Dưới con mắt rừng

Ngọc Bái

Cứ ngược lên núi, ngược lên thật cao, mãi trên đỉnh lờ mờ xanh, nơi thấy sương mù quanh năm bao phủ. Nơi có những nếp nhà nền đất, mái lợp gỗ pơ mu như những cây nấm thấp thoáng dưới tán sơn tra, quây tụ thành một bản nhỏ, thì đấy là Mí Háng Tủa quê hương của bạn Giàng Pao. Ở đấy có một lớp học tuềnh toàng, các bạn đến lớp hầu hết chân đất. Để chống chọi với mùa đông rét mướt, sáng ra mỗi bạn đi học mang theo một ống bơ đựng than lửa, đến được lớp thì than đã nguội. Một đống lửa được đốt  lên cho các bạn vừa sưởi lửa vừa học. Ở đấy có một cô giáo dậy “lớp ghép”, lớp một và lớp hai gộp lại, chỉ có dăm học sinh đến học. Ở đấy Giàng Pao có người bạn thân Sùng Tu. Hai đứa chung một đường đi học, phải qua một đoạn khe nhỏ. Ở đấy, Sùng Tu còn ở lại học cô giáo Kinh. Cũng từ đấy Giàng Pao lên huyện để học trường dân tộc nội trú.

  • Quê núi

Giàng Pao được đi học trường dân tộc nội trú của huyện. Nó sẽ phải xa cái trường của bản Mí Háng Tủa cheo leo bên sườn núi. Nó sẽ phải xa cái dốc vòng qua gốc sung nhà Sùng Tu, bạn nó. Nó sẽ phải xa cái máng nước suốt ngày róc rách chảy về tận đầu nhà bếp, sục lên bùn đất tanh nồng. Nó sẽ phải xa cả mấy con lợn thả rông rũi đất bung hàng rào bờ đường. Xa cái mùi hăng hăng của rơm lúa nương trộn với mùi phân gà phân lợn vương vãi khắp vườn. Và nó sẽ phải xa bố mẹ nó để đến cái nơi mọi thứ đều lạ, chả có ai quen.

Pao chưa biết thế nào gọi là nhớ. Nó chỉ biết những gì gần gũi nhất giờ phải xa thì không chịu nổi. Thế cho nên nó thẫn thờ suốt cả ngày. Cái đầu nó ong ong. Cái chân nó muốn chạy ngay vào rừng để xem những nơi nó từng đi bắn con chim con thú. Cái tay nó muốn cầm con dao đi chặt cây nứa làm lồng chim. Cái mắt nó muốn nhìn không chán đỉnh núi mờ sương, ở đó nghe nói có đường lên trời.

Pao thẫn thờ trèo lên cái cây sau nhà. Ở đó Pao có thể nhìn thấy khắp bản Mí Háng Tủa. Cả bản chỉ có hơn chục cái nóc nhà trên nền đất khấp khểnh. Những mái nhà lợp bằng gỗ pơ mu mốc thếch vì nắng mưa. Trước mỗi nhà có hàng rào bằng nứa để ngăn đám lợn thả rông vào rũi đất tận vỉa hè. Hơn chục nóc nhà mà đất ở quá rộng. Nhà ai có con giai lớn lấy vợ, bố mẹ lại lai thêm chái nhà một gian cho ở. Cả nhà chung nhau một bếp lửa. Phía đầu nhà là chỗ để ống dẫn nước trên đồi về. Nước dùng xong cho chảy xuống thành vũng, gà lợn tha hồ đào bới ỉa đái, sục lên mùi bùn. Cứ mỗi ngày hai bận, các nhà nổi lửa nấu cơm, khói bay là là rồi tản vào trong gió. Mùi ngô, mùi sắn nướng cũng bay vào gió thơm lừng. Thế mà Pao phải xa bản Mí Háng Tủa để đi học, tự nhiên nước mắt Pao ứa ra.

Từ Mí Háng Tủa có một lối mòn dốc đứng đất đỏ quạch chỉ đủ cho người và ngựa đi, phải non nửa ngày mới xuống đến đường nhựa. Người lớn bảo thế, chứ Giàng Pao cũng chưa đến đó bao giờ.

Như sực nhớ điều gì, Pao tụt cây xuống, vào nhà cầm theo chiếc nỏ với một con dao rồi đi vào rừng.

Pao lẳng lặng leo qua sườn núi để tụt xuống bờ suối, men theo một khe nhỏ, vào hút tận trong hẻm đá. Ỏ đấy có những cây dáy dại, mấy cây chuối rừng hoa nở đỏ tươi, những cây lau sậy mọc cao hơn đầu người. Mấy ngày trước nó đã từng bẫy được một con dúi. Loài vật này thường chui trong lòng đất để ăn gốc nứa gốc lau. Biết được hang của nó, Pao đã đặt bẫy. Loài dúi khôn lắm, phải nghi trang như không có dấu tích và hơi người, nó mới bị sa bẫy. Làm được việc này Pao phải học từ bố nó.

Bố Pao trước đây là một người săn thú khá giỏi. Với cây súng kíp, bố nó suốt ngày luồn lách trong rừng, lúc thì bắn khỉ, lúc thì bắn chim, lúc thì bắn cầy cáo. Gặp con gì bắn con đó. Được con chim con thú nào mang về, rủ mấy người đàn ông trong bản làm thịt, đốt lửa nướng và uống rượu. Rồi mấy người đàn ông hát ề a. Người nọ hát xen người kia. Lắm lúc rõ lời, lúc chẳng rõ lời. Giọng ríu lại vì rượu. Bài hát gì nghe buồn buồn như hoa cỏ lau gặp mưa:

Gió về, gió đưa mây

Mây về, mây đưa mưa

Mưa về, mưa trôi chín mươi tám loài cỏ cây đang chớm mọc

Ta theo mình kết nghĩa bạn tình chưa được bao lâu

Nay ta về ta buồn tựa nát tám mươi chín thớ gan

Gió về, gió đưa mây

Mây về, mây đưa mưa

Mưa về, mưa trôi chín mươi tám giống cây cỏ đang sắp trổ

Ta theo mình đính ước bạn tình chưa được mấy thuở

Nay trở về ta đau như rạn chín mươi tám thớ tim…

 Đám đàn bà con gái phải chờ cánh đàn ông ăn xong hát xong, lăn ra ngủ, mới ăn tiếp những gì còn lại trong lặng lẽ.

Tỉnh rượu, bố Pao và cánh đàn ông rủ nhau ra suối khoan thép làm nòng súng kíp. Pao cũng lén ra xem khoan nòng súng kíp thế nào.

Một thanh thép to bằng cỡ nòng súng dài hơn một mét được kiền buộc cố định vào chiếc khung gỗ chắc chắn. Người giữ cho thanh thép không nhúc nhích. Người dùng khoan kiên trì kéo cưa sợi dây da vào thân khoan xoắn đi xoắn lại từng vòng. Khói bốc lên cùng hơi nước được nhỏ đều đặn vào mũi khoan kêu xèo xèo. Phoi thép nhả ra từng tẹo một. Không vội vã hấp tấp. Chính xác từng li từng tí, ngày này qua ngày khác, mới hình thành được chiếc nòng súng.

Pao đứng lén xem bố mình và mấy người đàn ông hì hụi làm việc. Mọi người chú ý khoan nòng súng nên chẳng ai để ý có Pao ở đó. Khi bố Pao dừng tay, ngẩng lên nhìn thấy Pao thì nói:

– Ơ thằng Pao à! Mày ra đây làm gì? Ở nhà chuẩn bị lên huyện mà học cái chữ vào đầu chứ!

– Con không muốn đi huyện đâu.

– Sao vậy?

– Ở nhà theo bố đi săn, theo mẹ lên nương thích hơn.

– Thằng này, tuổi mày săn sao được mà săn? Nương sao được mà nương? Đi học là đi học!

– Nhưng mà con thích ở nhà.

– Ở nhà thì mày làm được gì. Không nói nhiều. Về ngay, chuẩn bị năm ngày nữa đi huyện.

Pao thấy ấm ức. Không cãi được.

Pao biết chuẩn bị cái gì?

Đúng là Pao còn nhỏ chưa làm được việc như người lớn, nhưng cũng đã biết lên nương, biết lấy cái củi khô đun vào bếp, đã biết vào rừng bẻ cái măng, biết hái cái ngọn rau mọc hoang bên suối, đã biết múc nước cho vào nồi nấu cơm.

Pao cũng đã đi học ở trường bản Mí Háng Tủa. Trường nằm ở ven đồi cách nhà Pao hai cái dốc. Chỉ có lớp một đến lớp hai. Lớp học là gian nhà lợp lá gianh, xung quanh che bằng các tấm gỗ bắp thưa huếch. Mùa hè nắng xiên vào tận bàn học. Mùa đông gió vào ngồi chung với học sinh. Rét buốt, Sùng Tu và Giàng Pao đều đi chân đất. Các bạn cũng thế. Chân đứa nào cũng nẻ tuếch toác. Rét dầm chân trên đất buốt lên tận đầu. Chỉ có con cán bộ xã có bí tất có ủng đi thôi. May cô giáo cho đốt lửa sưởi, không thì chết rét. Hai lớp học chung nhau do cô giáo Kinh dạy. Cô giáo Kinh ở tận dưới tỉnh lên. Cô bảo học cho biết chữ để làm cán bộ. Nhưng người lớn nói cả bản Mí Háng Tủa có ai được làm cán bộ đâu. Học ở trên huyện xong lại về bản mà!

Pao thích hơn cả là được chơi những trò chơi chỉ núi rừng mới có. Nó thích chơi với mấy đứa bạn cùng bản. Chiều chiều chúng rủ nhau ra mảnh sân gần gốc sung qua nhà bạn Sùng Tu để đánh tù lú. Những con tù lú đẽo bằng khúc gỗ to như bắp chân tròn xoay. Một đoạn dây cuốn vào con tù lú nối với chiếc cán dài, như cánh tay được nối thêm ra để đánh thật xa. Con tù lú của Pao đánh vút xuống đầu con tù lú của bạn Sùng Tu, khiến tù lú bạn bắn xa hàng chục bước chân, mà tù lú của Pao vẫn quay tít. Rồi con tù lú của Sùng Tu lại đánh vào đầu con tù lú của Giàng Pao văng vào trong bụi rậm. Chiều nào cũng rủ nhau chơi, đứa nào cũng thiện nghệ. Trò chơi này không thể chán được. Chỉ cần có một chút mặt bằng trên đường đi là có thể tha hồ chơi. Có thể mang đến lớp học. Có thể mang đi lên nương. Có thể mang đi chăn bò. Đông đứa chơi càng vui, mà chỉ cần có hai đứa chơi cũng được.

Giàng Pao qua gốc sung đi tìm bạn Sùng Tu, không phải để chơi tu lú mà để hỏi xem Sùng Tu có phải đi học trường dân tộc nội trú không?

Phải tìm Sùng Tu tận trên nương cao. Nó phải theo mẹ nó đi làm nương từ sớm. Nhà Giàng Pao đã nghèo, nhà Sùng Tu còn nghèo hơn. Nhà nó đông người, ngoài bố mẹ, dưới nó còn năm đứa em nữa. Bố mẹ Sùng Tu làm quần quật mà chẳng đủ ăn. Giàng Pao chỉ có hai anh em. Em Giàng Pao còn nhỏ, mẹ vẫn phải địu trên lưng. Nhà Giàng Pao còn có lúa trong hòm, có ngô treo gác bếp, chứ nhà Sùng Tu chỉ sau vụ thu hoạch ít ngày là nhà trống trơn. Nhà nó mỗi năm phải nhận gạo cứu trợ mấy lần. Nhưng có đáng là bao so với ngần ấy miệng ăn nhà nó. Miếng ăn đã vậy, còn mặc thì rất là nhếch nhác không nói hết được. Đứa bé mặc lại những quần áo đứa lớn thải ra mà chẳng đủ. Mùa hè thì phong phanh. Đứa có áo không quần, đứa có quần không áo. Đến mùa đông đứa mặc cũn cỡn, đứa mặc thùng thình, do quần áo được các nơi từ thiện gửi cho. Lấy sưởi lửa làm chính để chống rét. Mũi nhãi đứa nào cũng ngoang nguếch. Sùng Tu đông các em nên rất biết nhường nhịn. Nó chơi với bạn tốt nên Giàng Pao cũng thích chơi với nó.

Sùng Tu biết chặt cây gỗ cứng đẽo tù lú. Con tù lú Sùng Tu đẽo trông rất cân đối, không nặng đầu, không nặng chân. Khi đánh tù lú đủ chắc để trúng đích mà không bị chết hoặc văng xa. Sùng Tu sẵn lòng đẽo tù lú cho bạn. Nó cũng thích chơi với bạn tốt.

Giàng Pao gặp Sùng Tu giữa cái dốc Khỉ Lăn khi nó đang phải vác một vác củi to hơn người nó. Pao chặn Sùng Tu lại bảo san củi ra để Pao vác đỡ cho. Hai đứa chỉ trong mấy phút đã biến một bó củi thành hai bó nhỏ để vác cho nhẹ. Vừa vác củi về hai đứa vừa nói chuyện líu ríu:

– Sùng Tu này, bạn có phải đi học trường dân tộc nội trú không?

– Bố mẹ tớ bảo nhà khó khăn, không đi! Đi rồi, ai làm giúp bố mẹ? Bố mẹ còn bảo rằng chữ không để ăn được, có gạo có tiền mới có cái ăn. Ngày trước bố cũng xuống huyện học, rồi cũng về quê lấy vợ đẻ con, chữ không ăn được đâu!

– Thế mà bố mình cứ bắt phải đi đấy.

– Bố bắt đi, còn mẹ có bắt đi không?

– Chưa biết! Mẹ chỉ biết làm lụng, còn việc gì cũng do bố cả mà!

– Thế thì cứ hỏi ý mẹ nữa xem sao.

– Chắc mẹ nghe bố thôi!

– Mấy ngày nữa thì đi huyện?

– Năm ngày nữa! Năm ngày nữa, chưa nghĩ được cách gì để ở lại Mí Háng Tủa. Để được chơi với Sùng Tu.

Giàng Pao nhẩm trong đầu, năm ngày nữa sẽ phải làm những việc gì? Làm cách nào để người lớn thôi bắt nó đi học ở huyện. Đi huyện nó không thích bằng ở nhà, được phóng khoáng đi khắp rừng hái rau, hái nấm, đánh bẫy, bắn chim. Hơn nữa, đi xuống huyện nó phải xa Sùng Tu và mấy đứa bạn trong bản. Thế thì chán lắm! Lấy ai cùng chơi hát đố? Lấy ai cùng đánh tù lú? Lấy ai chơi đùa trên bãi cỏ gần nhà Sùng Tu những đêm trăng?

