác phụ lão và công tác ở Mặt trận tổ quốc xã. Mẹ Tiến chưa già lắm, nhưng bị bệnh tê thấp không làm ruộng được. Xã chiếu cố cho bà mở một ngôi hàng bán quà bánh ở chợ. Bố lao động ngoài đồng ruộng, ngoài ra lại còn công tác nên Tiến phải phục dịch vào cửa hàng ấy. Hai em Tiến còn nhỏ chưa làm gì được. Buổi tối, Tiến phải xay bột đến khuya, sáng sớm đi quét lá ngoài bãi Thông để lấy lá đun. Đi học về, Tiến phải thổi cơm, chăn trâu cho hợp tác và quét dọn nhà của… Bây giờ em mới hiểu vì sao nó hay ngủ gật. Ông cụ cho em biết là Tiến tự ý xin thôi học cả nhà không ai biết. Vừa hôm qua, bố Tiến đi họp huyện còn mua về cho Tiến mấy quyển sách. Có lẽ Tiến muốn nghỉ học để giúp bố mẹ được nhiều việc hơn. Thật là một thằng bé hiếu thảo, đáng yêu vô cùng.

Ông cụ ngoài công tác xã, trông nom nhà cửa, vườn tược ra lại ngồi đan rổ, rá. Ông cụ cứ đan như thế chẳng bao lâu lại được một cặp hàng cho con dâu đem bán lấy tiền may quần áo cho các cháu. Em hỏi ông cụ về những quả dừa.

– Đấy là những quả dừa của Mặt trận tổ quốc giao cho tôi ươm đấy cô giáo ạ! Mỗi ngày một chục lần dấp nước!

Nói rồi, ông cụ nhìn ra cổng, lắng nghe tiếng gió đùa trong đám phi lao rì rào như tiếng sóng ở xa rồi tiếp :

– Cô giáo ạ, Mặt trận chúng tôi đang đào một cái hồ to bằng cái hồ Đinh ấy. Chúng tôi sẽ trồng dừa xung quanh hồ. Sau này, mùa nực, dừa lớn lên tha hồ ra mắc võng mà nằm cô giáo nhỉ? Mình chả hưởng thì con cháu mình hưởng, xóm làng mình hưởng chứ mất đi đâu mà sợ thiệt, cô giáo nhỉ?

Anh thân yêu,

Đọc đến đây anh nghĩ gì? Còn em lúc ấy sao em xúc động đến thế, lại cả xấu hổ nữa. Vâng, rất xấu hổ anh ạ! Anh thấy đấy, em còn trẻ, khỏe biết bao và chẳng có gì cản trở khó khăn thế mà em có làm được gì đâu và lòng tin yêu, tình cảm tha thiết với cuộc sống cũng chẳng có là bao. Em thấy mình còn nhỏ bé, hèn kém mọi bề. Em thấy mình chưa xứng đáng với tuổi trẻ và lòng tin yêu của mọi người xung quanh. Anh nhỉ, cái gì đã làm cho con người già nua ấy có được lòng lạc quan, yêu đời và tin yêu vào cuộc sống đến thế ? Cái gì đã thúc đẩy ông cụ sống và làm việc ?

Ở nhà ông cụ về, em phải viết thư ngay cho anh, kể lại cho anh nghe chuyện đó và nói với anh một số điều. Những ngày qua, chắc anh cũng đã thấy đấy, chúng ta sống với nhau thật không thoải mái, nhiều giận dỗi và khó chịu. Em nhận thấy trong tình cảm của anh có những điều không được tốt… Chắc anh còn nhớ những lần chúng ta gặp nhau, ôi thật là đáng buồn! Em không muốn như thế một chút nào, nhưng nó vẫn xảy ra như thế đấy. Em muốn cuộc sống của chúng ta thật tốt đẹp, chúng ta giúp nhau làm việc, phấn đấu cho lý tưởng như trước kia anh đã từng nói với em chứ em có muốn cứ gặp nhau là lại cãi nhau, lại giận dỗi khổ sở như thế đâu. Em đã nghĩ về mình rất nhiều và thấy rằng mọi chuyện chẳng lành đó chẳng phải tại em mà xảy ra. Còn anh, đã lúc nào anh nghĩ lại những việc làm của anh không? Đã có lúc nào anh tự hỏi anh: anh đang làm gì và làm cho ai không? Anh muốn em cũng làm những việc như anh ư? Không. Em không những không bao giờ làm những việc như thế mà còn không muốn anh làm như thế… Cuộc sống của anh, những việc làm, ý nghĩ của anh, anh nghĩ lại mà xem, nó thế nào ấy, nó không phải cuộc sống của một người tốt, của một người chân chính…

Ý nghĩ, lòng mong muốn, tình yêu và hy vọng dồn dập đến, tôi mê mải viết thư cho Thành. Anh có thể giận tôi là đã quá nặng lời nhưng vì sao tôi phải nói như thế? Vì tôi đã yêu anh và tình yêu bắt tôi phải nói như thế mà thôi…

 

X

 

Chúng tôi ngồi bên cửa sổ của toa tàu. Im lặng. Đối với tôi lúc này sự im lặng thật nặng nề, khó chịu.

– Cách đây hơn một tuần em có gửi cho anh một bức thư anh đã nhận được chưa ?

– Có. Anh có nhận được!

Thành nhanh nhảu trả lời rồi lại im lặng nhìn ra ngoài như cũ. Có đà, tôi hỏi tiếp :

– Anh thấy những ý kiến của em như thế nào?

– Những ý kiến của em ấy à? Rất tốt! Em nói thế rất đúng. Nhưng… thôi, chuyện ấy để lúc khác hãy bàn. Chúng mình nói chuyện khác đi. Em xem kìa, đẹp không?

Thành giơ tay chỉ ra cửa sổ. Con tàu vừa đi qua những quả núi đất rậm rạp đến một cánh đồng lúa xanh trải ra bên một đồi cọ. Những cây cọ cao vươn lên thẳng tắp. Những cái tán xòe rộng ra trông như những cái đuôi công lấp lánh trong ánh nắng. Bóng của chúng ngả dài trên đồng lúa. Gió rung rinh thôi qua đám lúa trông như những cái đuôi công ấy đang bay.

Đôi mắt, cử chỉ của anh như muốn nói. “Những điều cô nói thì tôi đã biết cả rồi, lúc này đây chả phải là lúc nói những chuyện ấy, mà những cảnh kia mới đáng đề ta lưu ý”. Ừ, có thể lúc này chưa phải lúc nói những chuyện ấy, nhưng anh thấy không, nếu ta không hiểu những điều đó thì ta không thấy được cái đẹp thực sự và lớn lao của cuộc sống này đâu… Nhưng thôi, nếu anh đã không muốn thì thôi. Tôi im lặng. Con tàu vẫn đi về phía trước trong tiếng sình sịch đều đều… Thỉnh thoảng tiếng còi lại cất lên nghe bồi hồi như tiếng gọi của thời gian. Đến mỗi ga, con tàu dừng nghỉ một lát rồi lại vội vã ra đi.

Miền trung du. Miền đồng bằng.

Chiều sẫm dần. Và đêm xuống.

Hà-nội đón tàu về trong ánh điện như sao sa. Thành bồn chồn, trong người như có điều gì không yên. Đến những ga cuối, anh không ngồi trong toa nữa mà ra đứng cửa tàu, nét mặt đăm đăm, lông mày nhíu lại.

– Anh nghĩ gì thế?

– Không… À, chương trình tết của em như thế nào ?…

– Chương trình tết ấy à? Em chỉ muốn ở nhà, đi lâu quá…

– Ừ, anh cũng thế… Chúng mình cả tháng cả năm ở gần nhau rồi, tết có mấy ngày về phải sum họp gia đình, gặp gỡ bạn bè… Chúng mình tạm hy sinh em nhé. Chiều mùng 3 tết nếu anh không bận thì anh đến, ta đi chơi. Nếu không, trưa mùng 4, em chờ anh ở ga nhé.

– Đồng ý! Thế đêm giao thừa anh cũng không đến à ?

– Anh muốn đến lắm, chỉ sợ bận không đến được mà hẹn thì em mong.

Thành nhìn tôi bối rối, rồi chỉ tay ra phía trước :

– Em xem kìa, đẹp không? Hà-nội như tết bằng hoa ấy. À, không, Hà-nội như một cô gái kiều diễm thì đúng hơn. Nền trời là cái áo nhung đen cô mặc, những dãy đèn dăng hàng kia là chuỗi hạt kim cương cô quàng trên cổ…

Tôi nhìn theo Thành, tôi không thấy Hà-nội như thế mà thấy mẹ, em, bè bạn, những người thân yêu hiện ra trước mắt tôi. “Mẹ ơi, con đã về đây, mẹ xem con có lớn lên không?”. Tôi muốn cho tàu đi nhanh để được chạy ngay đến bên mẹ, để được mẹ ngắm nghía và gật đầu khen: “Ừ, con lớn lên thật đấy”. “Không, mẹ không thấy hết được cái lớn lên của con đâu”.

Con tàu đã về đến ga. Chia tay với Thành, tôi đi vội vã. Và đây, ngôi nhà gỗ cũ kỹ đã hiện ra trước mắt tôi với những cửa sổ nhỏ đóng kín. Cái ngõ nhỏ chạy dài quen thuộc sáng trưng trong ánh điện. A, đường ngõ đã có điện rồi. Cuối ngõ, tiếng loa phát thanh vang vang một điệu nhạc dìu dặt. Nhà ai đây, ngói mới, những khung cửa còn thơm mùi sơn. Mới có mấy tháng trời mà cái ngõ đã thay đổi nhiều quá. Nhà tôi, chắc cũng khác lắm.

– Mẹ ơi!

Tồi gọi rồi nhìn vào khe cửa. Trong nhà, dưới ánh đèn dầu, thằng Khoa đang cắm cúi ngồi viết, tóc xõa xuống trán. Góc nhà, cạnh lối đi, mẹ tôi ngồi trên một cái ghế con; một tay nâng sợi gai đặt vào ống, một tay cầm xa quay chầm chậm. Những sợi gai nhỏ, ngà vàng, cuốn dần, cuốn dần lại trong tiếng xa quay đều đều.