  • Năm ngày của Giàng Pao

Giàng Pao sắp đặt từng ngày, như thể người lớn lên kế hoạch làm nương trồng lúa trồng ngô vậy. Pao đếm từ một đến năm ngày sẽ phải làm gì!

Ngày thứ một:

 Pao xin được đi săn cùng bố. Giúp bố nhặt những con chim bị bắn rơi trong các bụi rậm hoặc vác các con thú nhỏ bị bố tiêu diệt mang về nhà.

Đã có lần Giàng Pao nghe người lớn nói, ở cái bản Mí Háng Tủa này đàn ông là thống chủ. Đàn ông ăn, làm, săn bắn, uống rượu hay đi chơi là tùy. Việc nương đồi, làm cũng được mà không làm cũng được, đã có phụ nữ gánh vác hết. Mẹ của Giàng Pao, mẹ của Sùng Tu đều vất vả suốt ngày trên nương. Còn bố của Sùng Tu, bố của Giàng Pao cũng giống hệt nhau vậy thôi! Suốt ngày lông ngông vác súng kíp đi kiếm mồi về rủ nhau thịt uống rượu.

Đi qua dốc Khỉ Lăn, rồi đi thêm liền mấy cái dốc lớn nữa mới đến được một vạt rừng rất cao. Ngày thường Pao chỉ nhìn thấy đỉnh rừng này qua màn sương bay mờ mịt. Nay mới được bố cho đi đến tận nơi. Nhìn xuống bản nhà bé như cái nấm.

Những cây gỗ to lắm đã bị đốn ngã từ bao giờ không biết, mà chỉ còn những gốc trơ lại. Bố Pao bảo đấy là gốc những cây pơ mu đã bị người ta chặt đem bán cho lái buôn gỗ  tận dưới xuôi rồi. Đấy là những cây gỗ còn nhiều tuổi hơn cả tuổi bố tuổi mẹ cộng lại. Ngày bố còn  nhỏ như Pao theo người lớn vào rừng đã thấy to lắm rồi. Bố Pao bảo thế. Nhưng ngày nay người ta đã dùng cưa máy đốn hạ hết, để kiếm lấy tiền thật nhiều, để giành lấy tiền thật lắm! Người ở tận đâu tới không biết, họ khôn lắm, đến thuê người dân bản dẫn đi tìm cây. Người dân bản quen đường rừng, được người ta thuê bằng tiền là đi ngay thôi. Họ có những cái máy cưa xoèn xoẹt xoèn xoẹt một lúc là cây to mấy cũng đổ kềnh. Một cây lớn đổ làm cho hàng vài chục cây nhỏ đổ theo, khiến cho một khoảng rừng trống trơ.

Pao ngồi trên gốc cây pơ mu bị cưa bằng, to như tấm phản, hỏi bố:

– Rồi cây này còn mọc lại nữa không hả bố?

– Không mọc lại được nữa đâu Pao à!

Pao nhớ ra rồi, cây chết làm sao sống lại? Cũng như hôm ông Vàng Seo ở đầu bản Mí Háng Tủa già quá mà chết, bố nó cũng bảo người chết rồi không sống lại được đâu. Đám ma ông Vàng Seo hôm ấy đến mấy ngày liền thật là ầm ĩ.

Biết ông Vàng Seo chết, thế là Giàng Pao và Sùng Tu chạy ngay đến xem. Thấy ba người đàn ông trong nhà vác ba khẩu súng kíp ra giữa sân đứng quay ra ba hướng nổ liền ba phát súng. Đoành đoàng đoành âm vang phá tan sự im lặng, làm mấy con gà sợ quá kêu quang quác chạy túa lên bờ rào, mấy con lợn cũng chạy, mấy con chó cũng chạy bạt vía!

Ba phát súng ấy báo hiệu cho dân bản biết có người trong nhà chết.

Mọi người lục tục mang đồ phúng viếng đến. Người mang cân gạo, người mang con gà, người mang chai rượu, người mang mấy quả trứng và vàng hương đến đưa cho gia chủ.

Thày cúng “dờ mủ” được mời về. Ông thầy “dờ mủ” bảo mấy anh thanh niên chặt cây tre chẻ ra để đan khung nan tròn, dán giấy làm cây phướn. Người khéo tay cắt giấy màu xanh đỏ tím vàng kết vào cây phướn sặc sỡ. Đám trẻ con có cả Giàng Pao và Sùng Tu được phân công lấy hồ quệt vào từng tờ giấy cho người lớn dán. Những cây phướn to được dựng ngay trước sân nhà người chết để báo nhà có tang ma, chuẩn bị đưa người chết về cõi mịt mù.

Con cháu rửa mặt mũi, rửa chân, rửa tay, rửa khắp người cho ông Vàng Seo, mặc quần áo lanh rồi đưa ra nằm trên tấm phản giữa nhà. Người ông Vàng Seo cứng đơ như khúc gỗ. Một cây nỏ, một con dao và một con gà được đưa làm lễ.

Giàng Pao lén hỏi bố: để các thứ đó làm gì? Bố Pao bảo: ông Vàng Seo thành ma rồi, muốn về với tổ tiên phải có con gà dẫn đường, con dao phát đường, cây nỏ để làm vũ khí bảo vệ trên đường.

Đội khèn, kèn, trống, sáo, thanh la, não bạt nổi nhạc rền rĩ. Tiếng nhạc đám ma rền rĩ suốt cả ba bốn ngày. Tiếng khèn dẫn đường cho người chết đi tìm nguồn cội của tổ tiên mình nghe âm u như tiếng gió, tiếng suối, tiếng mưa rơi trên rừng.

Người trong bản rộn rịp như dưới đất chui lên như trên trời rơi xuống đến tiễn người chết.

Con trâu được dắt tới sân để dâng cho người chết làm tài sản mang theo. Ông thày cúng “dờ mủ” nối sợi dây lanh vào sợi dây thừng buộc trâu. Ông thày cúng hát. Lời tang ca dầm dề như mưa, tha thiết như lời tâm sự.

Giàng Pao cố lắng nghe và nhẩm theo lời của thày cúng. Hỡi người chết nằm trên nhung lụa! Biết đường sống đã khó. Biết đường chết càng khó. Hồn tìm lấy đường quang mà đi. Qua rừng rậm dùng dao phát mà tới. Khôn bao nhiêu cũng chưa thấy đủ. Khéo bao nhiêu cũng chưa thấy hết. Xấu một chút cũng thừa. Tốt bao nhiêu cũng còn thấy thiếu. Hồn hãy tìm về với tổ tiên…

Thày “dờ mủ” hát giao lễ vật xong, coi như người chết đã nhận lễ vật, mọi người dắt trâu đi mổ. Đám trẻ trong bản í ới gọi nhau xem mổ trâu. Sùng Tu với các em nó mũi nhãi lề nhề trong cái rét căm căm, cũng xúm vào xem người lớn nấu thịt trâu trong chiếc chảo lớn. Khói củi bốc mờ mắt.

Đồ lễ người chết được mang tới. Người ta xếp bên cạnh người chết các thức ăn và rượu cúng. Tiếng khèn lại nổi lên. Họ bón thức ăn cho người chết. Thức ăn rơi xuống. Họ đổ rượu vào miệng người chết. Rượu rớt ra ngoài. Thế là hết! Ông Vàng Seo không biết ăn biết uống nữa rồi! Thế là hết! Ông Vàng Seo thành ma rồi! Người nhà ông Vàng Seo lần lượt làm thủ tục bón cơm đổ rượu cho người chết trong xót thương. Ông Vàng Seo đã đi hết chặng đường người sống, để về với quê hương xa xôi tổ tiên của người Mông rồi!

Ngoài sân người ăn cỗ, người uống rượu say khướt, người đi lại nói năng mời chào ầm ào náo động.

Giàng Pao thẫn thờ một lúc rồi hỏi bố:

– Ông Vàng Seo đã về đến nơi tổ tên chưa hả bố?

– Sao con lại hỏi vậy?

– Thày “dờ mủ”  bảo rằng ông Vàng Seo về với tổ tiên.

– Ông ấy đi đường ma rồi, làm sao mình biết được!

Tự nhiên Giàng Pao nghĩ tới những cây gỗ trên rừng đã bị đốn, nó cũng không sống lại nữa. Không biết tổ tiên nó ở đâu.

Ngày thứ hai

 Từ sáng sớm tinh mơ khi con chim rừng chưa kịp dậy hót, hai bố con Giàng Pao đã chui qua màn sương dời khỏi bản Mí Háng Tủa. Bố mang một cây súng kíp dài, Pao mang cây nỏ và một con dao sắc lẻm. Hôm trước đi muộn nên mới chỉ đến khu rừng khai thác gỗ. Những cây gỗ to không còn, không còn nơi trú, thú rừng sợ chạy đi hết từ bao giờ, còn lấy gì mà săn với bắn. Cho nên đi suốt ngày chẳng gặp con thú nào. Bố Pao nói, rừng này ngày trước nhiều thú lắm. Đi săn không bao giờ chịu về tay không. Bây giờ người phá rừng, người đốt nương, không còn chỗ cho thú ở. Người khôn quá nên thú cũng khôn, phải lên tận núi cao may ra mới gặp chúng.

Chắc chắn hôm nay phải đi xa hơn rồi. Nhưng leo núi đã quen nên Giàng Pao không ngại.

Vẫn phải đi qua dốc Khỉ Lăn. Đấy là cửa rừng.

Bố Pao nói phải đi nhanh, kịp lúc con thú đi kiếm ăn mới gặp nó. Đi hết dốc này đến dốc khác mà chưa gặp con thú nào. Đi hết nương này đến nương kia mà chỉ thấy gió nóng thổi trơ đất đá. Đã quá trưa. Mồ hôi không kịp vuốt trên mặt. Đang đứng thở dưới bóng bụi nứa thì bố ra hiệu cho Giàng Pao đứng im. Có dấu hiệu gặp thú. Pao không dám nhúc nhích dõi theo thừng cử động của bố. Bố Pao nằm bẹp xuống cỏ rồi trườn vào bụi cây quan sát.

Bỗng đàn chim liếu điếu kêu rộ lên bởi thấy bóng người. Mấy con khỉ thấy liếu điếu báo động liền truyền cây chạy biến.

Bố Pao chửi lũ liếu điếu:

– Mẹ cha bọn mày! Ăn gì mà lắm điều! Cho phát súng bỏ mẹ cha mày cả lũ bây giờ!

Lủng bủng trong mồm vậy, chứ đời nào bố Pao dám bắn. Nghe tiếng súng lũ thú rừng càng chạy xa, lấy gì mà săn.

Không hề nản, bố Pao lại ra hiệu cho Pao tiếp tục đi.

Lần này phải leo qua thác nước vào mãi rừng sâu. Pao cứ phải chạy gằn cho kịp bố, chỉ sợ bị lạc. Mà sao bố Pao nhớ đường vậy? Đi lòng vòng một lúc lại nhìn thấy đỉnh nương trước mặt.

Pao ngạc nhiên hỏi bố:

– Sao lại ra chỗ nương ban nãy nhìn thấy?

– Là vì ở rừng nhiều chỗ đi tắt được. Nếu thuộc rừng thì giống như thuộc bàn tay, đi đâu cũng sẽ đến nơi cần đến. Còn nếu không thuộc rừng thì càng đi càng lạc. Muốn đi về chỗ cũ là phải chiếu theo hướng. Bây giờ nói Pao chưa hiểu đâu. Phải đi rừng nhiều như bố rồi mới biết được.

Pao rất tò mò lắng nghe lời giải thích của bố. Pao sẽ đi rừng thật nhiều để không bị lạc trong rừng.

Bố Pao dẫn vào một nơi đất quang trời quang, lộ ra một bãi nương trồng cây thuốc phiện, đang mùa nở hoa bông đỏ bông tím rực rỡ. Cây này còn được gọi là cây anh túc đấy! Tên hoa đẹp, màu hoa đẹp. Ong kiếm mật bay từ bông hoa nọ sang bông hoa kia không lúc nào ngớt. Bướm đến hút nhụy hoa từng đàn trông thật thích mắt. Rồi ít ngày nữa hoa anh túc sẽ biến thành quả. Người ta lấy nhựa từ quả cây đem đi bán cho những ai nghiện thuốc.

Pao nghe người lớn nói loại cây này là cây ma quỷ không tốt, nó làm cho người nghiên ngập. Ở bản Mí Háng Tủa đã có ông A Lử hút thuốc phiện, người gày gò xương xẩu như củi khô. Nhà không có gạo mà ăn. Con cái chỉ biết ăn củ sắn. Hôm được nhà nước cấp gạo từ thiện, A Lử cũng xúc gạo trốn vợ trốn con đem bán lấy tiền mua thuốc hút đấy.

Pao miên man nghĩ, cái loài cây này hoa đẹp thế mà lại ác thế. Mấy lần thấy thanh niên trong bản hăng hái tổ chức cùng nhau đi phá cây thuốc phiện. Lúc ấy Pao chưa hề biết cây hoa thuốc phiện là gì, thì hôm nay Pao đã được tận mắt nhìn. Nếu không được bố cho đi vào rừng săn thú thì chưa biết bao giờ Pao mới được thấy loài cây này. Pao hỏi bố:

– Thanh niên đi phá cây thuốc phiện rồi mà sao ở đây vẫn còn cây thuốc phiện hả bố?

– Thanh niên đi phá cây thuốc phiện là đi theo phong trào thôi. Phá được cây thuốc phiện ở nơi dễ tìm để có thành tích thôi. Còn rừng núi mênh mông thế này, tìm sao hết được. Đi sao hết được.

Pao chưa biết phong trào nghĩa là thế nào. Chỉ thấy thanh niên hò hét thật là vui.

Phá thuốc phiện đến đâu thì phá. Còn sót lại nương thuốc phiện nào thì người nghiện vẫn có thuốc để hút mà!

Chiều mất rồi, hai bố con Pao leo núi trèo rừng gần một ngày mệt lử mà chả săn được con thú nào. Khi về qua dốc Khỉ Lăn đến khe nước suối thì nghe có tiếng động như thể tiếng người rên. Vạch cây vạch lá tìm mãi mới thấy một chú khỉ bị thương không biết do ai bắn từ bao giờ, chắc là khát, đi tìm xuống khe uống nước. Thấy người, khỉ sợ chạy cuống quýt. Vì bị thương nó không thể chạy nhanh được đã bị bố tóm khi nó định nhảy lên vách đá. Con khỉ bị vết thương ở tay, không thể truyền cây được. Cũng lúc ấy mới nghe thấy tiếng khỉ đàn kêu choéc choéc trên cây. Nó truyền từ cành cây này sang cành cây khác mất hút. Dưới đất, khỉ bị thương luống cuống. Khỉ bị bắt, nó giơ tay còn lại lên chống cự. Nó nhe hàm răng dữ tợn sẵn sàng cắn người. Mắt nó đỏ ậng nước như đứa trẻ tuyệt vọng van xin, trông rất đáng thương. Nó trố mắt nhìn người không biết là để cầu cứu hay căm hờn. Bố Pao nhanh chống chặt cây làm đòn khiêng. Con khỉ bị trói hai chân, cố định người nó vào chiếc đòn. Pao đi trước, bố Pao đi sau, khiêng con khỉ trong tiếng kêu choe chóe vì đau đớn.

Bắt được khỉ mang về đến nhà trời đã tối. Bố không kịp mổ.

Đêm về, bố bảo ngày mai rủ bạn làm thịt uống rượu. Mẹ bảo, mai đem xuống chợ bán để mua gạo ăn thôi. Nhà hết gạo rồi. Bán để mua gạo mua cả thịt lợn nữa. Có cả gạo có cả thịt ăn mà! Nghe bố ậm ừ, mai hẵng hay!

Khuya rồi, Pao nằm yên mà khó ngủ quá. Giá như mọi ngày đi rừng mệt Pao sẽ ngủ khì một giấc thật ngon đến sáng. Nhưng hôm nay nhìn con khỉ bị bắt nhốt như đứa trẻ con, Pao thấy thương nó không chịu nổi. Chỉ ngày mai là kết liễu đời nó. Thật tội nghiệp! Nó không biết gì mà! Giàng Pao trăn trở, hết quay bên này lại quay bên kia, trong đầu nghĩ cách, làm sao cứu được con khỉ trong đêm. Giàng Pao thấy mọi người trong nhà đã ngủ yên lắm. Pao khẽ trở dậy rón rén ra đầu nhà…tháo rọ nhốt khỉ.

Ngày thứ ba

 Pao nghĩ trong đầu, ngày mai dậy sẽ theo mẹ lên nương chứ không theo bố đi săn thú nữa. Đi làm nương với mẹ nhân thể xin mẹ không đi xuống huyện học trường dân tộc nội trú. Phải tìm lý do gì đó để thuyết phục mẹ bây giờ nhỉ?

Pao nghĩ miên man rồi ngủ tít lúc nào không biết.

Trong cơn mơ màng, Pao nghe mọi người ồn ào nói không hiểu sao con khỉ lại sổng mất tăm đâu rồi? Mở mắt ra trời đã sáng tới tận góc bếp!

Giàng Pao cũng trở dậy, nhớn nhác đi tìm khỉ như mọi người.

Trong bụng Pao nghĩ, giờ này chắc khỉ vào rừng xa lắm. Lúc đêm Pao rón rén dậy thả khỉ đi, thấy lờ mờ trong sương mấy chú khỉ to đến cứu bạn nó. Nhưng chúng chỉ biết loay hoay trong im lặng. Thấy bóng Pao chúng chạy vào bóng tối. Con khỉ bị thương được thả, mấy con khỉ kia liền đến cõng bạn nó chạy ngay. Loài khỉ cùng đàn thương nhau lắm, nó không bỏ bạn đâu mà!

Bố Pao tìm mãi không thấy khỉ đâu, tức quá đá tung cái rọ nhốt khỉ, rồi chửi:

– Mẹ cha ông bà con khỉ, mày có cánh đâu mà mày bay mất, đồ con khỉ!

– Bây giờ mà tìm thấy mày, tao làm thịt ngay! Đồ con khỉ!

Mẹ Pao lẳng lặng địu con nhỏ và vác cào cỏ lên nương.

Pao cũng địu một chiếc lù cở, một chiếc cào con theo mẹ.

Giàng Pao như dán mắt nhìn vào bắp chân và từng bước đi của mẹ. Bước chân leo núi của mẹ đã săn chắc lại, những thớ thịt cuộn lên, đen đúa. Những ngón chân tõe ra. Bao nhiêu dốc ở bản Mí Háng Tủa này đã từng in bước chân của mẹ. Mẹ đã thuộc lòng từng đoạn dốc, tưởng như nhắm mắt lại mẹ vẫn hình dung ra từng mô đá, từng hủm đất. Vậy mà bước chân ấy cũng chỉ đi tới huyện một vài lần thời còn trẻ. Thời bố Pao chưa biết “bắt vợ” theo phong tục của người Mông. Khi đi lấy chồng rồi, người phụ nữ chỉ còn biết tới nương rẫy nhà chồng, quẩn quanh bên bếp lửa nhà chồng. Mẹ Pao là người như vậy.

Nương lúa mới làm vụ thứ hai mà đất đã cằn trơ vì thiếu nước. Mẹ vừa địu em bé vừa sới cỏ cho lúa. Bụi đất bay trắng. Bụi bám vào váy áo. Bụi tung lên bay tản theo gió rồi tan vào nắng. Mẹ nói, nương này sắp hỏng rồi, sang năm phải đi phát nương nơi khác thôi, nương này không còn màu cho lúa ăn, lúa chẳng lên được, làm cỏ cứu được cây lúa nào thì tốt cây ấy. Lại đói mất thôi!

Mẹ Pao thở dài.

Giàng Pao học mẹ sới cỏ cho lúa. Tưởng công việc dễ dàng nhưng tay Pao cứ lập bập, chân Pao cứ lóng nga lóng ngóng. Còn mẹ, tay sới cỏ, chân mẹ kết hợp đá cho tơi đất để cỏ nhanh héo. Mẹ sới nhanh gấp mười lần Pao. Mồ hôi mẹ đẫm lưng áo, ướt cả sang em bé. Đứa em ngoan ngoãn trên lưng mẹ, không hề khóc. Hình như nó cũng biết nỗi vất vả của mẹ. Lâu lâu mẹ lại cởi địu, ngồi xuống cán chiếc cào cỏ cho em bé bú. Mẹ bảo Giàng Pao:

– Con chơi với em cho mẹ làm. Người nó ướt hết vì mồ hôi của mẹ rồi này.

– Con sới cỏ mà!

– Con sới cỏ rối thế, nó mọc lại ngay thôi.

Nghe lời mẹ, Giàng Pao đưa em vào ven nương có bóng cây tránh nắng. Nó cũng giống Pao, còn bé tí mà tóc đỏ hoe hoe. Trẻ con Mông sớm quen với nắng gió, mặt mũi sẫm màu đất nương, chân tay cũng sẫm màu đất nương.

Pao chặt cây nứa nhỏ khoét sáo thổi cho em chơi. Pao bắt chước người lớn thổi bài sáo rất quen của người Mông. Định thổi tí tù tí tí tù  cho đứa em nghe. Nhưng Pao chưa thổi được như người lớn. Tiếng sáo chỉ phát ra tiếng plè plè plè làm em thích cười toét miệng.

Giàng Pao cùng bé chơi đùa một lúc rồi cùng nhau lăn ra đất ngủ lúc nào không biết nữa. Khi mẹ đánh thức hai anh em dậy thì trời đã trưa. Mẹ qua nương cũ nhổ mấy khóm sắn cho vào lù cở cho Pao địu về.

Đi đường Pao ướm hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, con không đi học dân tộc nội trú ở huyện có được không?

– Con nói cái gì à?

– Con nói con không đi học ở huyện!

– Sao lại thế?

– Con ở nhà làm việc đỡ mẹ.

– Ôi dà! Mẹ vẫn làm được tất mọi việc mà!

– Nhưng con thấy mẹ làm nhiều quá.

– Nhiều cũng không sao!

– Nhưng bạn Sùng Tu cũng không đi học. Nó bảo bố mẹ nó nói đi học không lấy chữ mà ăn được. Phải có gạo có tiền mới có cái ăn. Còn đi học như bố nó trước đây hết lớp năm rồi cũng về quê lấy vợ đẻ con. Cần gì đến cái chữ!

– Việc này phải hỏi bố rồi. Mẹ không cho được đâu!

– Biết ngay mà! Mẹ cứ nói với bố đi. Mẹ nói có khi bố đồng ý.

– Mẹ không nói được đâu! Con phải đi học thôi!

Về đến nhà, lập tức Giàng Pao tìm đến nhà Sùng Tu báo tin. Sùng Tu vừa đi hái rau rừng ở bờ suối về. Hai đứa rủ nhau ra gốc sung, không phải để đánh tù lú, mà là để nói chuyện với nhau:

– Sùng Tu ơi, Sùng Tu bảo mình hỏi xin mẹ không đi dân tộc nội trú huyện, nhưng mẹ không nghe rồi. Mẹ bảo phải theo lời bố. Mẹ không cho được.

– Chán nhỉ! Thế là Sùng Tu không có bạn để đi đánh bẫy thú rừng, không có bạn để đánh tù lú mỗi ngày rồi!

– Còn hai ngày nữa là phải xuống huyện. Chẳng biết làm cái gì cho hết hai ngày. Buồn phải xa Sùng Tu quá!

– Mình cũng buồn mà!

– Mai Sùng Tu đi với mình đến chào cô giáo Kinh ở Mí Háng Tủa nhé!

– Được rồi! Mình sẽ đi cùng Giàng Pao.

Ngày thứ bốn

 Pao đang uể oải chưa muốn dậy, thì nghe tiếng Sùng Tu:

– Pao ơi dậy thôi, cháy rừng to quá kìa!

Nghe tiếng Tu, Pao chồm dậy ngay. Lập tức chạy theo Sùng Tu xem cháy rừng.

Người lớn gọi nhau ầm ĩ. Họ mang theo dao phát, cả thùng múc nước, chạy ngược lên dốc Khỉ Lăn. Trừ người già và trẻ em nhỏ quá, dân cả bản Mí Háng Tủa đều đi chữa cháy. Bố Sùng Tu, bố Giàng Pao mỗi người một con dao phát nhanh chân chạy lên phía trước. Thấy cả cô giáo Kinh cũng đi dập lửa cứu rừng cùng dân bản. Pao chưa kịp chào, cô giáo Kinh đã vượt lên khuất vào trong khói.

Giàng Pao, Sùng Tu cũng chạy lên. Qua dốc Khỉ Lăn đã thấy lửa cháy to quá rồi. Lửa như con thú khổng lồ lè lưỡi liếm từng vạt rừng. Đấy là khu rừng pơ mu đã bị chặt hết, những lá khô và những cây con bị chết đã thành mồi cho lửa. Đang mùa hanh khô, lửa bén càng nhanh. Tiếng nứa nổ lốp bốp to hơn cả tiếng súng kíp.

Người lớn chạy sang phía rừng chưa cháy phát cây tạo thành hành lang để khi lửa đên nơi không có gì để cháy nữa. Phụ nữ và thiếu nhi lấy cành cây đập dập lửa ở những chỗ cháy nhỏ. Giàng Pao và Sùng Tu cũng bắt chước dập lửa, nhưng nóng quá lại phải chạy ra. Mặt đứa nào cũng đen nhẻm vì tro bụi.

Lửa cháy hết cả cánh rừng, chán không còn gì cháy nữa mới thôi.

Giàng Pao cũng đã chứng kiến cháy rừng vài lần rồi nên cũng không lạ. Người đi rừng vô ý hút thuốc ném mẩu thuốc vào lá khô, nó âm ỷ cháy mà không biết, đến khi gặp gió lửa mới bùng lên. Cũng có khi do đốt nương, ngọn lửa cháy lan ra rừng. Còn trận cháy rừng này chưa biết lý do thế nào.

Xem đám cháy rừng xong, Pao cùng Sùng Tu rủ nhau cùng về suối tắm.

Con suối Kim bắt nguồn từ tận núi cao chảy quanh co theo các sườn núi tạo nên những vũng rộng, tha hồ cho mọi người vùng vẫy bơi lội. Đám trẻ con Mí Háng Tủa rất thích đùa nghịch với dòng nước mát lành. Dọc suối la liệt đá ông sư do nước chảy bào nhẵn thín. Thỉnh thoảng lại nhô ra những làn đá tảng nước chảy phẳng lỳ như những tấm phản bên cạnh những mô đá nhô lên với muôn hình thù. Làn cát vàng trải ra tận giữa suối. Đó là nơi tắm thích nhất.

Giàng Pao và Sùng Tu nhảy ào xuống suối, rồi chạy lên trên chỗ nước chảy xiết thả mình trôi trượt theo dòng trong tiếng cười thích thú. Hai đứa chim cò tồng ngồng đuổi nhau chạy trên những lản đá đầy rêu. Giữa rừng vắng vẻ ai trông thấy đâu mà phải ngượng!

Dọc theo con suối này nhiều lần Pao và Tu đã theo người lớn đi xúc cá. Trong các hốc đá là nơi cá ăn rêu thường ẩn trú. Loài cá này môi rất dày vì nó ăn rêu đá ở chỗ nước xiết nhất. Nhưng chỉ vì nhiều người dùng sung điện bắt cá nên chúng gần như bị hủy diệt, không còn để bắt nữa. Suối cũng cạn dần, lòng suối hẹp lại, trơ toàn đá, không nhiều nước trong xanh như trước. Người lớn nói rằng suối cạn là do rừng đầu nguồn bị tàn phá. Là do cháy rừng. Là do đốt nương. Thế mà đến ngày mưa suối lũ ầm ầm. Chả biết nước ở đâu nhiều thế. Nước đục ngàu, cuốn phăng phăng cây cối rác rưởi, trông ghê người. Như thể suối giận dữ, không thèm dừng lại. Không ai có thể qua suối những lúc như thế.

Có lần bố nói:

– Suối lũ là vì suối giận con người phá rừng đầu nguồn, phát cây làm nương đấy!

Giàng Pao hỏi bố:

– Biết suối giận dữ là do phá rừng, phát nương, mà sao người vẫn phá rừng phát nương hả bố?

Bố Pao hậm hừ một lúc mới bảo rằng:

– Không phá rừng làm nương thì lấy đâu thóc với ngô mà ăn?

Giàng Pao lại gặng hỏi:

– Cháy rừng với làm nương thì chim lấy đâu cây để đậu, thú rừng lấy đâu nơi để ẩn nấp?