– Mẹ ơi ! — Tôi gọi rồi gõ khẽ vào cánh cửa.

Con ra xem, mẹ nghe hình như có ai gọi. Mẹ tôi ngừng quay xa, chạy ra, nét mặt thoáng vẻ hồi hộp. Thẳng Khoa buông bút đứng lên. Cả hai cùng chạy ra. Cửa mở. Một tiếng reo. Hai tiếng reo “a” lên cùng một lúc. Và cả hai cùng nắm lấy tay tôi lôi vào trong nhà.

Mẹ tôi nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi lại từ chân lên đầu y như tôi là một thứ gì kỳ lạ lắm. Một lúc lâu, mẹ tôi nói:

– Con gầy, đen đi đấy… Ơ mà cái sẹo, sao thế con?

– Tháng trước con bị một cái mụn to lắm, mẹ ạ!

– Khổ, sao nó lại trúng vào giữa má?

Mẹ tôi lẩm bẩm rồi chạy xuống bếp đi thổi cơm cho tôi ăn. Tôi không đói, nhưng cũng cố ăn cho mẹ vui lòng. Thằng Khoa đến ngồi bên cạnh tôi hỏi hết cái này đến cái nọ và khoe những bài được điểm 5 từ đầu niên học đến nay. Con mèo ở dưới bếp chạy lên xán đến, dụi đầu vào người tôi, gừ gừ như muốn hỏi: “Đi đâu lâu thế hử?”. Cơm chín. Mẹ tôi bắc ghế ngồi bên cạnh nhìn tối ăn, xới cơm, gắp thức ăn cho tôi như hồi tôi còn bé tí (Mẹ ơi! Có phải rằng đứa con dù đã lớn đến đâu nhưng về ở bên mẹ cũng đều trở nên nhỏ bé, thơ dại có phải không mẹ?).

– Ở trên ấy ăn uống thế nào, hả con?

– Tốt lắm mẹ ạ!

– Sao con gầy thể?

– Con mà gầy à? Mẹ xem cánh tay con đây này.

– Ừ, tay con chắc thật. Thế công việc dạy học có bận lắm không con? Học trò ở thôn quê quý cô giáo lắm có phải không con?

Mẹ tôi hỏi dồn dập, hình như chỉ hỏi để hỏi chứ không cần nghe trả lời nữa. Còn tôi thì giấu biến những chuyện khó khăn đi để mẹ tôi đừng vì tôi mà thêm lo lắng vô ích.

Con được nghỉ tết mấy hôm? Anh Thành có cùng về với con không? Hôm nọ ông bố anh ấy cũng đến nhà ta chơi. Nghe đâu sang năm nay số lương lưu dung của ông cụ không còn nữa mà ăn theo lương cán bộ bây giờ…

Mẹ tôi nói nhiều chuyện về Thành. Những câu nói vô tình làm tôi nhớ lại những chuyện qua đã lâu ngày. Tôi nhớ lại cái tết sau hòa bình hai năm. Tôi cùng một số bạn đến chúc tết nhà Thành. Thành đi vắng. Ông bố, bà mẹ Thành ra tiếp chúng tôi.

Đó là một người đàn bà đẫy đà, béo tốt và một ông cao, gày khẳng khiu. Bà mặc một chiếc áo nhung dài màu đen đã bạc gần hết tuyết, quần sa tanh trắng đã ngà vàng, tóc quấn trần, cài lược ngà và đi giầy nhung kín mũi trạm rồng bằng những viên hạt cườm nhỏ tí xíu. Tất cả mọi thứ đều cũ kỹ nhưng không làm người ta nghĩ đến sự túng bấn mà lại thấy như đó là biểu hiện của sự giàu sang đã lâu đời.

Bà nói chuyện đưa đẩy, tươi cười giấu hết những ý nghĩ của mình trong những câu nói chung chung và thông suốt về các chính sách. Nhưng sao tôi vẫn cảm thấy có những bất mãn sau những câu nói, tiếng cười khéo léo của bà. Khi chúng tôi hỏi dạo này bà có buôn bán gì nữa không thì bà chép miệng, nheo mắt lại, chìa bàn tay múp míp đeo một cái nhẫn mặt đá to gộc ra trước mặt chúng tôi rồi thở dài. Cử chỉ ấy như muốn nói “Đấy, đến tay này mà cũng chịu đấy !.”

Ông bố Thành – một người thư ký của hãng Gô-đa trước, nghỉ việc gần một năm, vừa được đi làm cho một công ty vận chuyển xuất nhập khẩu. Đó là một người vui vẻ và nhẫn nhục. Trước khi nói câu gì cũng đưa mắt nhìn vợ như muốn hỏi ý kiến. Khi vợ cười đáp lại thì ông mới bắt đầu nói bằng một giọng lắp bắp và hai mắt nhấp nháy. Nhưng nếu vợ khẽ cau đôi lông mày vòng cung kẻ chỉ nâu nhỏ như sợi tóc lại thì ông thôi ngay, quay ra mời khách uống nước, hút thuốc và cười hề hề…

– Tư sản quá nhỉ?

– Còn phải nói!

– Ông ấy thật là “râu quặp” !

– Chuyện, cơ ngơi nhà ấy là do bà ta làm ra cả, chứ ông ta nghèo kiết xác đi làm được đồng nào ăn chơi hết đồng ấy. Mẹ tao biết bà ấy, ngày trước bà ấy đẹp và đảm lắm nhé! Bà ấy đi khắp cả cái nước Việt-nam này, tỉnh nào cũng có mối hàng của bà ấy…

– Thế mà thầy giáo Thành lại khác hẳn nhỉ?

– Ừ, tại có đi kháng chiến!

– Chào, thế mà lại gọi được là “kháng chiến” à? Anh tao đi bộ đội ở gần biết rõ cả. Thế này nhé, chả là năm 53 tại Pháp bắt cả học sinh Hà-nội đi lính. Sợ con bị bắt lính bà ta đem gửi con ra ngoài vùng tự do ở nhờ nhà người quen. Lúc nhân dân ta kháng chiến đánh giặc thì anh ta nằm một chỗ ăn tiêu bằng tiền của bố mẹ gửi ra. Cứ thế cho mãi đến ngày tiếp quản thủ đô…

– Suỵt, chết nhé, nói xấu thầy giáo !…

Những lời bàn tán, chê bai của bà bạn lúc ấy không làm lòng mến yêu và tin tưởng của tôi đối với Thành bị giảm sút, mà ngược lại, tôi lại thấy Thành đã vượt lên trên cả gia đình. Thành đẹp đẽ quá! Và khi đã yêu Thành rồi, bị bạn bè gièm pha thì đôi lúc tôi lại có ý nghĩ là các bạn tôi ghen tức với hạnh phúc của tôi…

Nhưng đến nay… Tôi đã nhận thấy những điều tôi cố tình chối cãi ấy lại chính là sự thật. Một sự thật đáng sợ!

*

*   *

– A chị Huệ, chị Huệ đã về..

Một tiếng reo to và cánh cửa mở toang. Tôi chưa kịp ngửng lên thì một người, một vòng tay đã xô tới ôm choàng lấy người tôi. Mùi hoa ngọc lan thơm ngát.

– Em đi đâu về đấy hả, Bảo ?

– Em đi họp Đoàn. Em vừa được kết nạp Đoàn hôm 12, em viết thư cho chị biết rồi thôi. Họp để bàn cách tổ chức tết cho các em thiếu nhi. Chị về lúc nào thế? Mấy hôm nay em mong chị về ghê quá, Hôm nào đi học về, em cũng hỏi mẹ: a Mẹ ơi, chị Huệ về chưa hả mẹ”. Đêm nào em cũng nằm mơ thấy chị.

Bảo vào buồng, vừa dọn dẹp vừa tíu tít kể chuyện. Bảo “phi dê” từ bao giờ thế?

Từ hai tháng rồi. Chả là, chị có biết không, em sẽ đi thực tập ở bệnh viện, tóc dài vướng lắm…

– Thôi, xin cô, cô muốn cho đẹp gái chứ gì?

– Ứ ừ, chị cứ nói xấu em…

Bảo cười tít rồi lấy tay búng búng mấy búp tóc xoăn xòa xuống trán. Tôi nhìn Bảo, ngạc nhiên. Mới chưa đầy nửa năm mà em tôi đã thay đổi nhiều quá. Từ một cô gái nhỏ tóc xã ngang lưng, em đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp. Một vẻ đẹp không có một dấu hiệu nào báo trước cả. Nó không giống tôi, không giống mẹ tôi, bố tôi hay thằng Khoa. Nhưng trên khuôn mặt ấy lại như hòa hợp tất cả các nét của mọi người. Khuôn mặt bầu bầu nhìn nghiêng hơi trái xoan, nhìn thẳng lại tròn – đó là khuôn mặt của mẹ tôi. Đôi mắt đen, sâu, hơi xếch sắc sảo và đằm thắm – đôi mắt của cha tôi. Mũi nhỏ, dọc dừa – cái mũi của tôi. Đôi môi nhỏ, hơi cong lúc nào cũng như he hé cười – cái cười của thằng Khoa…

– Chị này, em có một cô bạn miền Nam cùng lớp, thích ghê lắm kia. Tết em sẽ dẫn nó đến. Ở trên ấy, chị có bạn thân không?

– Có.

– Tên là gì? Có đẹp không, chị?

– Tên là My. Đẹp lắm em ạ !

Tôi kể cho Bảo nghe những chuyện về My.

– Trời ơi! Cô ấy tốt quá! Em thích cô ấy quá. Sao chị không đưa cô ấy về nhà ta ăn tết? Cảnh cánh đồng à? Em chưa thấy bao giờ. Học xong, em sẽ xin về nông thôn công tác như chị.

– Thôi, để đến mai hẵng nói chuyện, có cho chị mày ngủ không, đi cả ngày mệt mỏi. – Mẹ tôi nói.

– Không, một tí nữa thôi…

Bảo lại tíu tít nói chuyện.