– Nó phải đi rừng khác thôi!

– Sao người ác thế hả bố?

– Bố cũng không biết nữa!

Hai đứa đùa nghịch dưới suối chán chê rồi mới lên bờ mặc quần áo. Bao nhiêu bụi bẩn trôi hết vào suối rồi. Giàng Pao và Sùng Tu rủ nhau về. Chợt Sùng Tu bảo:

– Đi hái rau rừng đi!

– Ờ nhỉ! Bãi rau rớn hôm trước nhiều đấy. Bây giờ đi hái được rồi!

Mới tuần trước hai đứa cũng rủ nhau đi hái rau rừng. Các loại rau mọc hoang bên suối nhiều lắm. Rau tàu bay, rau tầm bóp, rau mỡ, rau rớn, hoa chuối rừng. Toàn những thứ rau quen thuộc với dân miền núi. Hôm ấy Pao và Tu phát hiện ra bãi rau rớn rất tốt đã hái mỗi đứa một bó. Hôm nay chắc hẳn rau lại chồi lên rồi. Tha hồ hái.

Mỗi đứa một bó rau rừng xách về nhà. Muộn rồi không kịp đến cô giáo Kinh, đành để ngày hôm sau vậy.

Ngày thứ năm

Thế là chi còn gần một ngày nữa, ngày mai Giàng Pao đã phải đi huyện học trường dân tộc nội trú rồi. Không biết trường dân tộc nội trú thế nào nhỉ? Chắc phải to hơn trường ở bản Mí Háng Tủa. Nhưng phải xa bản Mí Háng Tủa thì Giàng Pao sẽ phải xa bố mẹ, xa em bé. Xa cả Sùng Tu, xa cả cô giáo Kinh, xa các bạn cùng lớp một lớp hai.

Giàng Pao đi qua gốc sung gọi Sùng Tu cùng đến trường Mí Háng Tủa để chào cô giáo Kinh. Cô giáo tận dưới tỉnh lên Mí Háng Tủa đã mấy năm. Chỉ khi nào nghỉ hè cô mới về thăm quê.

Sùng Tu bận trông em nhỏ, để bố mẹ đi làm. Giàng Pao nghĩ thương bạn quá. Cùng tuổi với nhau mà Sùng Tu đã phải làm việc vất vả hơn Giàng Pao nhiều lắm. Nó ít được đi chơi. Khi nào bố mẹ nó ở nhà nó mới được đi đánh tù lú với Giàng Pao một lúc. Hôm qua may mắn cho nó, mọi người chạy đi chữa cháy rừng, nó mới chạy theo, chứ không mẹ nó cũng bắt ở nhà băm sắn cho lợn gà ăn rồi.

Giờ thì Sùng Tu phải trông mấy đứa em. Chỉ vì đông em mà Sùng Tu phải chịu nhiều thiệt thòi. Muốn đi chơi với bạn cũng không được.

Giàng Pao đành một mình tới thăm cô giáo Kinh. Đến cái dốc thứ hai, Giàng Pao tạt vào ven đường kiếm cành hoa tớ dảy đem đến tặng cô. Cành hoa rừng làm cho ong phải đến hút nhụy, làm bướm phải nhởn nhơ bay lượn, làm chim phải cao giọng hót. Cô giáo bảo cũng rất thích hoa rừng.

Mới tới đầu lớp đã thấy cô giáo Kinh đang chăm cho vườn rau. Dân bản vẫn bảo cô giáo Kinh chịu khó hay làm. Cô trồng rau ăn, lại cho cả dân bản nữa. Chứ dân Mí Háng Tủa chỉ trông vào rau rừng với cải nương. Đốt nương xong dân bản chỉ cần quải hạt cải lên đó, muốn bao giờ mọc cũng được, chẳng phải chăm tưới gì.

Cô giáo Kinh dạy cả lớp một và lớp hai của bản. Tuổi trẻ con đi học cũng chẳng giống nhau, có khi hai ba anh chị em học cùng một lớp. Có đứa hơn mười tuổi mà thích học lại lớp hai cũng được. Cốt là đến lớp học cho nhớ cái chữ. Nếu Giàng Pao không đi học dân tộc nội trú của huyện thì cũng cứ đến học ở đây cho đến khi không thích học nữa thì thôi. Lớn lên chút nữa, giống như các anh chị trong bản, lại đi “cướp vợ” trong ngày hội “gầu tào”. Lại tảo hôn theo phong tục xưa. Cô giáo Kinh bảo không nên thế. Lạc hậu rồi. Lấy vợ lấy chồng sớm con cái sẽ bệnh tật, nhiều con sẽ nghèo khổ. Nghe vậy thôi, chứ người Mông không đi học nữa, chả lấy vợ thì biết làm gì?!

Cô giáo Kinh ở căn phòng nhỏ ngay cạnh lớp học. Cô lấy các tờ báo dán xung quanh vách để ngăn gió rét lùa vào trong phòng. Cô ở ngăn nắp gọn gàng. Trên chiếc bàn nhỏ cô để mấy quyển sách và một bình cắm hoa. Cô còn có bức ảnh cười rất tươi treo ngay vách trước mặt bàn. Có lần cô bảo xa nhà phải tự lo cho cuộc sống vui vẻ.

Đáng lẽ hôm trước Giàng Pao đã định đến chào cô giáo Kinh để đi huyện học. Nhưng đi chữa cháy rừng nên giờ mới tới chào cô giáo Kinh. Vừa trông thấy Pao, cô giáo Kinh đã hỏi:

– Pao đấy à! Khi nào mới đi học ở huyện?

– Ngày mai em phải đi rồi!

– Được đi chứ! Sao lại nói phải đi?

– Em không thích đi. Em thích ở bản Mí Háng Tủa hơn!

– Sao vậy?

– Vì đi học xa, không được gần bố mẹ, không được chơi với các bạn ở Mí Háng Tủa, không được tắm suối Kim, không được nghe cô giáo Kinh dạy hát.

– Rồi Giàng Pao sẽ quen thôi. Cũng như cô giáo xa nhà đến đây, mãi cũng quen đấy thôi!

– Em tặng cô giáo cành hoa tớ dảy mà cô giáo thích đấy!

– Cảm ơn Giàng Pao quá!

Cô giáo cắm cành hoa dại lên chiếc bình đặt trên mặt bàn, rồi nói: Ngày mai Pao tạm xa Mí Háng Tủa rồi, Pao hát cho cô nghe bài dân ca Mông tặng cô nhé!.

Giàng Pao hát:

Con chim “câu kỷ giàng”

Bay lên nương buổi sớm

Nhặt hạt thóc vàng rơi

Con chim “câu kỷ giàng”

Bay lên nương buổi chiều

Gặp hạt ngô nở trong hốc đá

Chim hót vang núi rừng

 

  • Giàng Pao xuống núi

 

Không quên mang theo chiếc sáo Mông cho vào chiếc lù cở, Giàng Pao lí nhí chào mẹ:

– Mẹ ơi con đi đây!

Giàng Pao chào mà như chợt khóc. Sống mũi thấy hăng hăng cay cay. Nước mắt cứ chực trào ra. Khoác chiếc lù cở nhỏ đựng quần áo theo bố bước đi, Giàng Pao không dám ngoái cổ lại vì nhìn mẹ nhìn em sẽ không muốn bước đi nữa.

Không giống mọi khi lên nương hay đi học ở Mí Háng Tủa, chân Giàng Pao khi ấy chẳng khác gì chân sáo. Thế mà hôm nay bước đi, hai chân như có cục đá níu lại. Nhiều lúc bố Pao phải giục:

– Nhanh lên mới kịp tới đường nhựa đón xe ôm, Pao à!

Chỉ còn hai cái dốc nữa mà chân Pao đi mãi mới tới đường nhựa. Pao chưa ra đến đây vì người lớn dọa có bọn xấu bắt trẻ con đưa lên ô tô đem bán. Đi cùng bố, Pao không sợ, nhưng cũng không muốn đi vì phải xa bản Mí Háng Tủa.

Đi từ Mí Háng Tủa ra đến đường nhựa phải hết một buổi sáng đấy! Đứng bên đường một lúc thì gặp người lái xe ôm. Bố Pao hỏi, xe có đi huyện không? Người lái xe ôm bảo có chứ! Thế là lên xe! Chiếc xe Minxcơ chở hai bố con Pao chạy vèo vèo. Pao chưa bao giờ được đi loại xe này, nên cứ phải nín thở, ôm chặt người cầm lái, nhất là những đoạn vòng cua. Mà sao lắm vòng cua thế? Chóng cả mặt!

Tới huyện rồi!

Nhà cửa ở huyện nhiều hơn ở bản. Nhà sát nhà. Tường sát tường. Không giống Mí Háng Tủa mỗi nhà một khu vườn rộng. Huyện đông người hơn. Có cả ô tô xe máy chạy ồn ào liên tục. Huyện còn có cả cái chợ. Có cả cái cột phát thanh truyền hình cao vút trên quả đồi. Bố Pao giải thích thế.

Bố Pao phải hỏi thăm một lúc mới đến được trường dân tộc nội trú huyện.

Đó là một ngôi trường có rào bao quanh. Đi qua một cái cổng. Qua sân trường rộng mới tới được nơi làm việc của thầy giáo hiệu trưởng. Giàng Pao vừa đi vừa ngắm cảnh vật xung quanh. Mấy dẫy nhà quây lấy sân trường. Mấy cây phượng đang mùa lá xanh um. Giàng Pao sẽ học ở đây. Trông rất thích nhưng chẳng có ai quen biết. Nhiều các bạn cùng lứa tuổi của Giàng Pao nhìn Giàng Pao có vẻ tò mò dò xét. Chẳng có bạn thân như Sùng Tu. Thế có buồn không!

Bố Pao đưa Pao vào phòng thầy hiệu trưởng rồi nói:

– Thầy hiệu trưởng à, đây là Giàng Pao con tôi. Tôi đưa nó đi học. Giao cho nhà trường đấy!

Thầy hiệu trưởng ân cần:

– Giàng Pao ở Mí Háng Tủa có phải không?

– Phải đấy! – Bố Pao trả lời.

– Có danh sách đây rồi. Gia đình yên tâm về đi. Nhà trường tiếp nhận và dạy bảo chu đáo như tất cả các em học sinh đến đây học.

– Tôi giao Giàng Pao cho nhà trường rồi! Chào thày giáo tôi về nhé! Cảm ơn thày hiệu trưởng nhé! – Bố Pao bắt tay thày giáo lắc lắc.

Bố Pao dặn con:

– Ở lại đây nhé! Bao giờ nghỉ hè thì về thăm bố mẹ.

Giàng Pao thẫn thờ nhìn theo bóng bố khuất ngoài cổng rồi mới theo thày giáo về nhận chỗ ở.

Thày hiệu trưởng dẫn Pao đến giao cho cô giáo phụ trách ký túc xá. Trường dân tộc nội trú huyện nhiều thày cô giáo thế! Chả như trường Mí Háng Tủa chỉ có mỗi cô giáo Kinh dạy cả mấy lớp. Ở đây có đến mấy phòng làm việc. Qua các phòng thấy ai cũng chào thày hiệu trưởng. Chắc thày phải làm chức to hơn trưởng bản Mí Háng Tủa ấy chứ.

Thày hiệu trưởng dặn cô giáo phụ trách ký túc xá:

– Đây là em Giàng Pao người dân tộc Mông ở Mí Háng Tủa đấy. Bản này cả mấy năm chưa có em học sinh nào theo học. Phải chú ý động viên.

– Vâng ạ! Thày để em bố trí nơi ở.

Bốn bạn chung một phòng. Đã có ba bạn đến ở trước.

Nhớ Mí Háng Tủa quá. Nhớ mẹ nhớ em quá. Nhớ Sùng Tu quá, nên Giàng Pao chưa muốn nói chuyện với ai.

Mọi sinh hoạt ở tập thể kí túc xá hoàn toàn khác lạ với nếp sống của Pao ở nhà.

Pao phải làm quen với sớm dậy đánh răng rửa mặt. Pao phải làm quen với gọn gàng chăn màn. Pao phải thực hiện nội quy tập thể. Ăn xong tự rửa bát. Tự tắm giặt vệ sinh.

Ôi lắm thứ Pao phải chấp hành quá. Đầu bàn học dán tờ thời gian biểu để nhắc nhở giờ giấc mỗi ngày. Cô giáo phụ trách ký túc xá phải hướng dẫn Pao từng việc để Pao làm quen. Ngay cái việc vệ sinh thôi, ở Mí Háng Tủa chỉ việc tự do ra vườn là xong. Còn ở đây không thế được! Xấu hổ chết!

Cô dặn, các bạn trong phòng phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. Cô giáo bảo:

– Phòng này ở bốn bạn, do bạn Lam làm nhóm trưởng. Ai cần gì cứ nói với bạn Lam thưa với cô nhé!

Phòng Pao có bốn người. Bạn Hà Lam người Tày, bạn Triệu Măng người Dao, bạn Lò Văn Ban người Thái. Xem ra chỉ có bạn Măng và Pao là nói tiếng phổ thông chưa thạo lắm. Bạn Lam và bạn Ban nói tiếng phổ thông tốt hơn. Giàng Pao tự nhận xét như vậy. Đã là một nhà rồi thì phải cùng tiếng nói mới hiểu nhau được.

Tối đầu tiên ở ký túc xá, Lam hỏi Giàng Pao:

– Bạn có biết mắc màn không?

Chi pâu! – Pao trả lời.

Chi pâu là gì?

Chi pâu là không biết! Ở Mí Háng Tủa không có màn đâu!

Lam và Ban kiếm đinh đóng cột căng dây giúp Pao mắc màn. Lần đầu Pao được thấy đèn điện. Lam hướng dẫn Pao bật và đóng công tắc điện. Hay thế nhỉ?! Chỉ tách một cái là sáng. Chỉ tách một cái là tối. Cô giáo nhắc phải tiết kiệm điện, khi đi ngủ phải tắt công tắc điện mà.

Giàng Pao nhớ bố, thầm nghĩ: sao không chạy theo bố về Mí Háng Tủa?

Đắp chăn nằm trong màn, Giàng Pao vẫn thấy rét. Ở nhà đốt lửa sưởi ấm hơn. Đêm đầu tiên Pao không ngủ được. Mùi chăn mùi màn đều lạ, không giống mùi bếp lửa hăng hăng khói với mùi tấm chăn nồng nồng mồ hôi cả nhà ôm lấy nhau ngủ ngon lành. Pao thèm được ôm lấy tấm lưng của mẹ mà ngủ quá. Tự dưng nước mắt Pao ứa ra. Pao khóc trong chăn mà không ai biết.

 

  • Học hành khó hơn lên nương

 

Buổi lên lớp đầu tiên học môn tiếng Việt. Cô giáo Liên lên lớp. Trông cô đi lại rất nhanh nhẹn với bộ váy áo bó sát người, ngực áo có hàng mắc pém rất đẹp. Đúng rồi, cô là người Thái nên mới mặc kiểu ấy. Nghe cô giáo Liên giảng mà Pao chẳng hiểu gì cả. Có lẽ là do chưa giỏi tiếng phổ thông thôi. Cho nên lời cô từ tai phải chạy sang tai trái, rồi từ tai trái chạy sang tai phải, biến mất.

Giàng Pao thấy đầu óc ong ong, không nghe nổi. Cơn buồn ngủ tự dưng kéo đến làm hai mi mắt cứ chập vào nhau.

Bạn Lam ngồi bên cạnh liếc ngang, thấy Pao đang gà gật, liền lay gọi:

– Pao ơi, đừng ngủ mà, cô giáo phạt đấy!

– Sùng Tu hả? Đi… bẫy… con chim…với Pao nhé!

– Ngủ mê à? Đang học đấy, Pao!

– Học à? – Giàng Pao dụi mắt ngơ ngác nhìn Lam.

Đúng là Pao mơ thấy đang ở Mí Háng Tủa. Rõ ràng trông thấy Sùng Tu cắp cái nỏ vào nách, đi từ gốc sung sang nhà Pao. Sùng Tu vừa đi vừa thổi kèn lá kêu pe pé pè lúc xa lúc gần. Dụi mắt một lúc Pao mới tỉnh ngủ. Pao lấm lét nhìn cô giáo Liên, chỉ sợ cô biết cô phạt. Nhưng chắc là cô không biết! Cô đang quay vào bảng để viết chữ cho học sinh chép bài.

Bốn bạn cùng phòng ký túc xá được bố trí ngồi cùng một bàn. Lam ngồi cạnh Pao, còn Ban ngồi cạnh Măng để cùng giúp nhau học tập.

Giờ ra chơi mà Giàng Pao cứ buồn rười rượi. Nó ngồi yên một chỗ nhìn các bạn ra sân đánh yến, chạy nhảy nô đùa.  Giàng Pao lơ đãng nhìn ra phía cổng trường. Vừa lúc ấy cô giáo Liên đến bên cạnh.

Cô giáo Liên hỏi:

– Sao Giàng Pao không ra sân chơi với các bạn?

– Em chưa thích!

– Cứ ra chơi với các bạn sẽ quen đấy!

– Quen cũng không thích!

Cô giáo Liên biết Pao đang không vui nên nhẹ nhàng xoa mái đầu vàng như râu ngô của Pao, rồi nói:

– Thế cũng được! Khi nào em thích thì ra chơi với các bạn.

Giàng Pao thấy cô giáo Liên cũng giống cô giáo Kinh ở Mí Háng Tủa. Giọng nói rất ngọt ngào. Cô hỏi chuyện học sinh rất ân cần. Chỉ vì chưa quen cô giáo, nên Pao chưa thể nói hết vì sao Pao không muốn chơi. Còn cô giáo Kinh ở Mí Háng Tủa đã có mấy năm liền dạy Pao rồi, Pao chả ngại gì.

Đúng là nghe cô giáo Liên dạy, Pao chưa hiểu gì. Còn như ở Mí Háng Tủa cô giáo Kinh cho học sinh vừa học vừa chơi. Học sinh mấy năm biết chữ cũng được, cốt là có chỗ cho người lớn gửi trẻ em để lên nương làm lụng. Mấy năm trời học ở đó, Giàng Pao cũng chỉ mới biết đọc biết viết thôi mà.

Pao không muốn ra chơi chỉ vì chữ Pao đã xấu, lại chép không kịp. Pao không muốn cho cô giáo biết. Pao sợ xấu hổ. Lúc này Pao chỉ thích tan học cho nhanh để không phải nặng cái đầu vì học.

Cuối học kỳ, cô giáo Liên cho học sinh làm bài đặt câu ghép vào từ láy cho trước. Cô nắn nót viết lên bảng các từ láy: sừng sững, thoang thoảng, ngoan ngoãn, nho nhỏ.

Cô giáo Liên nói rằng cô đã giảng về cách đặt câu trong tiếng Việt, bằng hiểu biết của mình các em hãy đặt câu phù hợp với những từ láy cô đã cho. Các em làm bài trên lớp, cuối giờ cô sẽ thu.

Giàng Pao nghĩ mãi mà chưa ra câu gì. Sao cái đầu mình lại như những sợi dây rừng chằng chịt chẳng biết gỡ mối nào ra. Pao muốn khóc quá. Cô giáo gợi ý những gì quen thuộc với các em thì các em vận dụng để đặt câu cho đúng ngữ pháp. Giàng Pao có biết ngữ pháp là gì đâu? Khó quá! Khổ hơn lên nương vác củi!

Ờ cái gì quen thuộc thì Pao viết. Quen thuộc với Pao chỉ có con trâu, con lợn, hay cái nỏ, cái cuốc, con dao. Pao nặn óc mãi mới nghĩ ra được mấy câu, chẳng biết có phù hợp hay không?

– Con trâu sừng sững nhai cỏ!

– Con lợn nhà bạn Sùng Tu thoang thoảng phá hàng rào!

– Cái nỏ ngoan ngoãn đi rừng với em!

– Em cầm nho nhỏ cái cuốc lên nương với mẹ!

Các bạn ngồi cùng bàn làm bài xong đã đem nộp cô giáo Liên. Còn riêng Giàng Pao loay hoay mãi mới xong. Giàng Pao cố gắng lắm mới nghĩ ra chừng ấy câu để kịp nộp bài cho cô giáo Liên thu vào cuối giờ.

Giàng Pao lại lẩm nhẩm: Khó quá! Khổ hơn lên nương vác củi!

Ngày hôm thứ hai cô giáo Liên đem bài đã thu hôm trước đến lớp để chữa cho từng học sinh. Cô giáo Liên nói:

– Cô đã xem bài của tất cả các em đặt câu cho từ láy. Nhiều em làm tốt, nhưng cũng có em chưa hiểu, đặt câu chưa phù hợp. Bài này cô không chấm điểm mà chỉ rút kinh nghiệm. Để các em làm quen với phương pháp làm bài. Cô sẽ chữa những câu đặt chưa chính xác để các em sửa chữa.

Ba câu cần rút kinh nghiệm đều của Giàng Pao. Thế có nghĩa là các bạn đều giỏi, các bạn đặt câu đúng. Chỉ có Giàng Pao còn tối cái đầu cho nên mới đặt câu sai. Giàng Pao gục đầu xuống bàn mà vẫn nghe thấy tiếng cô giáo nói:

– Em Giàng Pao chưa hiểu những từ láy trong tiếng Việt nên các câu của em đặt chưa chính xác. Cô rất thông cảm Giàng Pao là người Mông ở tít xa trên Mí Háng Tủa, chưa hiểu nhiều tiếng phổ thông nên đặt câu chưa chuẩn. Cô chữa bài cho Pao để lần sau em hiểu và làm bài cho tốt nhé.

Cô giáo nói thật, hay là cô giáo chê Giàng Pao dốt? Nếu mà cô giáo chê Pao dốt thì Pao buồn lắm đấy!

Cô giáo giảng giải:

– Từ sừng sững thường chỉ những gì to lớn trước mắt, cho nên nói ngọn núi cao sừng sững mới chính xác. Không ai nói con trâu sừng sững! Từ thoang thoảng thường nói tới cảm giác thoảng qua. Ví dụ, mùi hương hoa thoang thoảng. Còn trường hợp Pao viết là: Con lợn nhà bạn Sùng Tu thoang thoảng phá hàng rào không phù hợp, chữ thỉnh thoảng mới phù hợp. Nhưng cô cho đặt câu với từ láy thoang thoảng chứ không phải từ thỉnh thoảng. Câu: cái nỏ ngoan ngoãn, nếu nhân cách hóa thì cũng tạm chấp nhận. Nhưng câu: em cầm nho nhỏ cái cuốc là câu nói ngược, không đúng ngữ pháp. Mà phải là em cầm cái cuốc nho nhỏ!

Do Giàng Pao không hiểu hết tiếng Việt nên đặt câu sai. Cô tin rồi khi có quá trình thời gian được học và thực hành Pao sẽ không viết sai nữa.

Cô giáo Liên an ủi vậy thôi, chứ chỉ một mình Giàng Pao viết bài không đúng thì thấy xấu hổ lắm. Buổi chiều hôm ấy Pao không muốn ăn cơm nữa. Cứ nghĩ tới chuyện học kém cỏi là thấy mình chưa đáng để ăn cơm rồi! Có cục nghẹn nó cứ ứ lên cổ. Buồn ghê lắm! Đi nương vác củi còn sướng hơn! Thế này thì còn đáng học nữa không? Các bạn trong phòng chắc coi thường mình lắm.

Bạn Lam thấy Pao không vui thì động viên:

– Phải cố gắng thì mới học tập được đấy Pao ạ!

– Mình không đáng học rồi!

– Không phải thế đâu! Pao đừng nghĩ thế mà! – Ban cũng an ủi Pao, chỉ có Măng là không nói gì, chỉ lặng lẽ tắt đèn đi ngủ.

Đêm đã khuya lắm mà Pao không tài nào ngủ được. Tự nhiên Pao thấy nhớ Mí Háng Tủa, nhớ bố, nhớ mẹ, nhớ em, nhớ cả Sùng Tu nữa. Nhớ không chịu nổi! Thế này thì phải về thôi! Về thôi! Mai sẽ tính tiếp.

Một đêm không ngủ. Hai đêm không ngủ. Đêm thứ ba, chờ các bạn ngủ say. Pao thổi vào tai Lam, thổi vào tai Ban, thổi vào tai Măng nữa. Không ai nhúc nhích!

Pao rón rén bước xuống đất, rời khỏi phòng.

 

  • Cuộc mạo hiểm

 

Đêm trăng suông.

Lẩn vào các bóng cây, thoát nhanh ra khỏi cổng trường, Giàng Pao rẽ nhanh qua phố huyện.

Thị trấn huyện lỵ đã tắt hết đèn, nhưng Giàng Pao vẫn nhận ra con đường nhựa bữa trước xe ôm đã đưa hai bố con Pao tới trường dân tộc nội trú. Pao dự định đi một đêm là sẽ đến nhà. Pao đã từng đi săn ban đêm với bố, cho nên Pao chẳng sợ gì đêm tối. Hơn nữa nỗi nhớ nhà da diết cùng với nỗi xấu hổ học dốt, thua kém các bạn càng thôi thúc Pao bất chấp sợ hãi.

Mạo hiểm đã ăn vào máu trẻ em Mông ngay từ lúc còn bé. Pao cũng như vậy!

Đi trong đêm chừng hai tiếng đồng hồ thì Pao thấy buồn ngủ, dù rằng ngày chủ nhật Pao đã tranh thủ ngủ cả buổi chiều để thực hiện ý định đến đêm trốn khỏi trường. Pao định tạt vào cạnh đường tìm đám cỏ nghỉ lưng, nhưng rồi Pao chợt sợ. Nhỡ lạc đường thì khốn! Không! Không thể nhầm được! Con đường nhựa này sẽ về được Mí Háng Tủa mà! Pao trấn tĩnh tự an ủi.

Càng đi Pao càng thấy rợn rợn. Tiếng côn trùng về đêm nghe càng ma quái. Tiếng con cú đi ăn đêm nhả ra từng âm trầm đục ghê rợn. Tiếng con thù thì như tiếng người mơ hồ âm u ở mãi ngọn cây cao. Tiếng con chim lợn koéc koéc như tiếng lợn con bị chọc tiết. Tất cả những âm thanh ấy đủ sức hù dọa những ai yếu bóng vía. Giàng Pao đã từng nghe những âm thanh thế này trong những đêm ở bản, nhưng lúc đó có người lớn bên cạnh đỡ sợ. Còn bây giờ một mình, chả biết bấu víu vào đâu. Pao muốn khóc vô cùng! Như thể có ma. Mỗi bước đi như có tiếng chân người đuổi theo sau lưng, sợ chết khiếp, không dám đứng lại để đái.

Gần sáng, con đường mòn rẽ vào núi lờ mờ hiện ra. Không rõ có phải con đường rẽ về Mí Háng Tủa hay không? Pao cứ liều bước vào đó. Đây chắc là con đường tắt mà mọi người vẫn kể rằng sẽ đến được bản Mí Háng Tủa. Con suối giống lắm, đường mòn giống lắm, mà đi hàng giờ vẫn không thấy lối rẽ Mí Háng Tủa là đâu. Gặp một vách đá dựng đứng đầy dây rừng bủa xuống. Gặp một cái dốc dẫn vào khu rừng rất nhiều cây gai nhọn. Lại gặp một khe nước có rất nhiều cây ngõa hoang mọc. Chết thật rồi! Lạc rồi! Thì ra đường rừng nhiều chỗ rất giống nhau. Tưởng quen mà không phải. Giàng Pao ngồi xuống phiến đá để thở. Mệt quá! Giàng Pao thiếp đi lúc nào không biết. Ánh mặt trời lọt qua tán cây chiếu loang lổ lên người Pao. Vậy mà Pao không hề biết.

Khi Pao tỉnh dậy thì thấy bụng đói lắm rồi. Đói đến nỗi nhiều con đom đóm bay ở trong mắt.

Giàng Pao tính rằng chỉ khoảng trưa là đến quê, có thể đã có cái ăn. Thế mà giờ chiều xuống rồi vẫn quẩn quanh ở nơi không hề có dấu tích quen thuộc. Pao lẩy bẩy đứng dậy. Nếu đi tiếp sẽ càng lạc, càng nguy hiểm. Nhưng quay lại cũng sẽ rất muộn. Nhìn lên trời thấy từng đụn mây kéo theo nhau trôi qua kẽ lá rừng. Sáng nắng, chiều đã có vẻ sắp mưa. Giàng Pao bắt đầu thấy sợ. Lấy gì tránh được mưa bây giờ? Lại đói! Phải có cái gì cho vào bụng để lấy sức đi chứ.