Đêm khuya. Khi mẹ và Khoa đã ngủ, Bảo kéo tôi vào buồng và bỗng nhiên ôm chầm lấy người tôi.

– Này chị, em yêu chị lắm.

– Ồ, con bé này điên rồi chắc, ngủ đi…

Tôi mắng yêu em rồi đi mắc màn.

– Không. Em chưa cho chị ngủ đâu, em hỏi chị cái này đã… Chị phải nói thực, nói hết kia…

– Cứ hỏi đi, cái gì biết thì chị nói.

– Chị còn yêu anh Thành không?

– Sao em lại hỏi thế?

– Em cần biết mà. Chị nói đi, nhanh lên. Còn không?

– Còn.

– Nhiều không?

– Nhiều.

– Thế anh ấy có yêu chị không?

– Có.

– Nhiều không?

– Nhiều.

– Hừ…

Bảo cau mặt rồi ngồi thụp xuống đất lôi cái hòm ở trong gậm giường ra.

– Đây này, anh ấy yêu chị nhiều lắm đây này… Em không thể chịu được!

Bảo mở hòm lôi một nắm thư của Thành ra để trước mặt tôi.

– Từ bao giờ thế này?

– Từ khi chị đi khỏi. Anh ấy cứ đến luôn. Anh ấy bảo em có vẻ đẹp của người In-đô-nê-xia. Lúc đầu em có biết đâu, cứ tưởng anh ấy tốt. Đến khi em thi đỗ thì anh ấy viết thư, bảo yêu em còn chị thì anh ấy chỉ thương thôi. Em trả lời thế nào chị có biết không? “Này, anh đừng có nói như thế không tốt đâu. Tôi sẽ nói cho chị tôi biết”. Anh ta cứ xin lỗi mãi và bảo em đừng nói với chị. Nhưng sau đấy, đi huyện Hà dạy học, anh ấy vẫn cứ viết thư về, nói xa, nói gần. Em muốn nói cho chị biết ngay nhưng cứ sợ chị khổ. Bây giờ thì em không thể chịu được. Chị Dung, chắc chị không biết, chị ấy hơn chị hai tuổi, mặt xương xương, học trước em một năm. Một hôm em thấy một cái thư của anh Thành gửi cho chị ấy đề ở văn phòng. Anh ấy không đề tên nhưng nhìn chữ em biết. Em hỏi chị Dung em vờ như không quen biết gì anh Thành cả. Chị ấy cho em biết anh Thành đang theo đuổi đề “đặt vấn đề” với chị ấy… Kìa, chị làm sao thế? Rức đầu à?

– Không, chị đi cả ngày mệt chứ có làm sao đâu.

Tôi dựa lưng vào tường, người choáng váng.

– Chị đã thấy chưa, đây này, em mượn cả mấy cái thư anh ấy gửi cho chị Dung “Em yêu quý, người thân thiết nhất đời của anh…”. Chị có biết vì sao anh ấy theo đuổi chị Dung không? Chị ấy có ông bố là giáo sư thường chấm thi vào các trường chuyên nghiệp. Ôi, thật là bẩn thỉu… Thế mà chị còn yêu anh ấy à?

Giận dữ, Bảo gạt những tờ giấy xuống đất và ngồi lại gần tôi, ôm lấy vai tôi, thầm thì:

– Chắc là tại chị không biết, phải không?… Chị tốt quá, cứ như mảnh thủy tinh ấy, trong suốt… Chứ phải em ấy à? Em thì…

Trong những ngày tết Thành không đến nhà tôi. Tôi hiểu là vì sao. Điều ấy làm tôi vừa thấy bực bội vừa thấy thế cũng là tốt. Tôi vừa muốn gặp Thành để nói rõ cho anh ta biết mọi chuyện và cách giải quyết dứt khoát của tôi. Tôi lại vừa sợ khi nghĩ đến lúc lại phải gặp anh ta… Hà-nội trong những ngày tết thực đẹp và vui. Khắp nơi, chỗ nào cũng nghe thấy tiếng cười, tiếng guốc, tiếng giày khua rộn trên hè phố. Chỗ nào, người nào cũng mặc quần áo mới, cái là phẳng lỳ, cái còn gấp nếp, mỗi bước đi nghe cả tiếng sột soạt khe khẽ. Mùi thơm của pháo, hoa, hương, bánh ngọt thoang thoảng khắp nơi. Người ta đổ ra đường. Những đôi lứa đi

bên nhau.

Những hôm ấy, tôi muốn ở nhà xum họp với mẹ và em để bù lại những ngày tôi đi vắng. Để đi chúc tết hàng xóm cùng với mẹ và nghe mẹ kể lại những chuyện ở nhà. “Bà đại biểu khu phố ạ, nhà bà thật đúng vào câu ca, đầu lòng hai ả tố nga… Các cô các cậu ấy thật là tốt cả. Đã có nào có đám nào hỏi chưa?”, “Chưa, chưa, các cháu còn ít tuổi, còn học tập, công tác đã chứ!”. Mẹ tôi nhắc lại những lời khen của người nào đó rồi lại cười. Lúc ấy tôi mới biết mẹ đã được bầu vào ban đại biểu phụ nữ của khu phố. Ngoài việc làm gai ra, mẹ còn hội họp công tác luôn. Tuy bận nhiều, nhưng mẹ vui hơn trước. Mẹ kể cho tôi nghe những việc mẹ đang làm: vận động chị em phụ nữ tiết kiệm, nuôi con khỏe dạy con ngoan, chuẩn bị giải đá đường ngõ, xây nhà mẫu giáo…

Các bạn tôi đến. Những đứa thân ở xa vừa về. Cái Quế, cái Phúc, cái Lý, cái Thanh, cái Kỹ… Chúng chẳng để tôi ở yên trong nhà. Chúng tôi tay nắm tay, ra đường. Bao nhiêu chuyện trong những ngày xa nhau được kể hết ra. Chúng tôi đi trên các phố quen, rồi đến những phố lạ. Ở đâu cũng vui. Ở đâu cũng cởi mở và đầy tình thương yêu.

Trên các đường phố, chúng tôi gặp lại nhiều bạn bè khác. Chúng nó đều thay đổi cả. Có đứa cũng vừa ở xa về; có đứa vừa từ Bắc–Hưng–Hải sang, da săn lại và người còn đầy mùi nắng, gió. Có đứa còn học và đang lao động kiến thiết thành phố. Chúng dẫn tụi tôi đến những nơi còn bộn bề đất cát, rác rưởi.

– Ở đây chúng tớ sẽ trồng hoa, trồng cây và đặt ghế đá. Các cậu tha hồ dẫn người yêu đến mà đi dạo. Chúng tớ làm ra nhưng chúng tớ chẳng cấm đâu, của thanh niên mà…

Những đứa ở xa về, tranh nhau kể những chuyện lạ. Nghe chúng nói, trong lòng tôi bừng lên sự thèm khát được đi xa, được đến mọi miền của đất nước để nhìn ngắm sự mới lạ, để làm việc góp phần vào sự đổi mới. Đất nước mình rộng lớn và đẹp đẽ biết bao nhiêu.

Trước hôm đi, tôi nói tất cả mọi chuyện giữa tôi và Thành cho mẹ và Bảo biết rồi bàn bạc cách đối xử của mẹ và em tôi đối với Thành từ nay về sau. Em tôi lại tiễn tôi ra ga và tôi đi chuyến tầu sớm trở về Liên-sơn.

Liên-sơn đón tôi trở lại trong những ngày xuân muộn. Những ngày tết và các cuộc vui đã đi qua. Trong làng, mọi người đang tấp nập đi tát nước chống hạn. Đồng trên, đồng dưới chỗ nào cũng có người, có tiếng nước ì oàm đổ vào ruộng.

Thanh niên đi đào mương chống hạn. Buổi chiều, tôi đi đào mương. Thấy tôi, Chiếm ngạc nhiên lắm :

– Tôi cứ tưởng vài hôm nữa chị mới về?

– Thế ra anh cho tôi là người không làm theo quyết định của nhà trường à?

– Tưởng chị hoàn cảnh đặc biệt !

Chiếm cười rồi cúi xuống xắn những mai đất to, nắm chắc hất lên. Chiếm khỏe quá, trời rét thế mà anh chỉ phong phanh có một chiếc áo cộc tay, những bắp thịt phơi ra cuồn cuộn ram ráp mồ hôi.

– Thế anh không phải hoàn cảnh đặc biệt à ?

– Không.

Chiếm cười, lắc đầu. Một món tóc bồng xoắn xuýt rơi xuống trán, lấp mắt. Chiếm ngừng tay, hất tóc lên và bảo tôi kể chuyện Hà-nội. Tôi kể qua loa vài chuyện và không nhắc đến Thành.

– Tụi tôi ăn tết ít hơn, có hai ngày thôi. Mùng ba tôi và ông Trí lên chùa. Ông sư trên chùa Đồi nom thế mà tốt đáo để, đồng ý cho sẻ quả đồi đá ong sau chùa, đá ấy già, tốt, lục lõi nhé !… Ông Trí vận động thật tuyệt. Ông ấy còn hứa cho mấy cây soan nữa.

– Ông Trí tết này không về quê à?

– Không. Quê ông ấy tận Thái-bình, ông bảo nghỉ hè ông mới về. Bà vợ và các con ông ấy cũng gửi thư, gửi bánh lên. Ông ấy nom thế mà lắm con lắm nhé, chín đứa cả thảy. Anh con cả đi bộ đội đóng ở Phú-thọ, hôm tết cũng có đến đây thăm bố, trông cứ như hai anh em…

– Chuyện của anh đến đâu rồi? Mấy hôm tết có gì thay đổi không?

– Chuyện gì nhỉ?

– Chuyện cô Lựu ấy!

– À, – Chiếm lại cười, nét mặt tươi lên. Anh ngửng nhìn về phía cuối mương, chỗ những cô gái đang tới tấp gánh đất đi lấp cái ao ở gần đè, hất đầu một cái. Tôi nhìn theo anh, và một lúc sau mới nhận ra được người con gái ấy ở đâu. Vuông khăn trùm gần kín mặt chỉ để hở có hai con mắt, cô ta chẳng buồn nhìn ai, cắm cúi gánh những sảo đất nặng đi về nhanh thoăn thoắt.