Nhớ lời bố dặn, đi rừng nếu khát thì tìm cây chuối rừng hoặc chặt dây rừng mút lấy nước, nếu đói tìm cây sung cây ngõa kiếm quả mà ăn.

Giàng Pao đã đói đã khát.

Pao đi ngược lên khe nước để tìm cây ngõa. Rất may, gốc ngõa đầy quả, nhưng chưa có quả chín. Pao hái quả già đưa lên miệng cắn. Chát! Rất chát! Nhưng bụng đói đành phải cố nhai cố nuốt.

Cơn mưa rừng ập xuống khá nhanh. Giàng Pao vội vàng trèo lên khoảng đất cao, lấy lá chuối rừng khum xuống che mưa. Ấy vậy mà vẫn bị ướt khắp người. Rét run cầm cập. Nhìn xuống khe, nước lũ cuốn phăng phăng. Hú vía! Không nhanh chân chạy lên cao thì hẳn đã bị dòng nước lũ kia cuốn phăng đi rồi.

Mấy con chim rừng núp dưới lá cây tránh mưa kêu chíp chíp. Mấy con sóc từ trong hốc cây giương đôi mắt tròn xoe nhìn Pao có vể lạ lẫm. Giá mà ngày thường đi săn, Pao đã cho nó mũi tên. Nhưng giờ thì chẳng còn làm gì được nữa. Pao chỉ muốn thoát khỏi chỗ nguy hiểm này ngay lập tức. Pao thấy tức cả ngực, ù cả tai.

Nước lũ rất nhanh. Nước rút cũng rất nhanh. Người lớn nói rằng từ ngày rừng đầu nguồn bị tàn phá, không còn cây ngăn nước nên thường xảy ra lũ ống. Nước dốc xuống ào ào ghê sợ. Sau cơn lũ lòng khe chỉ trơ lại toàn đá.

Đợi cho nước rút xong, Giàng Pao lại lần tìm đường cũ quay trở lại. Pao hình dung từ sáng tới giờ chắc mọi người đang cuống cuống đi tìm Pao. Các bạn ngủ dậy không thấy Pao đâu sẽ nháo nhào chạy đi báo thày cô giáo. Bạn Lam, bạn Ban, bạn Măng chắc lo cho Pao nhiều lắm. Họ đâu biết Pao đang tự làm khổ mình, nơi đi cũng dở ở càng nguy hiểm.

Giàng Pao lần từng bước tìm lại đường cũ. Chỉ một cơn lũ nhỏ, dấu vết lối mòn nhiều chỗ đã mất tăm.

Đang chăm chú nhìn đường thì một cánh cây khô đổ rầm trước mặt, Pao giật bắn người. Hú vía! Còn may, nếu đi nhanh vài bước sẽ bị cây khô choang vào đầu chỉ có toi mạng.

Pao lo lắm, không đi nhanh ra khỏi khu rừng, nhỡ trời tối thì chỉ có mà chết khiếp. Muốn khóc ghê gớm lắm rồi! Nhưng khóc lúc này sẽ không thể đi được nữa. Sẽ bị thú rừng ăn thịt mất. Bố bảo rằng từ khi con người phá rừng, thú dữ chạy xa không còn nữa. Nhưng biết đâu, có con nào đó còn sót lại, về đêm mới đi kiếm ăn thì sao?

Sau khi ăn no quả ngõa, bụng Pao cứ anh ách. Buồn đái lắm mà không dám đứng lại. Pao đành vạch quần, vừa đi vừa để cái thứ nước đã đỏ ngầu ngầu thành vệt xuống mặt đất. Bỗng một con cáo rừng chạy vút qua khiến Pao giật mình thót tim. Chỉ một tiếng động mạnh cũng làm cho Pao hết hồn. Đằng này lại là một con cáo, làm sao không sợ? Chưa hết sợ thú rừng lại nghĩ đến sợ ma. Đêm nay không ra khỏi rừng nhỡ gặp ma rừng thì đối phó bằng cách nào? Chưa ai gặp ma bao giờ, nhưng Pao nghe ông thày cúng “dờ mủ” kể con ma hút máu người kinh tởm. Họ bảo ông Vàng Seo chết là do ma hút hết máu! Hôm đó Pao còn dán giấy làm phướn đưa hồn ông Vàng Seo về cõi mịt mù!

Pao vừa đi vừa run. Càng mệt càng cồn cào hơn.

Đến lúc hoa mắt, Pao bước như không định hướng.

Pao thấy trong ngực có tiếng bịch bịch như nhiều bước chân đang chạy gấp gáp! Trèo qua tảng đá trơn trượt, Pao ngã xoài. Pao chỉ kịp vồ hai bàn tay xuống rêu đá. Máu thấm thành hai vệt in hằn lên màu rêu. Điếng hết người.

Pao nghe hình như có tiếng xe máy. Rồi lại không thấy nữa. Pao muốn kêu lên mà kêu không nổi. Tiếng người gọi Pao ơi Pao ơi âm vang cả núi rừng. Pao thấy mầu xanh màu đỏ màu vàng bay hỗn loạn trước mắt. Đầu Pao không điều khiển được chân tay Pao nữa rồi. Pao thiêm thiếp như trôi vào trạng thái bồng bềnh. Pao thấy có con vật gì to khủng khiếp thè lưỡi nóng nóng liếm trên mặt.

*

Pao trốn khỏi trường dân tộc nội trú huyện làm mọi người trong trường nháo nhào cả lên. Thày hiệu trưởng có mặt ngay tại ký túc xá. Thày hỏi ba bạn Lam, Ban và Măng trong phòng rằng tối hôm qua các em thấy bạn Pao có biểu hiện gì khác không?

Lam trả lời:

– Chúng em chỉ thấy bạn ý buồn buồn thôi!

Thày hiệu trưởng lại hỏi:

– Các em biết vì sao bạn ấy buồn không?

Bạn Lam lại trả lời:

– Vì khi ở lớp bạn ý chép bài chậm và không biết đặt câu bài luyện tiếng Việt.

Thày hiệu trưởng gặp cô giáo Liên yêu cầu phải đi tìm Pao thật gấp.

Thày nói với cô giáo Liên rằng:

– Uốn cây là phải uốn từ từ.

Cô giáo Liên bảo:

– Em cũng muốn tốt cho học sinh.

Thày hiệu trưởng nói:

– Phải biết tâm lý học sinh vùng cao, rất hay tự ái, rất hay mặc cảm, rất thích mạo hiểm. Cô giáo Liên mới về trường chưa có kinh nghiệm, rồi cô sẽ hiểu. Nhưng ngay bây giờ phải đi tìm bằng được em Pao. Gia đình họ giao phó hoàn toàn con cái cho nhà trường. Xảy ra bất cứ điều gì không tốt đều ảnh hưởng tới nhà trường.

Thầy hiệu trưởng lập tức phân công thành hai nhóm đi tìm Pao. Một nhóm do thày trực tiếp đi về Mí Háng Tủa. Một nhóm do cô giáo Liên đi tìm vào các lối mòn bên đường, xem Pao có tạt vào đâu đó. Thày hiệu trưởng cùng một thày giáo nữa, mỗi người một xe máy tức tốc lên đường.

Cô giáo Liên và hai cô giáo cũng xe máy đi về hướng Mí Háng Tủa. Các cô giáo tạt vào những nhà ven đường hỏi thăm xem có thấy Pao đến đó không? Ai cũng trả lời không thấy! Không có đứa trẻ nào đến đây như lời cô giáo nói.

Cô giáo Liên bồn chồn lo lắng. Không tìm được Pao cô sẽ vô cùng ân hận. Không ngờ những lời nhận xét học tập của cô đối với Pao lại làm em tự ái dẫn tới liều lĩnh như vậy.

Hết một buổi sáng không thấy Pao ở đâu. Quá chiều gặp cơn mưa núi. Liên và hai cô giáo đi cùng đều ướt hết. Nhìn xuống con suối thấy lũ cuốn đục ngầu, Liên càng lo. Lỡ Pao bị trượt xuống suối ở đâu đó thì thật là tội nghiệp.

Cùng lúc ấy thầy hiệu trưởng từ Mí Háng Tủa quay về. Thấy nhóm của cô giáo Liên, cả hai nhóm đều thốt lên:

– Không thấy Pao đâu à?

– Không!

Thày hiệu trưởng thở dài:

– Đã đến Mí Háng Tủa mà không thấy Pao. Bố Pao còn đi săn tận trong rừng. Mẹ Pao lo cuống cuồng, nói khi nào bố Pao về sẽ bảo để đi tìm Pao ngay.

Cô giáo Liên nói:

–  Không thấy Pao thì thật là ân hận. Biết tìm ở đâu?

Thày hiệu trưởng phán đoán:

– Lạc rồi! Chắc chắn Pao lạc rồi! Phải tìm vào bên đường có lối mòn, có thể cậu ấy nhầm mà đi vào đó!

– Rất nhiều lối rẽ vào núi lên các bản cao. Rất có thể Pao đã rẽ lên bản nào đó.

– Đến bản lạ, người ta sẽ hỏi han, rồi sẽ đưa trả nhà trường thôi mà!

– Không đợi đến lúc ấy được! Phải gắng tìm Pao trong ngày hôm nay.

– Khó quá! Chiều tối đến nơi rồi!

Nhìn thấy một lối mòn chạy vào núi, cô giáo Liên chợt nghĩ biết đâu Pao có thể đã đi vào đó. Cô giáo Liên đề xuất:

– Chỉ để một người trông xe máy, còn tất cả vào sâu trong kia tìm xem thế nào.

Các thày cô giáo vừa đi vừa gọi:

– Pao ơi! Pao ơi! Pao ơi!

Tiếng gọi vang vào núi, chỉ thấy tiếng vách rừng vọng lại: ơi ơi ơi ơi!

Vào sâu thêm một đoạn nữa, bỗng cô giáo Liên reo lên:

– Kia rồi! Đúng là Pao đang nằm bên tảng đá đó!

– Đúng rồi! Đúng rồi!

– Phải đưa nhanh về cấp cứu thôi!

Giàng Pao bị thương rồi. Máu thấm ra hai bàn tay. Đầu gối chân bên phải va vào đá xưng tím. Chỉ vì rêu quá trơn, lại vừa bị cơn lũ qua, càng trơn. Bước không vững là ngã ngay. Không thể xem thường được! May các thày cô giáo  đến kịp thời, không thì nằm giữa rừng cả đêm, chắc chết!

Thày giáo cõng Pao chạy rõ nhanh lên đường.

Cô giáo Liên chạy sau thở không ra hơi. Các cô giáo hối hả chạy lên dốc, ngã dúi dụi. Một cô giáo nói:

– Vẫn là may!

Cô khác tiếp lời:

– Lại còn may? Suýt toi mạng cả lũ! Hôm nay mà không tìm được Pao chắc là sẽ mất ngủ cả đêm ấy chứ!

Giàng Pao nghe thấy hết những điều các thày cô giáo nói. Pao thấy hối hận vì để mọi người phải vất vả vì mình. Pao ứa nước mắt.

Đoàn xe máy chạy băng băng trên đoạn đường núi về bệnh viện của huyện.

 

*

Tỉnh dậy, người đầu tiên Giàng Pao nhìn thấy là cô giáo Liên. Cô giáo mắt thâm quầng vì thức đêm chăm sóc cho Giàng Pao. Cô nắm tay Giàng Pao:

– Em làm cho cô lo quá!

Giàng Pao không biết nói thế nào. Pao quay mặt đi lén lau giọt nước mắt. Pao nghĩ trong đầu: đúng là vì Pao đã làm cho mọi người vất vả. Pao muốn tự đập vào đầu mình, tự đánh vào chân mình. Sao trước lúc trốn khỏi trường dân tộc nội trú Pao lại nông nổi vậy? Pao không muốn nói với ai, sợ mọi người ngăn cản. Lí nhí mãi trong miệng Pao mới nói:

– Em xin lỗi cô giáo.

– Em không sao là cô mừng rồi, mau khỏe để về còn đi học với các bạn.

– Vâng, cô đừng ghét em nhé!

– Cô không ghét Pao, chỉ thương Pao, sau này em đừng dại dột.

– Em… em có… bị… kỷ luật không?

– Không! Biết được lỗi để sửa là tốt rồi! Thế Pao có giận cô giáo không?

– Không mà! Tại cái đầu em còn ngu, nên em buồn thôi!

– Phải học mới giỏi được! Em chưa biết, học rồi sẽ biết, chứ không phải cái đầu nó ngu đâu!

– Nhưng học khó quá!

– Khó mới phải học Pao ạ! Các bạn khác cũng thấy khó, cũng cố gắng học đấy thôi!

Đang nghe cô giáo Liên dặn dò thì bố của Pao cũng từ Mí Háng Tủa tới. Trong chiếc lù cở có mấy bông hoa chuối rừng đỏ tươi và mấy khóm phong lan. Bố Pao ào vào phòng như mang nguyên không khí của nắng gió nương bản. Pao nhìn thấy bố, chực khóc.

Cô giáo Liên chào bố Pao rồi ra ngoài để hai bố con nói chuyện với nhau. Bố Pao kéo ghế ngồi cạnh Pao rồi nói:

– Pao à, mày chưa khôn bằng con cầy vòi. Cầy vòi ăn quả gắm ba năm còn biết tìm về cây cũ. Mày chưa giỏi bằng con khỉ lông vàng. Con khỉ lông vàng tận trong rừng sâu còn biết đường ra nương bẻ ngô. Mày mới đi khỏi Mí Háng Tủa ít ngày mà về Mí Háng Tủa cũng lạc! Làm cho các thầy cô giáo phải lo đi tìm mày vất vả. Mày phải xin lỗi các thày cô giáo. Từ nay phải chăm chỉ học, không được bỏ về nữa nhé!

Giàng Pao trả lời:

– Học tiếng Kinh khó lắm!

– Khó cũng phải học chứ!

– Nhưng con thấy xấu hổ với các bạn!

– Càng xấu hổ càng phải học mà. Mẹ mày cũng dặn phải cố học đấy. Đừng như con gà con lợn chỉ biết ăn. Mà phải học, đừng ngu dốt như bố mẹ. Không được trốn về Mí Háng Tủa đấy! Biết nghe cái lời của bố mẹ chưa?

Giàng Pao gật đầu lia lịa:

– Con nghe rồi mà!

Yên tâm. Bố Pao đi tìm cô giáo Liên đang ngồi ở chiếc ghế hành lang bệnh viện huyện. Bố Pao nói với cô giáo Liên:

– Tôi cảm ơn cô giáo Liên và trường dân tộc nội trú huyện. Tôi chẳng biết nói gì, chỉ tặng cho cô giáo Liên và các thày cô giáo bông hoa chuối rừng và cây hoa phong lan, lấy tận trên núi đấy. Còn cháu Pao đã hứa học tập tốt rồi. Nó sẽ không bỏ trốn về Mí Háng Tủa nữa đâu, cô giáo ạ!

 

  • Mùa phong lan nở hoa

 

Đã hai mùa hoa phong lan lặng lẽ trổ những cánh hoa mượt mà phất phơ trong gió. Giàng Pao không còn nhút nhát, tự ti như ngày đầu mới đến lớp học. Pao đã mang cây khèn và tiếng khèn của người Mông đến với bạn bè.

Mỗi buổi chiều Pao và các bạn thường ngồi trên chiếc ghế dưới dàn hoa phong lan hát các bài dân ca. Pao thì hát dân ca Mông. Bài hát làm xao xuyến cả núi rừng. Bạn Lam thì vừa đàn tính tẩu vừa hát bài “khảm hải” của người Tày. Bạn Ban thì “khắp” lời trong trường ca “Sống trụ xon xao” của người Thái. Bạn Măng thì hát điệu “páo dung” duyên dáng trữ tình của người Dao. Mỗi bạn mang một nét riêng của dân tộc mình, mỗi dân tộc lại có cái hay riêng, không sống chung thì làm sao hiểu được nhau?

Có lần lên lớp, cô giáo Liên gợi ý cho mỗi bạn kể một câu chuyện cổ của dân tộc mình. Bạn Ban kể chuyện về Lò Lạng Trượng tổ tiên của dân tộc Thái Tây Bắc. Đã là người Thái ai cũng biết câu chuyện ông tổ họ Lò đã cùng dân bản  khai khẩn vùng đất Mường Thanh, Mường Lò, Mường Than, Mường Tấc thành những cánh đồng rộng lớn màu mỡ. Bạn Măng kể về Bàn Vương thủy tổ của dân tộc Dao. Bạn Lam kể về chuyện vượt biển đi tìm tổ tiên vô cùng gian nan của dân tộc Tày, qua điển tích “khảm hải”. Còn Giàng Pao kể sự tích “quả bầu”. Đấy là trận đại hồng thủy, muôn nơi đều bị ngập nước, sự sống không còn trên mặt đất. Trời đã thả quả bầu cứu loài người. Trong quả bầu là người các dân tộc. Nước rút. Trời dùi một lỗ ở quả bầu cho người chui ra. Người Mông ở cạnh quả bầu ra trước nên ở đỉnh núi cao. Người Dao, người Khơ Mú ra tiếp, ở lưng chừng núi. Người Tày, người Thái ra sau, ở đồi thấp. Còn người Kinh ra sau cùng, thì ở đồng bằng.  Người Mông, người Khơ Mú ở gần mũi dùi bị khói nên da có đen hơn một chút! À, sự tích này các dân tộc khác cũng kể gần giống nhau. Mỗi dân tộc chỉ thêm bớt một vài chi tiết. Các dân tộc đều là anh em cùng sinh ra trong một quả bầu đấy.

Giàng Pao, Lam, Măng và Ban càng thân nhau hơn.

Vào đúng ngày chủ nhật, Pao rủ các bạn đi xem hội “gàu tào” của dân tộc Mông ở bản ngay gần huyện. Thế là mùa xuân đã đến. Mùa phong lan ra hoa. Cũng là mùa hoa mận trắng nở rộ. Cũng là mùa hoa đào thắm tươi. Cũng là mùa hoa ban khoe sắc.

Mới sáng sớm, Pao đã đánh thức các bạn dậy để còn đi hội.

Con đường thoai thoải dẫn lên khu ruộng bậc thang. Ở đó, người từ khắp nơi đổ về. Từ các bản làng cheo leo trên núi, nam nữ thanh niên Mông kéo tới địa điểm tổ chức lễ hội. Nam thanh niên với bộ cánh mới nhất, quần rộng ống, chiếc áo trắng cổ bẻ, lộ ra bên ngoài tấm áo khoác lanh là một đoạn ve áo điểm xuyết, như cố khoe một chút làm mẽ. Con gái váy áo hoa sặc sỡ, như thể con công, bước đi nhún nhảy, làm cho tấm váy cũng vung vẩy theo nhịp bước.

Những thửa ruộng bậc thang sau mùa gặt còn trơ các gốc dạ. Trên những đám ruộng là các trò chơi hoang sơ và vô cùng hào hứng. Chỗ thì chơi chọi gối, chỗ chơi tù lú thu hút đám thiếu niên. Chỗ chơi đu quay, chỗ chơi đẩy gậy, chỗ múa khèn, thu hút đám nam nữ thanh niên. Đu quay là cây gỗ thẳng, dài và chắc, được đặt trên chiếc trụ, trai gái đu hai đầu đẩy cho chiếc đu quay thành vòng tròn. Mấy cô gái cậu trai mới lớn rủ nhau hát ống. Hai chiếc ống tiễn bằng nứa, nối lại với nhau bằng sợi lanh gai. Hai người đứng cách nhau một đoạn. Một người áp ống nứa nghe người kia hát những câu tỏ tình. Chỉ người nghe mới hiểu! Ông bà già và đám trung niên thì vào hội hát múa. Đâu cũng thấy tiếng cười tiếng nói râm ran.

Ở trên bãi đất phẳng như sân khấu, các anh thanh niên trổ tài múa khèn. Âm thanh của những chiếc khèn tấu lên thật là rộn rã. Các thanh nữ xúm quanh ra chiều động viên. Được cổ vũ, các chàng trai càng múa hăng. Miệng thổi khèn, thân tạo dáng, chân nhảy tới nhảy lùi, điệu bộ như con gà trống tốt mã trước đám gà mái. Có anh giữ hơi đến mươi phút, vừa thổi khèn vừa lăn tròn trên đất mà khèn vẫn không rời khỏi miệng. Giàng Pao nghĩ mình chưa thể múa khèn điêu luyện như vậy.

Đến nơi chơi đu quay, Giàng Pao rủ Ban một bên, còn bên kia là Măng và Lam cùng chơi. Ôm lấy đầu cây gỗ, hai bên chạy đẩy cho quay tròn. Khi cây gỗ quay tít, mọi người mới đu chân lên để cho vòng quay xoay tròn tự nhiên, lúc lâu mới dừng lại. Đơn giản thế mà nhiều người chơi không biết chán.

Theo Pao, ba bạn cùng chơi đến mệt lử. Nhưng mà thích. Đến trò chơi đánh tù lú thì chỉ một mình Pao biết chơi, còn ba bạn đều chịu, chỉ biết đứng ngoài cổ vũ cho Pao. Mồ hôi Pao nhễ nhại. Càng chơi càng ham, các bạn đều khen Pao thiện xạ, bổ nhát nào đích đáng nhát ấy, làm cho tù lú của đối thủ văng xa không ngóc được đầu dậy.

Hết trò chơi nọ Pao lại rủ các bạn sang trò chơi kia. Đến trò chơi đẩy gậy, Pao bảo mọi người cùng chơi. Lúc thì đấu tay đôi, lúc thì từng cặp hai người một bên. Trò chơi này đòi hỏi sức mạnh và cách chọn và giữ thế tiến công. Ai dốc sức ra ngay từ ban đầu rất dễ thất bại vì sớm mệt. Mà phải biết giữ sức. Chọn lúc đối phương yếu thế mới tấn công. Pao luôn thắng. Cặp của Pao cũng luôn giành chiến thắng. Góc ruộng là từng đôi nam nữ ném pao. Quả pao nhồi bông được ném qua ném lại không mấy khi rơi.

Măng nói với Ban và Lam:

– Pao thế mà khỏe thật! Trò chơi gì của người Mông cũng thạo.

Lam nói:

– Hội “gàu tào” của người Mông nhiều trò chơi thượng võ thật. Còn hội “lồng tồng” của người Thái và người Tày cũng vui nhưng ít trò chơi hơn. Dân làng tập trung vào cúng thần, cầu cho mùa màng tốt tươi, lắm lợn nhiều gà, mọi nhà no ấm. Khi nào đến hội “lồng tồng” tất cả chúng mình lại cùng nhau đi chơi nhé!

– Tất nhiên rồi! Chúng mình sẽ còn phải đến quê bạn Măng để xem lễ “lập tỉnh” ra sao nữa chứ!

– Đúng rồi! Chúng mình cùng chung quả bầu ngày đại hồng thủy. Bây giờ lại cùng học với nhau. Phải đến với nhau chứ!

– Chúng mình đã được đi hội “gàu tào”, thích thật! Thích thật!

Tan hội bốn bạn mới ra về. Trời đã xế sang chiều.

Nghe thấy tiếng kèn lá và tiếng hát bên suối, Lam hỏi Giàng Pao:

– Tiếng kèn với tiếng hát dân ca Mông à?

Giàng Pao giải thích:

– Chàng trai cô gái đang muốn nhau mà! Họ hát đối nhau đấy! Thấy thích nhau thì nhờ người tổ chức “cướp vợ” thôi!

– Sao lại cướp?

– Cướp giả vờ thôi! Theo phong tục mà! Người con gái phải đồng ý thì người con trai mới dám. Đấy họ đang hát rằng:

 

Trời đã sang xuân, cái gì gọi xuân về?

Chim “dì li” vẫy đuôi kêu ríu tít gọi xuân về

Nó bay chập chờn trên tít đỉnh núi

Mình chẳng có lòng thì thôi

Có lòng, mình tiễn ta đi thêm một quãng!

 

Trời đã sang xuân, cái gì đem xuân tới?

Chim “dì li” vẫy cánh hót líu lo đem xuân tới

Mình không có lòng thì chớ

Có lòng, mình đưa ta tiếp một đoạn!…

  

  • Giàng Pao đi tham quan

 

Cả lớp được trường dân tộc nội trú cho đi tham quan. Mỗi học sinh được phát một chiếc mũ đỏ như màu hoa dâm bụt để dễ nhận nhau chỗ đông người.

Lần đầu được đi tham quan xa, các bạn ríu rít như chim. Từng đứa tự chuẩn bị đồ dùng cá nhân. Pao hỏi cô giáo Liên:

– Em mang chiếc sáo Mông theo có được không cô giáo?

Cô giáo Liên bảo:

– Cứ mang theo cũng được! Lúc nào không tham quan, em thổi sáo cho mọi người nghe càng vui.

Thày giáo hiệu trưởng căn dặn:

– Lớp có nhiều em ngoan, học giỏi, nên nhà trường thưởng cho các em đi tham quan. Lần này các em đi tham quan tận Hà Nội, Hải Phòng. Các em người dân tộc nào mặc trang phục dân tộc ấy. Các em phải giúp đỡ lẫn nhau, cùng đi theo nhóm quản lý nhau để khỏi thất lạc nhé!

Nhóm của Pao vẫn bốn người, do Lam làm nhóm trưởng.

Tập trung ở sân trường lên xe. Các bạn ai cũng quần áo mới, mỗi dân tộc mặc theo trang phục dân tộc mình, nên trông như một vườn hoa, mỗi đứa mỗi vẻ, rất là đẹp. Có cả các bạn người Khơ Mú, người Mường, người Cao Lan, người Phù Lá, người Kinh…

Cô giáo Liên mặc áo cỏm Thái bó sát người. Hàng mắc pém trước ngực óng ánh như bạc, khiến mọi người khen cô giáo xinh quá!

Trên xe, các em hát bài “Chữ về bản mường” rất vui.

Mùa theo mùa lên nương

Chữ như làn gió xanh

Mùa theo mùa xuống bản

Chữ làm cơn mưa lành…

Hát và reo đùa. Chưa bao giờ học sinh trường dân tộc nội trú lại phấn khích như vậy.

Tới Hà Nội đã chiều. Lái xe đưa ngay tới công viên Thủ Lệ. Gớm, ở Hà Nội mà cũng có rừng cây đẹp thế. Bao nhiêu là cây to bóng mát. Ôi kìa, nhiều chuồng thú quá. Giàng Pao kéo tay Lam, Lam kéo tay Ban, Ban kéo tay Măng đi xem các con thú dữ bị nhốt trong chuồng. Ở miền núi mà chưa khi nào Pao được nhìn thấy con voi, con hổ, con gấu. Chỉ nghe bố Pao nói, loài thú dữ này ở rừng Khỉ Lăn xưa cũng có, nhưng người đi săn bắn chết hết chúng rồi. Ôi kìa, những con chim công, chim trĩ cực đẹp, màu lông sặc sỡ thế, con công còn biết múa nữa. Lại còn có cả con đà điểu chạy trên sa mạc nhanh hơn cả ô tô! Có cái chữ hướng dẫn đó. Lại còn có cả đàn cá sấu. Mắt nó cứ lim dim, mà tinh lắm. Eo ôi! Đừng thò tay chân gần là nó đớp đứt phăng liền đấy!

Nhóm bốn người của Giàng Pao chạy chỗ này xem, lại chạy chỗ kia xem. Đấy đấy! Cả con trăn to tướng, nuốt hết veo con gà. Bao nhiêu thứ hay, bao nhiêu con vật lạ. Không được đi tham quan thì làm sao biết được! Bỗng dưng Giàng Pao lại nghĩ đến Sùng Tu, nó thiệt thòi quá! Giờ này chắc nó đang lấy củi hay hái rau trên nương.

Đi chơi công viên Thủ Lệ tới gần tối mới về nhà nghỉ văn hóa dân tộc. Ai cũng mệt nhoài. Mệt nhưng mà thích.

Sớm hôm sau đi Hải Phòng. Ôi đường đi rộng thế. Xe ô tô ngược xuôi nhiều như đàn mối, chạy cuống quít chẳng lúc nào nghỉ.

Xe chạy thẳng ra Đồ Sơn. Trời ơi, chưa bao giờ Pao tưởng tượng ra cảnh đẹp như vậy. Xe đi ngay bên bờ biển vòng vèo. Lần đầu tiên Pao và các bạn nhìn thấy biển. Có chỗ nhìn không thấy bờ bên kia. Từ bé đến giờ Pao chỉ nhìn thấy rừng. Bây giờ mới thấy biển. Nước sao nhiều thế?

Người hướng dẫn nói, nơi này do người dân lao động khai phá nên mới có. Ngay khu du lịch Hòn Dáu cũng do lấn biển để làm khu vui chơi giải trí cho khách từ mọi nơi đến. Các cháu học sinh từ miền núi về cứ vui chơi cho thỏa thích. Lát nữa ra tắm nước biển.