– Tiến bộ nhanh quá nhỉ? Anh làm thế nào thế?

– Nhờ chị góp ý đấy! Ra phụ nữ không quen nói nặng, tôi có biết đâu, hôm chị về tôi cứ nghĩ mãi… Tôi gặp cô ấy, cố nói thật nhẹ nhàng. Chiều ba mươi tết có một cuộc họp thanh niên để bàn về việc chống hạn đầu xuân. Tôi cho họp ở nhà tôi. Buổi trưa tôi sang nhà cô ấy chơi. Cô ấy đang bế em – đứa em út được gần một năm ấy. Thấy tôi, cô ấy định lảng. Tôi giữ lại hỏi chuyện, rồi đòi bế con bé. Cô ta không đưa, nhưng con bé, chẳng hiểu thế nào lại theo tôi mới chết chứ? Thế là tôi bế tuột nó về nhà và cứ ở lỳ trong nhà không đem trả nữa. Buổi họp sắp bắt đầu thì cô ta cho em sang đòi. Tôi bảo phải chị Lựu sang mới trả. Cô ta không chịu sang. Con bé khóc. Thế là cô ta phải chạy sang. Tôi đã dặn trước, mấy cô ngồi ngoài giữ Lựu lại. Thể là cô ấy phải ngồi họp suốt một buổi và hôm nay thì đi… Chắc cô ấy ghét tôi lắm, gặp tôi đâu là cô ấy lườm dài…

Chiếm cất tiếng cười sung sướng. Hai tay lại giơ lên cao và giáng xuống những nhát thuổng sâu, chắc nịch. Tình cảm của họ mới mộc mạc, chân thật, đáng yêu biết bao. Tôi chợt nghĩ đến Thành và rùng mình.

Đêm. Các em học sinh rủ nhau đến thăm tôi rất đông. Các em đem đến cho tôi những món quà tết nho nhỏ: bánh trưng tròn, bánh gio, bánh gai, kẹo chè lam, có em mang cho tôi một cành hoa đào. Tôi đem kẹo mua ở Hà-nội ra chia cho các em. Tất cả quây lại, như một buổi liên hoan nhỏ. Vui quá! Tôi lại hát cho các em nghe, và lòng dậy lên những tình cảm yêu thương tha thiết.

 

XI

 

Tháng hai. Sau những ngày tết tưng bừng được mấy hôm, mọi công việc được ổn định và đi vào nề nếp quen thuộc.

Ở lớp tôi bắt đầu là một buổi nói chuyện có nước chè và kẹo. Tất cả học sinh ngồi quây quần quanh tôi và em nào thích chuyện gì cứ kể cho bạn nghe. Đầu tiên các em rụt rè, ngại ngần lắm nhưng sau cứ bạo dần lên. Và, thế là mọi chuyện dí dỏm, thích thú trong lòng được kể ra hết. Tụi trẻ thỉnh thoảng lại cười phá lên và ngừng lại để vỗ tay ầm ĩ… Đến lượt tôi, tôi kể chuyện Hà-nội, chuyện các vườn hoa thành phố sắp hoàn thành trên những nơi mà trước kia chỉ để chứa rác, muỗi và chuột đói… Chúng trầm trồ nhìn nhau tắc lưỡi khâm phục. Tôi kể tiếp đến chuyện một gia đình rất anh dũng trong kháng chiến chống Pháp đến nay hoàn cảnh khó khăn vẫn công tác. Tôi kể tỉ mỉ và nhiều chỗ cố dựng lên những cảnh như là tôi được chứng kiến vậy. Tụi trẻ ngây người ra nghe như nghe chuyện cổ tích. Đến đoạn ngày ngày ông lão ươm những quả dừa thì chúng đưa mắt nhìn nhau, xì xào…

– Các em có biết chuyện nhà ai đấy không?

– Có ạ, chuyện nhà bạn Tiến, nhà ông cụ Môn.. Tiếng thằng Nam the thé đáp. Cả lớp xôn xao lên. Lúc này chúng mới thấy một điều quan trọng mà từ trước chúng không để ý. Hôm nay vắng thẳng Tiến.

– Các em ạ, em Tiến xin thôi không học nữa…

Tôi kể tóm tắt chuyện gia đình và ý định của Tiến rồi hỏi:

– Các em có đồng ý để Tiến thôi học không ?

– Không. Không ạ!

– Thế thì làm thế nào?

Đám con gái lặng đi, suy nghĩ. Bên con trai thì bàn tán rầm rầm. Tôi cho giải lao. Tụi trẻ túm năm tụm ba, ý kiến nọ phản đối ý kiến kia. Chúng bàn cãi hăng hái quá, lôi cuốn được cả những đứa xưa nay vốn hững hờ với mọi việc của lớp. Bàn bạc hồi lâu, chúng bắt đầu phân công nhau: đứa ở gần thì buổi tối đến nhà cùng xay bột với Tiến, xong rồi cùng Tiến học bài. Như thế Tiến vừa xay được bột vừa học được bài. Những em ở gần bãi Thống, buổi sáng ra bãi quét lá giúp Tiến để Tiến khỏi phải dậy sớm quá thì đi học không buồn ngủ. Những em nhà gần đồi thỉnh thoảng cùng nhau đi kiếm củi; những em đường xa lúc đi, về chú ý nhặt củi rồi góp lại giúp Tiến.

Bàn bạc, thỏa thuận xong đâu đó, tụi trẻ liên hoan, hát hò rầm rĩ lên rồi ra về. Các em có vẻ sung sướng lắm khi thấy giải quyết được một việc khó khăn như thế mà lại có đóng góp của mình. Các em hứa hẹn thi đua với nhau.

Tôi cũng vui lắm. Cái việc tôi canh cánh bên lòng thế là đã giải quyết xong. Điều ấy làm tôi thấy rõ muốn làm tốt mọi việc thì phải có sự tham gia tự giác của cả lớp. Nếu như tôi cứ làm một mình hoặc ra lệnh thì chẳng thể nào đạt được kết quả tốt như thế đâu.

Hôm sau, Tiến lại đi học.

Học chưa được một tuần thì trong lớp xảy ra một chuyện phiền phức. Nguyên do là hồi năm ngoái có mấy đồng chí bộ đội ở huyện về xây dựng hợp tác xã ở Liên-sơn có đến thăm trường mấy lần. Hôm tết, các đồng chí ấy lại về làng ăn tết. Ông Trí đã gặp họ và không hiểu ông chuyện trò khéo léo thế nào mà các đồng chỉ ấy thay mặt đơn vị nhận đỡ đầu nhà trường. Việc đầu tiên các đồng chí là cho trường một số sách. Số sách ấy được chia đều về các lớp để làm thư viện riêng. Lớp tôi được hai mươi sáu quyển. Vì lớp bé nên được toàn những quyển truyện mỏng và họa báo. Trong số ấy có một quyển chúng rất thích là quyển “Tìm mẹ”. Chúng tranh nhau mượn và đọc đi đọc lại đến nát nhàu cả bìa. Nhưng chưa được một tuần thì quyển sách bỗng biến mất. Sổ sách hai mươi sáu quyển ấy tôi để trong một cái tủ cùng một số sách khác, khóa lại. Chìa khóa tôi giữ. Sáng hôm trước có em đem trả tôi bỏ vào tủ, sáng hôm sau lấy ra cho em khác mượn thì nó không còn nữa.

Lúc tôi nói cho cả lớp biết là quyển sách ấy đã không cánh mà bay rồi thì tụi trẻ xao xác lên và liền theo đó có những đứa quay lại nhìn thằng Nam. Thằng Nam hơi tái mặt đi nhưng thoảng một cái nó lại dửng dưng như thường. Nó cau mặt, bĩu môi. Thằng Nam lấy chăng? Không có lẽ. Từ ngày đi học đến nay nó đã thay đổi nhiều lắm. Tôi không tin. Nhiều đứa cũng không tin. Thế thì ai lấy? Trong lớp một không khí nghi ngờ, theo dõi lẫn nhau, một vài đám cãi lộn, xích mích, một vài đám giận nhau xảy ra. Không gì khổ hơn là nghi kỵ lẫn nhau. Câu chuyện mất sách thì lan ra cả mấy lớp bên cạnh. Cụ giáo Thuận gặp tôi nói:

– Tôi đã bảo trước mà, cô giáo cả tin lắm !

Và, cụ nói cho tôi biết rằng cụ đã để ý thấy thằng Nam dạo này xem ra khác ý lắm. Nghe cụ nói, trong óc tôi thoáng một sự nghi ngờ. Một quyển sách không

đáng là bao nhưng lại là một hiện tượng không tốt cần phải giáo dục. Tôi gặp thằng Nam và khéo léo gợi ý về cuốn sách.

– Thưa cô, em không lấy !

Nó trả lời cương quyết, mặt đanh lại rồi đứng dậy vùng vằng ra về. Lời nói, cử chỉ của nó xóa hết mọi nghi ngờ trong tôi. Nhưng trong lớp thì sự nghi ngờ vẫn còn. Tôi cho họp lớp, cấm tất cả các em không ai được nghi ngờ cho nhau nữa. Em nào làm gì mất đoàn kết, ảnh hưởng học tập sẽ bị kỷ luật. Sợ kỷ luật, mọi đứa làm ra vẻ đã quên. Chúng không nhắc đến quyển sách và cũng chẳng buồn xét đoán gì nữa. Chúng lao vào học và chẳng bao lâu chúng đã quên thực sự.

Thư của Bảo và của mẹ tôi gửi đến. Mẹ thương con gái lắm và trong ý nghĩ, tình cảm nhân hậu của mình mẹ vẫn không tin hẳn là Thành lại có thể tồi tệ đến như thế. Mẹ khuyên tôi nên tìm hiểu kỹ thêm mọi chuyện để sau này đừng hối hận. Thư của Bảo thì lại khác. Em cho tôi biết em đã “điều tra” kỹ chị Dung nào đó, và chị ấy đã cho em biết rằng Thành đã thổ lộ tình yêu với chị trong dịp Tết… Bảo khuyên tôi dù thế nào cũng phải đấu tranh và có thái độ dứt khoát với Thành.

Thương mẹ, yêu em tôi viết thư cho cả hai người. Thư viết chưa gửi thì Thành đến. Hôm ấy tôi đi vắng. Tôi và Chiếm cùng mấy em học sinh lên chùa Đồi chặt cây, dọn cỏ, chuẩn bị đào đá ong và đẵn mấy cây soan đem đến cho các ống thợ mộc bên Từ – đường xẻ làm cửa sổ. Buổi trưa về, con bé Hoa bảo Thành có đến và đã về ngay rồi. Con bé kể lại Thành đến như thế nào và bảo nó ra sao.

– Cô Huệ đi đâu?

– Cô giáo đi lên chùa Đồi ạ!

– Đi với ai?

– Đi với thầy giáo Chiếm ạ!

– Đi làm gì?

– Cháu không biết!

Con bé bắt chước điệu bộ Thành hai tay đút túi quần, mồm hút thuốc lá, đầu cúi nhìn xuống đất, đi đi, lại lại… rồi, vào bàn viết một tờ giấy đưa cho nó, dặn :

– Giữ cẩn thận về đưa cô giáo đừng đánh mất, nghe không?

Tôi mở tờ giấy, đọc. Tờ giấy nguệch ngoạc có vài chữ đầy giọng ghen tuông, bực bội của một người đang yêu mà bị lừa dối và cuối cùng là ý định cắt đứt quan hệ vì rằng thà không có người yêu còn hơn có tình yêu như thế.

– À ra thế, thế đấy!

Tôi cố gắng lắm mới đọc hết tờ giấy. Tôi đã hiểu. Không phải là hiểu những dòng chữ ấy mà hiểu những gì đang diễn ra sau những dòng chữ ấy – những gì đang diễn ra trong đầu óc đen tối của Thành.

*

*   *

– Mùa hè đến. Mùa gặt sắp đến. Trong làng mọi người rộn rã chuẩn bị gặt hái. Các cửa hàng hợp tác xã đem về nhiều muối, mắm, cuốc, xẻng, liềm hái. Trong các tổ sản xuất, người thì đi sửa đường, đóng thêm xe, làm thêm quang cặp, néo… Các lớp học bổ túc vắng hẳn.

– Huệ ạ, thế này thì gay lắm!

My lo các lớp học nghỉ không học hết chương trình. Buổi trưa cô đến nhà tôi đem theo những quyển sách bổ túc rồi hí húi ngồi kê ra những bài chưa học. Hai chúng tôi chụm đầu vào nhau soạn, viết.

Đêm xuống. My đi từng nhà học viên, nói:

– Các bà, các chị… gặt hái đến nơi rồi phải cố gắng đi học chứ? Nghỉ mãi thế này thì rồi dở dang ra…

– Cô xem công việc còn bề bề ra thế này, gặt hái đến nơi rồi đi thế nào được!..

– Đâu, bận gì đưa em làm cho nào?

Và thế là, xắn tay áo lên, My cùng họ làm việc như ở nhà mình, hết việc này đến việc kia, thoăn thoắt.

– Thôi, cô cứ để đấy tôi, rồi tôi đi học…

My lại đến nhà học viên khác.

Và khi tôi đến dạy thì lớp học lại đông đủ. Mỗi người một ngọn đèn con. Lớp học như một khoảng trời đêm sáng lên với những vì sao.

– Huệ biết không, mùa gặt năm ngoái cũng thế, cứ sắp đến vụ gặt là y như rằng lớp vắng teo người thì bận thật, người thì vin vào bận mà không đi. Gặt đến, thế là bỏ hết. Anh Chiếm về nghỉ hè ở làng, anh ấy đi dạy bổ túc, Huệ biết anh ấy làm thế nào không? Anh ấy… dạy ở ngoài cánh đồng Huệ ạ, chỗ cái miếu ba cây ấy. Một cái bảng dựng lên. Bà con đi gặt gánh lúa về đến đấy, là ngồi nghỉ mà, thế là anh ấy hỏi toán, vui lắm kia… suốt vụ gặt được khối bài ra đấy. Mình định vụ gặt này mình cũng làm như thế!

Nhìn đôi mắt long lanh, nét mặt rạng rỡ sáng hồng của My, tôi chợt nhớ đến Lựu. Ít lâu nay bận quả tôi cũng chưa đến nhà Lựu được.

– Này, sao My không giúp Lựu đi học?

– Sao lại không? Mình đến luôn thôi! Huệ cũng hay đến nhà cô ấy phải không? Cô ấy có chuyển rồi đấy. Anh Chiếm anh ấy tốt quá, Huệ nhỉ. Hôm kia mình đến nhà Lựu, thấy mấy quyển vở để ở trong buồng. Mình hỏi, Lựu bảo anh Chiếm vừa mua cho, nhưng còn bận chưa đi học được. Có người yêu thế cũng sướng Huệ nhỉ? Thế My đã…

– Chưa đâu. Huệ xem, mình còn bao nhiêu việc, chưa chi đã lấy chồng thì…

– My lúc lắc cái đuôi tóc và cười tít mắt :

– Năm năm nữa!

– Cô nào cũng chỉ nói mồm !

– Rồi xem !—My nói, nét mặt trở nên nghiêm trang— Mình không nói đùa Huệ đâu… Không biết Huệ nghĩ thế nào, chứ mình, mình cho tình yêu là một chuyện quan trọng lắm. Tình yêu phải làm cho người ta tốt đẹp hơn lên, mạnh mẽ, tin tưởng, hăng hái hơn lên để phấn đấu cho lý tưởng… Nếu không thế thì thôi… ở vậy còn hơn! …

My nói và đôi mắt cứ nhìn tôi chằm chằm. Tôi chợt thấy ngượng ngùng và có cảm giác như đôi mắt ấy đã nhìn thấy suốt cả những gì sâu kín trong tâm hồn tôi.

Đêm. Ở lớp học về tôi và My nắm tay nhau đi. Đi đêm bây giờ tôi đã quen không còn vấp nữa. Và không hiểu sao khi nắm cái bàn tay nho nhỏ ấy tôi lại thấy lòng ấm áp vui và tin cậy đến thế.

Chị Hà cũng đi học. Chị học buổi trưa vì tối thường mắc họp. Đêm đi dạy học về tôi thường thấy khi thì một bát chè khoai, khi thì một miếng dưa đỏ, một quả chuối để ở bàn…

Giữa lúc bận như thế thì tôi bị ốm. Một buổi tối đi dạy bổ túc về tôi chợt thấy người nóng bừng, đầu óc nhức nhối. Chị Hà vội vã chạy ra trạm xá. My đeo túi thuốc đến tiêm, và cho tôi uống thuốc. Bà cụ thì bưng đèn ra ngoài bờ rào hái lá tre, lá duối, hương nhu đem vào đun một nồi nước đầy thơm nức bắt tôi “xông”. Con bé Hoa thỉnh thoảng lại chạy vào đặt tay lên trán tôi một cái rồi chạy ra thì thào gì với mẹ.

Tôi thì lúc thức lúc ngủ. Hình ảnh Thành thỉnh thoảng lại trở về. Tôi trở lại với những ngày đầu hòa bình, mẹ tôi có việc làm, tôi lại được đi học. Cuộc đời trước mắt tôi rực rỡ như được phủ bằng một lớp men hồng. Sung sướng, tốt đẹp, đáng yêu và dễ tin làm sao, tất cả mọi người! Và, người thầy giáo ấy sao mà đáng quý đáng mến đến thế. Những buổi nói chuyện mới hấp dẫn làm sao! Mối tình đầu của một cô gái là như thế: trong trắng, vẹn tròn và thiêng liêng… Nhưng rồi, cuộc đời đã cho cô thấy ra sự thật. Và chính cái con người cô đã yêu thương kia, bằng việc làm, anh ta đã cho cô biết anh ta là ai…

Nhưng có lúc tôi đã không tin vào những chuyện ấy. “Mình mà lại yêu một người như thế ư?”. Khi hiểu ra rằng chính là mình đấy thì tôi thấy lòng đau nhói vừa hối hận vừa căm tức và tiếc cho những cuộc tranh cãi, những mong muốn tốt đẹp đã qua.

– Cô giáo ơi, dậy mà ăn bát cháo rồi ngủ đi, đừng nghĩ ngợi gì nữa cho nó khỏi!

Bà cụ mẹ chị Hà bưng cho tôi một bát cháo nóng thơm phức mùi hành, mùi tía tô bắt tôi ăn rồi quanh quẩn bên tôi, kéo chăn cho tôi rồi thủ thỉ khuyên nhủ.

Tôi ngủ ngon lành như ngày bé nằm trên cánh tay của mẹ… Một bàn tay mát lạnh đặt trên trán tôi. Mùi cam chín thơm mát. Tôi mở mắt ra và thấy, cúi thấp xuống, một khuôn mặt quen thuộc, ngăm đen, đôi mắt dài, nheo lại như đang âu yếm cười với tối và mấy quả cam đỏ.

– Chị Bái đấy à?

– Ừ, Bái đây. Huệ có mệt lắm không?

Giọng chị nhỏ nhẹ, trìu mến như nói với một đứa trẻ. Chị ngồi xuống cạnh tôi, lấy dao bổ cam cho tôi ăn.

– Đừng buồn Huệ ạ, việc vợ chồng là việc hệ trọng ảnh hưởng đến suốt cả đời…

– Chị nói gì thế?

– Mình nói chuyện giữa Huệ và Thành ấy. Hà có nói cho mình biết. Mình định nói chuyện với Huệ từ lâu, mình rất quý Huệ… Phải có nghị lực, cái quý nhất của con người ta là lý tưởng…

Ngồi sát lại gần tôi, bàn tay thân thiết ôm vòng lấy ngang người tôi, giọng chị mỗi lúc một nhỏ, một trầm. Chắc chị tưởng tôi đang đau khổ và còn vướng víu về Thành, và chị cũng chưa hiểu hết mọi chuyện. Tôi để yên, lòng ấm áp, cởi mở, tưởng như chị đang nói giùm tôi những lời sâu kín tận đáy lòng ..