Không thể nào tả hết thích thú khi được chạy đuổi nhau nô đùa trên sóng. Cô Liên luôn nhắc các em không được ra chỗ nước sâu. Không biết bơi lỡ chết đuối.

Khi được gọi trở về tham quan cảng Hải Phòng, ai cũng còn như tiếc nuối không muốn rời nơi bãi tắm.

Xe chạy qua phố phường sầm uất, đường phố đỏ một màu hoa phượng để ra nơi bến cảng. Thành phố nhiều hoa phượng thế. Đỏ rực cả trời. Trường của Pao học chỉ có vài cây phượng. Mùa hè ra hoa thưa thớt chứ không dày đặc như ở đây. Xe dừng ngoài cảng. Bao nhiêu tàu to tàu nhỏ đỗ san sát. Có cả những chiếc tàu chở hàng đang rời bến. Tiếng còi vang âm trong nắng. Có cả tàu nước ngoài đến bốc hàng. Mỗi nước lại treo một loại cờ lạ mắt. Nhìn những chiếc tàu lớn bằng mấy chục chiếc nhà ở miền núi, Pao ao ước giá mình được một lần đặt chân lên tàu ra khơi.

Cả một ngày tham quan đất cảng, xe trở về, ai cũng thấm mệt. Riêng Pao bảo: thấm gì với leo núi. Ở nhà đi nương còn mệt hơn nhiều. Nói xong Giàng Pao cũng gà gật ngủ. Xe lắc lư, đưa Pao vào cơn mơ thật lạ lùng. Về Mí Háng Tủa, chắc chắn Pao có khối chuyện để kể với bố, với mẹ, với cả bạn Sùng Tu nữa…

 

  • Bài làm văn của Giàng Pao

 

Bây giờ thì Giàng Pao đã không còn nhút nhát như năm đầu tới trường dân tộc nội trú nữa. Pao được cô giáo Liên giao cho phụ trách văn nghệ của lớp. Điều đó làm Pao thích thú. Không ngờ cái giọng hát của núi rừng và tiếng khèn của người Mông lại được cô giáo chú ý thế.

Sắp hè đến. Nhà trường cho học sinh luyện tập văn nghệ tham gia hội diễn. Lớp của Giàng Pao có bốn tiết mục. Ngày nào ngoài giờ lên lớp, Pao cũng cho mọi người ôn luyện. Toàn những điệu dân ca của các dân tộc mà các bạn đã thuộc từ khi còn nhỏ do cha mẹ dậy.

Giàng Pao lại nhớ năm trước vào dịp xuân, trường cho học sinh đi thi cắm trại và trồng cây. Lớp nào cũng hăng hái làm sao cho trại mình đẹp nhất. Lớp mình trồng được nhiều cây nhất. Lớp Pao đã đi kiếm cây rừng làm trại và kiếm hoa rừng để trang trí. Khi tổng kết được thày giáo hiệu trưởng khen. Thày bảo, ngày xưa cha ông mình khi cuộc sống còn hoang dã cũng tìm những vật liệu ở rừng để làm nhà cửa. Lớp của em Giàng Pao đã biết tận dụng những vật liệu sẵn có của núi rừng để làm trại là một ý tưởng độc đáo đáng khen ngợi. Ban giám khảo đã chấm cho trại của lớp Giàng Pao giải đặc biệt. Giờ văn nghệ, Giàng Pao cũng nói với các bạn, cứ hát những bài dân ca của dân tộc là hay lắm rồi.

Đến phần trồng cây, thày hiệu trưởng khen tất cả các lớp đã trồng được nhiều cây đúng kỹ thuật. Thày giảng giải:

– Trường của chúng ta vừa học vừa làm. Các em thấy không? Núi rừng của chúng ta đang bị khai thác kiệt quệ. Rừng đầu nguồn bị tàn phá. Nạn phá rừng làm nương. Nạn cháy rừng luôn xảy ra, dẫn đến năm nào cũng lũ lụt. Nguyên do là ở con người không biết giữ gìn và bảo vệ thiên nhiên. Nhà trường chúng ta phải góp phần lấy lại màu xanh cho rừng. Các em sau này ra trường sẽ là những hạt nhân tích cực bảo vệ rừng, giữ lấy màu xanh cho rừng. Các em đồng ý không?

Tiếng học sinh đáp đồng ý vang một góc rừng!

Nhìn ra phía đường mòn, Giàng Pao nhận ngay ra bố và Sùng Tu đang đi tới. Bố Pao chào mọi người rồi nói với Giàng Pao:

– Pao à, xin phép thày giáo cô giáo trường dân tộc nội trú đi, cô giáo Kinh ở trường Mí Háng Tủa chết rồi. Về Mí Háng Tủa với bố để đưa tiễn cô giáo Kinh.

Thày giáo hiệu trưởng và cô giáo Liên nói đồng ý cho Pao được nghỉ ba ngày về đưa tiễn cô giáo ở bản Mí Háng Tủa.

Sùng Tu ôm lấy Giàng Pao kể:

– Hôm qua mưa to, khi đi học về qua khe gặp lũ, em mình và bạn nó trượt chân bị lũ cuốn đi. Cô giáo Kinh đã chạy theo nhảy xuống khe cứu em mình. Vật lộn với dòng nước, đưa em mình lên bờ, nhảy xuống cứu bạn khác thì bị dòng nước cuốn đi. Thương cô giáo Kinh quá!

Kể từ ngày Giàng Pao đi học trường dân tộc nội trú, đây là lần thứ hai Sùng Tu đến tận huyện để gặp Giàng Pao. Lần trước Sùng Tu đến bảo rằng mới mười lăm tuổi, bố mẹ bắt lấy vợ để có con dâu về nhà làm đỡ. Giàng Pao nói, nếu Sùng Tu lấy vợ “tảo hôn” thì sẽ không chơi với nhau nữa! Sùng Tu đã nghe lời Giàng Pao.

Bây giờ ba người phải đi thuê xe ô tô về Mí Háng Tủa để đưa cô giáo Kinh về quê. Tới dốc đường mòn vào Mí Háng Tủa thì gặp dân bản và mấy bạn học sinh đưa quan tài cô giáo Kinh ra đường cái, để đưa lên ô tô. Chiếc quan tài làm bằng gỗ của rừng Khỉ Lăn.

Dân bản Mí Háng Tủa rơi nhiều nước mắt tiễn cô giáo Kinh. Giàng Pao khóc to lắm. Thế là không được gặp lại cô giáo Kinh rồi! Khi Pao lên huyện học trường dân tộc nội trú đã đến trường Mí Háng Tủa chia tay cô giáo. Cô dặn dò Pao nhiều điều. Và Pao đã hát điệu dân ca Mông cho cô giáo nghe. Bây giờ Pao lại hát để tiễn cô giáo lần cuối nhé!

Con chim câu kỷ giàng

Bay lên nương buổi sáng…hu hu!

Con chim câu kỷ giàng

Bay lên nương buổi chiều…

Hu hu! Giàng Pao không thể hát thêm được lời nào nữa! Pao nhìn vào chiếc quan tài có cô giáo Kinh nằm trong đó. Cô không nói được gì rồi! Cô có biết rằng Pao đã về kịp để đưa cô giáo về quê không?

Đưa cô giáo Kinh lên xe, bố Pao cũng nổ ba phát súng kíp đoàng đoành đoàng để tiễn cô tìm về với tổ tiên.

*

Đã mấy tuần kể từ ngày chia tay tiễn biệt cô giáo Kinh. Trở về trường dân tộc nội trú Pao lại lên lớp học. Bây giờ thì chẳng thể nào Pao còn bị lạc khi về Mí Háng Tủa như lần trốn trường dân tộc nội trú. Đường rẽ vào Mí Háng Tủa, năm trước Pao đã về trồng ba cây gạo. Bây giờ cây đã mọc cao rồi. Pao hình dung sau này, mỗi mùa xuân đến, hoa gạo đỏ trời, tha hồ cho các loại chim về làm tổ, hót ríu ran.

Lên lớp, cô giáo Liên khen Pao dạo này chữ đẹp vở sạch hơn trước nhiều. Nhưng còn vui hơn vì được nghe cô nhận xét về bài tập làm văn của Pao. Cô giáo Liên ra đề rằng: “Em hãy kể chuyện về quê em”.

Pao biết kể thế nào nhỉ? Pao nghĩ thế nào thì viết thế vậy! Giờ cô giáo Liên đọc từ đầu tới cuối bài kể chuyện quê của Pao cho cả lớp nghe.

Quê em ở bản Mí Háng Tủa, tít trên núi cao. Nhà em có bố, có mẹ, có một đứa em bé chưa biết làm gì. Chỉ biết nằm trên lưng cho mẹ cõng. Bố em hay mang súng kíp lên rừng đi săn con thú. Mẹ em làm nương rất khổ. Mẹ em vừa tra ngô vừa hát: “trên núi cao mây phủ, dưới đồng thấp mây tụ”. Em có người bạn tên là Sùng Tu rất hay đi rừng hái rau, lấy củi với em. Sùng Tu đẽo gọt con tù lú đẹp lắm. Em và Sùng Tu vẫn hay chơi tù lú với nhau. Em đi học ở trường dân tộc nội trú, còn bạn Sùng Tu phải ở nhà, không được đi học vì đông các em, phải giúp bố mẹ. Em thương bạn Sùng Tu không được học như em.

Bản Mí Háng Tủa của em rất là nhiều gió. Mùa hè gió đầy nhà thì rất mát. Mùa đông gió vào nhà trước cả người. Nhà em chỗ nào gió cũng vào được. Chỗ nào cũng rét. Em thương bố mẹ, thương đứa em. Chỉ muốn làm cây củi đốt lên cho mọi người ấm thôi! Rừng quê em bị phát làm nương nhiều lắm rồi. Rừng Khỉ Lăn không còn cây to nữa. Em chỉ muốn trồng cây cho rừng để không còn lũ ống, không làm chết cô giáo Kinh như vừa qua. Em muốn rừng quê em rất nhiều cây xanh đến tận đỉnh núi. Em không biết kể gì nữa! Hết!

Cô giáo Liên khen văn của Pao viết hồn nhiên trong sáng, thật thà. Thật thà, hồn nhiên đều là đức tính tốt của con người. Đức tính con người tốt, thì bài văn tốt chứ sao!

Cô giáo Liên cho điểm cao nhất! Pao vui như có tiếng chim reo ca trong ngực! Pao hôn lên cuốn vở làm bài. Thế là môn tiếng Việt mà Pao rất lo đã không còn kém nữa.

Ngày hội diễn văn nghệ của trường dân tộc nội trú đã đến. Sân khấu được bố trí loa đài hẳn hoi. Ánh sáng chiếu rực rỡ.

Cả lớp đồng ca bài “Trường dân tộc nội trú yêu thương” do thày giáo hiệu trưởng sáng tác:

Chúng em yêu mái trường

Dưới vòm cây xanh mát

Mở ra bao trang sách

Đưa em vào tương lai…

Các bạn trong đội văn nghệ của lớp đã biểu diễn thật nhiệt tình. Lên sân khấu ai cũng đẹp, cũng giỏi. Tiết mục múa khèn của Giàng Pao được nhiệt liệt hoan nghênh. Ai cũng bảo rằng Pao đã ra dáng chàng trai Mông của núi rừng Tây Bắc.

 

  • Chuyện kể tiếp ở Mí Háng Tủa

 

Dân ca Mông hát rằng: “Bài hát sắp hết lại không hết

                                Hết như cây hoa đào tiếp vào cây hoa mận…”

 

Ba cây gạo do Giàng Pao trồng đã ra hoa đỏ rực trời. Chim đã từng đàn kéo về đùa vui, hót vang rừng núi.

Khe nước cô giáo Kinh bị lũ cuốn chết do cứu em của Sùng Tu năm xưa đã được ngăn lại làm máy phát điện nhỏ, đem ánh sáng cho cả bản Mí Háng Tủa. Đã có con đường xi măng qua khe nước gốc sung gần nhà Sùng Tu rồi. Đường từ quốc lộ lên bản xe máy đã vào tận nơi, không phải đi bộ khổ sở như ngày nào. Chỗ đất bằng cạnh gốc sung, trẻ em Mông lớn lên vẫn chơi tù lú ở đó.

Rừng Khỉ Lăn đã được trồng cây mới. Lá chồi còn non nớt, đang bắt đầu lên xanh. Chàng thanh niên Sùng Tu được dân bản bầu làm trưởng thôn. Đáng kể hơn là Sùng Tu đã không phải cưới vợ “tảo hôn” từ lúc mười lăm tuổi như bố mẹ Sùng Tu ép.

Bản Mí Háng Tủa bây giờ đàn ông ít người say sỉn. Cũng không còn cảnh đàn ông suốt ngày chỉ biết đi săn và uống rượu, xong rồi đánh vợ, đá nồi, chửi con. Đàn ông Mông đã biết chăm cái vườn, trồng cái cây.

Lớp học Mí Háng Tủa đã là trường phổ thông cấp một, có cả lớp năm. Vài năm nữa chắc sẽ có cả lớp sáu lớp bảy. Ở đấy có thày giáo Giàng Pao vừa giỏi dạy học, vừa thổi khèn thật là hay. Lớp học đã có bàn ghế cẩn thận. Học sinh đi học đã có áo ấm, đã có bí tất và dép, không còn phải đi chân đất như hồi Sùng Tu và Giàng Pao đi học nữa. Tiếng hát ngây thơ của các em nhỏ đã làm cho bản nhỏ ấm áp.

Người Mông ở cheo leo núi cao. Tay với đến mặt trời, mặt trăng, gần chân mây. Nơi mà từ những kẽ đá cũng mọc ra hạt ngô căng mẩy, nơi mà khó khăn mọi người vẫn vui cười, vui hát…”.

Lớp học không chỉ là nơi học chữ, mà còn là nơi các em nhỏ vui chơi và đọc sách báo. Chính nơi này Pao đã tặng cô giáo Kinh cành hoa tớ dảy của núi rừng để cô cắm bình hoa. Cô giáo Kinh ngày ấy đã động viên Giàng Pao đi học ở trường dân tộc nội trú của huyện. Pao đã hát cho cô giáo Kinh nghe điệu dân ca Mông: “Con chim câu kỷ giàng, bay lên nương…”.

Chỉ có điều, ở Mí Háng Tủa sương mù quanh năm bao phủ thì chưa bao giờ khác.

 

Yên Bái, 15/2/2012