Cùng với chị Bái, nhiều người khác đến thăm tôi. Họ đến cả trưa, chiều, sáng, tối. Mấy ông giáo và ông Trí cũng đến. Ông Trí đứng im nhìn tối một lúc, dặn dò dăm ba câu rồi đi ra ngoài nhà kéo theo cả những người kia không cho họ kịp nói gì. Ông bảo không được bắt người ốm phải nói nhiều, nghe nhiều. Ông tuyên bố cho tôi nghỉ dạy đến khi nào khỏi hẳn, phân công người dạy thay và thỉnh thoảng lại ghé qua thăm hỏi.

Cụ Thuận mang đến cho tôi một củ gừng to tướng và một cốc rượu trắng. Cụ giã gừng, hòa rượu bắt tôi uống rồi lấy tóc rối, bỏ bã rượu vào cuộn chặt trong một cái khăn, bắt tối đánh khắp người. Cụ bảo tôi bị gió độc. Làm như thế là đuổi cái gió ra, khắc khỏi ngay.

Chiếm cũng đến. Anh mang cho tôi mấy quả trứng gà. Không biết có điều gì vui mà nét mặt anh tươi roi rói. Anh để mấy quả trứng lên bàn rồi bảo tôi:

– Hôm qua, tôi sang nhà cô Lựu, cô ấy bảo tôi đem trứng đến để chị ăn cháo và nhờ tối nói hộ với chị rằng bao giờ chị khỏi đi dạy thì cô ấy đi học bổ túc!

– Thật à?

Tôi kêu lên, ngồi bật dậy sung sướng và ngạc nhiên hết sức. Chiếm cười. Đôi mắt anh long lanh đầy vẻ biết ơn, tin cậy và trìu mến. Một lúc sau bỗng anh nói:

– Chị Huệ à, tôi lên huyện bảo anh ấy đến nhé!

– Không. Cám ơn anh!

– Sao lại không? Lúc chị khỏe đã đành…

– Không. Tôi không…

Khó nói quá, tôi quay đi. Hình như Chiếm đã hiểu. Anh đứng im một lúc rồi đi ra.

Học sinh đến thăm tôi rất đông. Chung quanh tôi, đứa lớn, đứa nhỏ quây quần. Chúng đến từ lúc nào không biết và trên bàn thì đủ thứ: đu đủ, chanh, chuối, cam, trứng gà và cả hoa nữa. Những bông hoa cỏ, cái tím, cái trắng, cái vàng lấm tấm cắm trong một cái cốc. Dưới bếp có mấy mái tóc lấp ló, tiếng nói chuyện rì rầm và khói nghi ngút.

– Các em đến đây lâu chưa?

– Chúng em vừa đến. Bạn Nam đến trước nhất!

– Đâu? Nam đâu?

– Bạn ấy ở dưới bếp, bạn ấy đang nấu cháo cho cô.

Mẹ bạn ấy bảo đem biếu cô mấy quả trứng. Bạn ấy bảo cứ nấu cháo lên, cho nhiều hành rồi đập trứng vào ăn ngay, mồ hôi toát ra là khỏi. Bạn ấy bảo bạn ấy ốm, mẹ bạn ấy cho bạn ấy ăn thế là bạn ấy khỏi ngay.

Tíu tít, vây quanh tôi, đứa kể chuyện này, đứa kề chuyện kia. Thằng Tiến đem đến cho tôi một con mèo nhỏ khâu bằng sa-tanh đen trong ruột nhồi vải vụn. Nó khoe tôi là nó đã biết khâu những con như thế bằng vải vụn mẹ mua ở chợ về để mẹ lại đem đi chợ bán, lấy tiền giúp thêm gia đình. Những đứa khác thì đem những chuyện ở lớp trong mấy hôm tôi vắng ra mách, tưởng như tôi đã xa chúng từ lâu lắm.

– Thế mấy hôm nay các em có đi học không?

– Không. Hai hôm nay các thầy giáo bận họp. Chúng em ở nhà ôn bài.

Một em gái nhỏ ngồi ở chân giường cắm cúi thêu một con chim đang bay trên một cái khăn nhỏ, từ lúc đến chỉ ngồi im, chợt ngửng lên hỏi tôi:

– Thưa cô, bao giờ chúng em đi học ạ?

– Mai!

– A, mai, mai đi học rồi các bạn ơi!

Đám trẻ reo lên nhìn nhau mắt long lanh vui sướng. Tôi cười, bóp trán. Người tôi hãy còn sốt, đầu nhức. Nhưng tôi sẽ cố. Tôi không thể để các em vì tôi mà nghỉ học nhiều quá. Vả lại, tôi còn có biết bao nhiêu điều phải nói với các em nữa. Sao từ sau “hôm ấy” tôi luôn luôn nghĩ đến các em với một tình thương yêu và hy vọng kỳ lạ. Đôi khi lại cả những lo sợ nữa: liệu trong những em nhỏ ngây thơ, trong trắng kia rồi sẽ có em nào trở thành hư hỏng, xấu xa không?… Không, không bao giờ để như thế được. Các em phải trở thành những con người tốt đẹp…

Sáng hôm sau, tôi ra lớp. Mới có mấy ngày mà mọi vật như đã khác hẳn. Các em, đứa nào như cũng lớn hơn, ngoan hơn. Lớp học sạch sẽ hơn, bàn ghế kê ngay ngắn hơn và trên bàn thêm một cốc nước chè nóng. Không khí có cái gì thiêng liêng, trang trọng…

Sau hôm đó tôi lại lao vào cuộc sống với những hoạt động sôi nổi ở trường và ở trong làng. Lại những buổi đi thăm đồng. Bây giờ tự tôi, tôi đã biết được ruộng nào lúa tốt, ruộng nào lúa xấu, nước thiếu hay đủ và đến bao giờ thì có thể gặt được. Tôi theo tổ đi trồng sắn trên đồi, trồng mầu ngoài bãi và lao động xây trường…

Cuộc sống như một dòng sông lớn đã cuốn tôi vào trong những hoạt động sôi nổi.

 

XII

 

 Thời gian trôi qua.

Mùa xuân khó khăn vì chuyển giao giữa hai học kỳ và các công việc để ổn định nề nếp của nhà trường sau mấy ngày tết, thì mùa hạ lo lắng thi cử, lên lớp, ở lại lớp, nghỉ hè lại đến. Việc học tập nhiều hơn, rộn rã hơn.

Trong cái trường nhỏ bé này mà cũng bộn lên bao nhiêu công việc. Ông Trí là người lo lắng, bận bịu nhất. Việc trường sở chưa ra đâu vào đâu, tiền bảo trợ chưa thu hết, còn cái báo cáo tổng kết những bao nhiêu mục mà ông thì chưa nắm được. Ông viết một bản nháp tổng kết dài dằng dặc rồi chạy hết chỗ này đến chỗ nọ đốc thúc từng người một.

– Các đồng chí ơi, khẩn trương lên chứ?

Mọi người như bị cuốn vào trong cơn lốc. Những hôm ấy Chiếm cũng bận lắm, ngoài công việc nhà trường, anh còn công tác ở xã. Anh lật đật đi suốt ngày. Nhưng khác hẳn trước, quần áo anh đẹp hơn, tóc không bồng rối nữa mà nằm ép xuống, mượt mà vì những làn nước pha dầu thơm nức. Tôi chế anh.

– Chị nhầm rồi, không phải tại cô ấy đâu, chẳng qua là tôi đã giác ngộ, cứ đề tóc như thế mãi không có lợi…

– Thật thế. lúc đầu người ta dễ ác cảm vì hình thức bên ngoài.

Tôi nói cho Chiếm nghe những nhận xét của ông Trí hồi tôi mới về. Chiếm phá lên cười.

– Hôm nọ, ông ấy cũng đã nói cho tôi biết tất cả, rồi cứ quanh quần xin lỗi mãi. Tôi phải kêu lên. “Đủ rồi, bố ơi, đừng làm cái lối tự phê bình như thế nữa. Bố nói tôi thế còn là hạng nhẹ đấy, có người còn nói tôi hàng trăm thế kia, tôi có cần đâu…”.

– Thì sửa đi có được không?

– Không, tôi không thích, mà có gì đâu cơ chứ, cứ cái đũa hơ nóng lên, khốn nỗi cái tóc tôi nó lại cha sinh mẹ đẻ ra như thế… Tôi cứ ngoan cố cãi mãi nhưng rồi thì cũng hiểu ra, tôi ra hiệu cắt tóc bảo cắt sạch… Chị xem, thế tôi có tiến bộ không?

Chiếm vuốt lại mái tóc ngắn, nhìn tôi, đôi mắt ngây thơ như một đứa trẻ.

Cụ Thuận rất vui lòng vì những công việc của mình trong mấy tháng qua. Tỉ mỉ và cẩn thận, cụ soát lại tất cả các giáo cụ trực quan, vở soạn bài, vở ghi chép các buổi họp… Khi đã thấy rõ không còn thiếu cái gì nữa thì cụ mới yên tâm.

– Phải thế mới nói có sách, mách có chứng, cô giáo ạ!

Cụ nói như thế rồi phê bình tôi không chịu giữ gìn các sổ tay ghi chép các buổi họp, ngộ nhỡ cần xem lại cái gì hay có ai hỏi đến thì nói thế nào?

Ở lớp tôi, mọi công việc vẫn tiến hành đều đặn. Trong cái tập thể nhỏ bé ấy có cái gì ngày một gần lại với nhau. Lớp tôi thì chỉ có hai em phải ở lại lớp — đó là hai em gái nhỏ nhút nhát và hay nghỉ học. Cả lớp hình như cũng đoán biết chuyện ấy nên nhiều đứa cứ quấn quýt quanh chúng chỉ điều kia, bảo điều nọ. Hôm nào hai đứa nghỉ học thì chúng lại thay nhau đem sách về chép bài hộ. Còn hai cô bé thì cứ thỉnh thoảng lại thút thít khóc. Chúng không muốn phải xa bạn bè.

Nam học đã khá hơn. Tôi đã tìm ra nguyên nhân làm nó dốt toán. Hôm ấy cũng trong giờ dạy thêm, tôi ra một đề toán về những chiến thắng của quân đội trong kháng chiến. Bài toán có những từ “bắt sống, vũ khí, tiêu diệt”. Bài toán khó nhưng thẳng Nam lại làm đúng. Ngạc nhiên quả, tôi ra thêm một bài nữa cũng loại ấy nhưng về việc săn bắn, nó cũng làm được. Hôm sau, tôi cho một đề toán khác về lao động thì nó tắc. Tôi gọi riêng nó đến nhà bắt nó làm một loạt toán khác nữa thì tôi hiểu ra rằng “ông tướng” chỉ làm được những bài toán trong đó có những việc “hấp dẫn” “ly kỳ” vì những việc ấy làm “ông” phải tập trung hết tinh thần vào bài toán như phải để hết tâm trí đi tìm nhặt đầu đạn, cát-tút, đi đếm Tây ra hàng hồi kháng chiến vậy. Còn những bài bình thường thì mắt đọc, tay viết nhưng đầu óc thì để ở chỗ khác, vì thế nên bài dễ mấy cũng không làm được!

Hiểu ra điều đó tôi mừng lắm. Tôi ra cho nó nhiều bài toán tập cho nó đem về nhà làm. Những bài có sự việc ly kỳ xen lẫn bài bình thường, giản đơn và dặn nó phải chú ý những bài giản đơn ấy vì nó khó và quan trọng. Quả nhiên thế là nó làm được tất cả. Lại còn một điều nữa cần phải nói đến là mỗi khi nó bí thì một là tôi phải thôi ngay, hai là tôi phải sẽ sàng gợi mở từng li một. Nếu không, nói to tiếng hoặc cáu gắt thì nó lại rối trí không hiểu gì cả. Điều ấy do Chiếm bảo tôi. Anh kể cho tôi nghe ở lớp anh năm ngoái cũng có một em học sinh, con một người mắc bệnh thần kinh. Thỉnh thoảng ông ta lại phát điên, đánh con rất tàn nhẫn. Thằng bé đâm sợ quá, đến nỗi cứ nghe ai hét to một tiếng là cũng rối loạn tinh thần không còn biết gì cả nữa. Nó học rất kém. Suốt một năm ròng, Chiếm phải nghiên cứu rất tỉ mỉ, công phu mới tìm ra được những phương pháp để dạy dỗ nó. Và dần dần từ thấp lên cao, anh đã luyện cho nó thành một đứa trẻ bình thường quen với tất cả mọi điều dịu dàng, êm ả cũng như những lời quát hét, phũ phàng. Tôi học cách dạy học của Chiếm để dạy lại Nam. Tôi khuyến khích, khen ngợi nó nhiều lần ở lớp. Tôi chọn đứa học giỏi cho kết bạn với nó để dìu dắt nó, rồi lại chọn đứa học kém cho kết bạn đề bắt nó phải phát huy hết khả năng của mình để giúp đỡ lại bạn.

Dần dần, thằng Nam trở thành một trong những đứa khá toán. Nó tỏ ra có trí nhớ và thông minh đặc biệt. Thấy mình ngày một giỏi giang, ngày một được thầy bạn quý mến, nó sung sướng đến nỗi, nhiều khi vô cớ, đang cười đùa với bạn, nó cũng cất tiếng the thé hát.

Chuẩn bị cho bế giảng, mọi lớp bận lắm. Lớp tôi lớp nhỏ nhưng cũng khối việc: lo sửa sang lại bàn ghế, trường sở để giao lại cho ban phụ trách bảo quản nhà trường trong mùa hè, rào lại vườn trường để trâu bò khỏi phá, giao tủ sách lại cho học sinh giữ.

Việc giao tủ sách lại cho học sinh giữ tôi nghĩ mãi không biết nên giao cho ai. Giao cho các trưởng lớp thì dễ quá rồi, nhưng tôi muốn cho việc làm ấy có ý nghĩa. Tôi bàn với cả lớp là nên giao cho thẳng Nam giữ. Cả lớp tán thành – điều ấy chứng tỏ thằng Nam được cả lớp tín nhiệm lắm. Nhưng thằng Nam nghe tin ấy thì lại có vẻ nghĩ ngợi, buồn phiền. Tôi phải động viên nó và cho dọn ngay tủ sách không lại sợ nó từ chối.

Việc dọn tủ sách làm vào một sáng lao động. Tôi đang hướng dẫn các em cách đập vừng và bới lạc ở đồng Chùa thì thấy Lan – một em trong tổ trực nhật chạy đến:

– Thưa cô ạ.

– Cái gì thế em?

– Thưa cô, tìm thấy quyển “Tìm mẹ” rồi ạ !

– Thế à? Tìm thấy ở đâu thế?

– Thưa cô, tìm thấy ở dưới miếng gỗ lót gần khe tủ, ai đánh rơi vào đấy ấy ạ!

Vừa nói, con bé vừa đưa cho tôi quyển sách phẳng lỳ, đầy bụi. Cầm quyển sách tôi bỗng nhớ lại, có lẽ chính tôi hôm đó đã đánh rơi quyển sách xuống miếng gỗ, thế mà tôi lại nghi ngờ cho Nam. Trong tình yêu mến nó ngày một nhiều nhưng thỉnh thoảng trong tôi vẫn gợn lên một ý nghĩ gì xa lạ. Việc giao cho Nam giữ tủ sách không chỉ vì tin cậy và muốn nó phải cần thận mà còn vì muốn thử thách.

Bây giờ thì sự thật đã rõ ràng hoàn toàn. Chắc thằng Nam sung sướng lắm. Nó mà biết được tôi đã nghi cho nó thì nó sẽ khinh ghét tôi lắm. Nhưng chắc nó chẳng thể nào biết được. Còn tôi, tôi sẽ chuộc lại cái lỗi đó bằng lòng tin yêu nó ngày một nhiều mà thôi.

Trong lớp, chắc cũng có đứa đã nghĩ như tôi. Tôi thấy có đứa đến xin lỗi, có đứa cố thanh minh là mình không bao giờ nghi ngờ cho thằng Nam cả. Thằng Nam vốn không thích nghe nói nhiều như thế, nên nghe một cách lơ đãng, chán nản.

– Thôi, mặc kệ các cậu, muốn thế nào thì thế, tớ không nghe đâu đừng nói nữa!

Nó kêu lên rồi bỏ đi, nét mặt buồn phiền.

Tối hôm sau nó đến nhà tôi, nét mặt lầm lỳ nhưng bước đi thì nhanh thoăn thoắt.

– Cô ạ!

– Gì thế em?

– Cái quyển “Tìm mẹ”…

– Cô biết rồi, em khổ lắm phải không? Thôi, mặc cho các bạn thanh minh, thế càng rõ mình ngay thẳng.

Tôi lúng túng nói và tưởng như thằng Nam đã đọc được những ý nghĩ trong đầu óc tôi.

– Không phải thế.

Nam ngần ngừ, đến gần tôi, hai bàn tay nắm lại. Em đến để nói với cô, chuyện cái quyền sách ấy, là… em lấy!

– Gì hả?

Tôi kêu lên, đứng bật dậy sửng sốt nhìn vào mặt nó. Không tin. Có lẽ vì tức giận bạn bè mà nó nói như thế chăng ?

– Em nói gì thế hả Nam?

Tôi hỏi lại một lần nữa, đầu óc hoang mang quá. Nghe tôi hỏi, Nam cau mặt lại, cắn môi như tức giận một điều gì rồi nó ngửng lên nhìn thẳng vào tôi:

– Em lấy thật đấy, lấy rồi em lại bỏ giả… Không ai biết. Em mở khóa bằng cái đinh.

Cô và các bạn lại cứ tin em, em hối lỗi lắm, em phải nói ra. Cô tha lỗi cho em…

Nó run run nói rồi ngồi thụp xuống.

 

*

*   *

Buổi liên hoan tổng kết niên học tổ chức vào một buổi tối cuối tháng năm trên bãi cỏ sân đình. Một chiếc sân khấu nhỏ dựng trước cửa đình. Hai chiếc đèn đất lớn treo hai đầu. Sân đình sáng trắng lên. Phụ huynh, học sinh ngồi trên bãi cỏ. Bàn nói chuyện đặt ở trên thềm cao, có khăn giải bàn rủ che kín chân và trên bàn có một lọ hoa to tướng. Đêm nay, sau phần báo cáo tổng kết đến khen thưởng, tuyên bố khởi công xây dựng rồi liên hoan văn nghệ.

Mấy đêm nay, ông Trí phải thức liền để đúc báo cáo, viết thế nào mà dài trên hai mươi trang giấy khổ lớn. Mắt trũng sâu vì mất ngủ, nét mặt mệt mỏi nhưng phấn khởi trước những thành tích của một năm qua, ông cười nói luôn miệng và giờ đây, ông đứng trên thềm cao, trước bàn, bên lọ hoa, một tay nâng tờ giấy, một tay ghếch kính lên. Ông đưa mắt nhìn khắp sân đình, giọng sang sảng.

Đầu tiên ông tổng kết việc giáo dục tư tưởng, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Ông nói đến những học sinh hư hỏng do chế độ cũ để lại được nhà trường giáo dục thành những con người tốt qua nhiều thử thách. Thằng Nam được ông nhắc đến nhiều lần. Ông kể chuyện những em học sinh nghèo nhưng bắt được tiền, của rơi đã đem trả người mất. Có những em lao động quên mình… Tinh thần giúp đỡ, tương trợ nhau để học tập thật là cao (ông dẫn chứng chuyện Tiến). Ông nói đến kết quả của tổ nữ công và tổ rèn (ở dưới có tiếng xì xào). Cuối cùng, ông nói về nhà trường đã tham gia công tác xã hội như thế nào: bổ túc, đào giếng, xây dựng giúp đỡ hợp tác xã… đạt được những kết quả gì và giáo viên, học sinh được nhân dân yêu mến ra sao.

Ông nói lưu loát, khúc triết. Giọng ông sang sảng, vừa có lý luận vừa có những thí dụ cụ thể, lại điểm thêm vài câu pha trò khiến mọi người phải im lặng nghe và thỉnh thoảng lại vỗ tay và phá lên cười.

Ông cụ Thuận tối nay tất bật lắm. Đầu tiên, ông lo đứng ở cửa đình để đón đại biểu đến họp, sau đó lại lo điếu đóm, diêm, thuốc và giữ trật tự. Học sinh nhỏ và trẻ con đến xem ồn ào quá, ai bảo cũng chẳng được nhưng khi ông cụ đến “ẹ hèm” lên một tiếng là đâu lại vào đấy tất. Việc ấy làm ông mệt đứt hơi nhưng mặt mũi lại cứ sáng lên rời rợi.

Sau đình, trên bãi cỏ, ban văn nghệ đang túi bụi chuẩn bị. Chiếm lo cho đội múa rối ra mắt và duyệt lại vở kịch ngắn lớp ba. Anh đến đây từ chiều mang theo một đống quần áo hóa trang và những gói bột vàng, đỏ lòe loẹt.

Tôi thì duyệt lại các bài hát đồng ca. Các em đứng trước mặt tôi, người hơi nghiêng, vai sát vai, một tay giấu ra phía sau, một tay nắm lấy tay người bên cạnh. Tiếng hát đều đều cất lên.

Trên bãi cỏ… (là cỏ)… cỏ non,

Gió, gió chiều… (là chiều)… lộng mát

Trên lưng bò em hát những lời ca…

Tiếng hát mỗi lúc một rộn ràng, một tha thiết, một bay bổng. Tiếng hát như níu những ngọn tre bai bên đường xuống cất tiếng rì rào hát theo.

Duyệt đội ca xong, tôi sang giúp đội kịch hóa trang. Tôi cầm ca ra hồ lấy nước để pha son. Đang cúi xuống múc nước, tôi chợt thấy một người nào đi đến, dừng lại bên cạnh và gọi tên tôi. Tôi ngửng lên, giật mình. À, ra anh ta còn đến đây ư, anh ta đến để làm gì thế? Trong đầu óc anh ta lại có những âm mưu gì mới thế?

Tôi nhìn Thành. Tất cả những chuyện cũ cùng một lúc trở lại. Cổ tôi nghẹn lại. Tôi không nói được gì nữa, bỏ đi vào. Thành chạy ra chắn ngang lối đi.

– Huệ, anh đợi em lâu quá, mấy hôm rồi anh đến mà không gặp… Anh chờ từ tối, em đã ra… Em bỏ đi đâu thế? Trời ơi!

Thành kêu lên, chạy lại nắm tay tôi.

Tôi rụt tay lại, người choáng váng.

– Em không còn yêu anh nữa à? Em làm sao thế? Sao mắt em nhìn anh đáng sợ thế? Em không hiểu những ngày qua anh khổ sở như thế nào à? Em tưởng rằng anh không còn yêu em nữa thật à? Em tưởng rằng những câu anh viết trong tờ giấy hôm ấy là thực à ? Sao em ngốc thế? Anh có yêu em đến thế nào anh mới nói những lời như thế chứ? Anh có yêu em anh mới ghen chứ? Em không biết chứ những ngày qua làm gì, ở đâu anh cũng nhớ đến em. Anh viết cho em hàng chục lá thư nhưng anh có gửi đâu. Anh cho rằng em đã yêu người khác. Sao hôm tết, em đi không chờ anh. Nhưng bây giờ thì anh biết rằng không phải… Chẳng qua là do tình cảm quá tha thiết của anh… Kỳ vừa qua anh có thành tích trong giảng dạy, người ta bảo anh dạy hay… Nhưng chưa được giới thiệu về Đại học, mà thi thì gay quá, anh ngại mình lại… Anh sẽ dạy thêm một năm nữa, một năm nữa có là bao em nhỉ, anh cần phải có ít tiến thủ về chính trị, em hiểu không? Điều ấy quan trọng lắm… Anh ở lại, anh không thể thiếu em được…

Đôi mắt như bốc cháy, anh ta dồn dập nói. Từng tiếng, từng tiếng kho rỗng ấy rơi vào đầu óc tôi kêu lên một tiếng vang giòn như tiếng hòn sỏi ném lên tảng đá làm tôi ù cả tai đi. Mắt tôi như cũng mờ đi.

Tôi nói một hơi dài, như lặp lại những ý đã có sẵn trong trí từ lâu:

– Anh đừng nói gì cả thì tốt hơn. Anh mà yêu tôi à ? Anh đánh lừa tôi và tự dối mình làm gì mãi thế? Anh không yêu tôi, cũng không yêu Bảo, mà cũng chả yêu cô Dung nào đó đâu… Anh chỉ yêu có bản thân anh thôi. Đúng đấy, tất cả mọi việc làm của anh, mọi người quan hệ với anh, anh coi như những thứ cần thiết để đạt đến mục đích nhỏ nhen, ích kỷ của đời anh mà thôi. Tôi hiểu ra đã muộn nhưng không đến nỗi nào… Anh còn gặp tôi để làm gì nữa? Cô Dung vừa hất cẳng anh rồi chứ gì?… Trời ơi, tôi tưởng ít ra anh cũng phải biết xấu hổ một chút chứ?…

Tôi nói rồi lặng lẽ quay vào. Thành trợn mắt lên nhìn tôi, mặt đỏ lên rồi lại tái đi. Rồi, bằng những lời lắp bắp, đứt nối anh ta nói rằng những điều tôi vừa nói đều hồ đồ, không căn cứ và vô lý. Rằng Bảo là một con bé con đã hiểu lầm lòng tốt của anh. Rằng quả thực anh có yêu Bảo nhưng đó là tình yêu của người anh đối với em chứ không phải là tình yêu trai gái, rằng nếu Bảo có là con trai thì anh cũng đối xử như thế mà thôi. Rằng với Dung chỉ là tình bạn…

Anh ta nói rất nhiều, càng nói càng lúng túng và ngơ ngác – như chính anh ta cũng không ngờ rằng mình lại nói ra những điều như thế.

Tôi bỏ đi vào.

– Huệ

Thành gọi rồi chạy theo tôi, tiếng run lên.

– Em không còn yêu anh nữa thật à? Em không còn nghĩ đến mẹ và bao nhiêu kỷ

niệm cũ à?… Ừ, thì cho là anh có sai gì đi nữa, em bỏ qua đi là hết… Sao em giận anh lâu thế?

– Không. Tôi có giận anh đâu. Tôi giận anh mà làm gì? Còn mẹ tôi ấy à? (Tôi chợt

bật cười) anh tưởng sẽ lại lừa dối được cả mẹ tôi nữa à ?… Anh nhầm đấy…

Tôi quay trở lại. Thành lặng lẽ đi theo tôi, đầu cúi nhìn xuống đất vẻ ủ ê thảm hại. Dừng lại trước một con đường rẽ, Thành nhìn tôi, trên nét mặt nhăn lại thoáng vẻ đau khổ, hối hận rồi lên xe và đạp miết vào trong bóng tối.

Tôi dừng lại, nhìn theo và tự nhiên tôi thấy thương Thành. Rồi đây anh ta sẽ ra sao? Những học sinh anh ta dạy sẽ thế nào? Cắt đứt với anh ta là mới giải quyết được chuyện giữa mình với anh ta, nhưng còn với mọi người? Mình phải làm gì nữa đây? Với một người như thế?

– Chị Huệ ơi, vào đi, các em đang đợi chị!

Tiếng ai gọi khẽ và một bàn tay nào khẽ đập vào vai tôi. Tôi quay lại và nhận ra Chiếm. Chiếm đã đến bên tôi từ lúc nào. Đôi mắt to, trong suốt nhìn tôi đầy cảm thông, thân thiết. Bàn tay to lớn hết lùa vào mái tóc vuốt vuốt lại kéo áo. Hình như Chiếm muốn nói với tôi điều gì nhưng sau lại thôi.

– Vào đi, các em đang đợi chị! Tôi gật đầu quay lại.

Trong đình, tiếng trống, tiếng đàn, tiếng người đã nổi lên râm ran. Ông Trí tất tả từ trong chạy ra suýt nữa thì va vào tôi. Ông nắm lấy tay tôi reo lên mừng rỡ :

– Kìa! cô Huệ! Mời cô lên giới thiệu chương trình đi! Khán giả đã đông đủ cả rồi…

Dưới ánh sáng hai ngọn đèn “măng sông” chói lòa, mắt tôi hoa cả lên. Tôi bước vội ra trước sân khấu, trống ngực đập rộn lên. Một tràng pháo tay ran lên ở các hàng ghế đầu rồi lan xa đến tận cuối bãi cỏ.

Tôi đưa mắt nhìn xuống phía dưới. Kìa là chị Bái, chị Hà, cụ Thuận… kìa là My, Lựu, ngồi thành một nhóm với các chị em thanh nữ trong thôn, và xa hơn một chút, xế bên gốc cây bàng kia là bà mẹ em Nam, với một số các bà có tuổi. Tôi không thể trông rõ tất cả mọi người. Nhưng trong một khắc rất nhanh, tôi có thể hình dung trước mắt, gương mặt của tất cả những người thân thuộc mà tôi đã gần gũi trong suốt một năm qua ở cái làng nhỏ này. Lòng nao nao, tôi nghĩ đến mọi người với một lòng biết ơn và thiết tha hơn bao giờ hết. Ở đây, tôi đã có cả một gia đình lớn với một tình thương đằm thắm, gắn bỏ xiết bao.

– Thưa các vị đại biểu… Thưa các vị phụ huynh… Tôi lắp bắp rồi cất tiếng nói to.

Dưới ánh đèn, sáng lên những khuôn mặt, những nụ cười. Đêm vui đã bắt đầu.

 

Quảng-bá, mùa đông 1963