Con nuôi thầy phù thủy

CHƯƠNG 1

Thấy Ông Út sang chơi, ông Năm mời ngồi rồi bắt ngay vào chuyện

– Ông còn nhớ ngày xưa, hổi tôi và ông rủ nhau xuống làng Vạn. Cái làng đã gắn liền với thất bại của ông và tôi không?

Ông Út nói ngay:

– Nhớ quá đi chớ. Thất bại vì hai chúng ta máu mê cờ bạc…

Ông Năm lại nói: Ông có nhớ cái lão trùm xóc đĩa không? Lão đó là phù thủy!

-Đúng, đúng!

Ông Út gật gù, rồi như nhớ đến kỷ niệm vui buồn, ghi một bước từng trải, ông bắt đầu kể chuyện. Cô Năm con gái ông Năm cũng lắng nghe, còn ông Năm điểm thêm ý mình vào những câu: Tại sao? Vì sao lại như vậy, ông nhớ chớ… Hồi ấy chúng tôi đi đánh bạc thua một keo cực nặng, không còn xu nhỏ dính túi. Ông Út nhấc chén rượu lên môi rồi đặt xuống. – Mất tiền phải đi làm thuê. Nhưng cái chính là sợ. Tôi trước kia cũng vào loại coi trời bằng vung. Ma quỷ, thần thánh chỉ là người đời đặt ra để bịp bợm lừa đảo. Nhưng từ cái trận đó tôi sợ, tôi tin vào số trời, tin vào định mệnh, tin vào thầy phù thủy!

Dạo đó, tôi và ông Năm hay rủ nhau xuống làng Vạn đánh bạc. Đánh cũng bữa được bữa thua. Thua ít, được cũng không là mấy. Sau mùa màng rỗi rãi chơi bời cho phải mặt đàn ông. Dù chơi nhưng hai lần đặt tiền đánh không được là về, không cay cú, khát nước. Rồi vào dịp Tết nhà ông Năm bán con heo đúng giá hai nghìn đồng. Ông gặng mãi bán một con được hai nghìn hai năm chục. Bên tôi cũng bán một con giá nghìn bảy, nâng lên được hai nghìn. Bàn nhau mang tiền đi chợ tết, trước hết ghé vào làng Vạn đánh bạc đã. Đánh cái số bán hời thêm thôi. Còn số tiền đúng giá quyết không đụng đến. Có thua mất khoản tiền đó cũng không lấy gì làm xót ruột

Lớp cô Năm bây chừ lớn lên không hiểu gì về đánh xóc đĩa nên tôi nói qua một chút để cô hiểu: Hội xóc đĩa mở giữa đồng, trong một nhà vắng. Dùng hai đồng tiền một bề có chữ, một bề trơn. Cho vào chiếc đĩa rồi úp bát lên. Người chủ song bạc xóc xóc đặt xuống. Mọi người đều lắng nghe để đánh. Nếu hai sấp hoặc hai ngửa là chẵn, còn một đồng tiền sấp một đồng ngửa là lẻ. Người chủ sòng bạc có quyền mua chẵn hoặc mua lẻ. Mua tức là đồng ý đánh cuộc với người đã đặt tiền kia. Ví như họ đánh lẻ mà mở ra chẵn thi chủ sòng bạc thắng. Nếu mở ra mà lẻ thì chủ sòng phài trồng tiền trả họ. Họ đánh một trăm đồng, chủ sòng phải trả một trăm đồng. Đánh xóc đĩa phải có nghề mới hy vọng thắng. Họ lắng nghe khi đồng tiền rung rung trong bát một lúc rồi nằm xuống. Cách nằm ra sao thì mặt có chữ ở dưới, mặt trơn ở trên.

Hai chúng tôi đến chỉ đánh cái khoản tiền lẻ bán heo có lãi. Cũng không đánh ngay. Ngồi xem đã. Bao giờ có người được luôn hai ván mới xoay xoay đến bên họ đặt khoản tiền của mình vào. Đánh bạc cũng vận đỏ vận đen. Cho đến lúc khuya lắm rồi. Gà gáy lần một. Quanh chiều xóc đĩa đã có người lăn ra ngủ. Được thua chưa ngả hẳn về chủ sòng bạc hoặc người đánh, tiếng bán chẵn bán lẻ đều đều. Chúng tôi bấm nhau theo dõi vẫn chưa dám chìa tiền ra đánh. Đồng tiền của mình quý lắm chớ. Tần tảo từng ngọn rau, hạt cám mới góp thành. Phải thận trọng. Hôm ấy trời lất phất mưa ông Năm hè?

– Phải, trời lất phất mưa!

Ông Út nói tiếp:

– Cô Năm thông cảm, cô là người cách mạng, sẽ cho chúng tôi mê tín. Nhưng chuyện quả thật vậy, mười mấy năm rồi mà tôi cũng chưa rõ lý do.

Lão chủ sòng bạc cũng ở nơi khác đến đánh thôi. Thuê nhà giữa đồng, người có nhà thuê để sẵn chiếc hộp bằng gỗ, ai được phải bỏ vào đó ít nhiều tiền gọi là “hồ”. Đi với lão chủ sòng bạc là thằng bé lên mười đang ngủ bên cạnh. Thằng bé chẳng phải con lão, người gày nhom, nằm co hai đầu gối gần sát cằm. Ngồi cũng lâu, người đánh chưa hăng, lão chủ sòng mót đi tiểu. Xóc xóc bộ bát đĩa xong. Chờ một số người đã đặt tiền lẻ tẻ về phía chẵn. Lão quay lại phát mạnh vào mông thằng bé làm nó giật mình hốt hoảng ngồi dậy. Lão quát:

– Chưa gì đã nhíu mắt, dậy xem bàn để tao đi tiểu!

Thằng bé dùi dụi mắt, ngồi chập vàng ngó chăm chăm vào bát đĩa, canh cho lão chủ sòng ra ngoài. Nó nhìn ngơ ngác, rồi như sực tỉnh, mếu máo nói:

– Cháu là người ở, khổ lắm, bị ông đánh đập luôn. Ông nhiều tiền hết mở sòng bạc ở chỗ này lại đến chỗ nọ. Cháu cứ phải đi theo. Còn tiền, ông còn đánh bạc. Thôi thì chú bác đánh cho ông một lần cháy túi, để cháu được ngủ trọn giấc. Hết thức khuya dậy sớm. Đây nè, cháu nhấc bát lên cho chú bác xem. Đừng ai nói lại với ông. Ông sẽ đánh cháu. Nếu cháu bị đuổi thì xin chú bác dăm đồng gom góp mang về cho má cháu.

Thằng bé đưa tay nâng chiếc bát lên, mọi người nhìn rõ ràng trên đĩa một đồng sấp một đồng ngửa: Lẻ! Đánh lẻ! Cả những người đã đánh chẵn cũng rút lại đánh sang phía lẻ.

Nghe tiếng guốc đi vào, thằng bé úp bát về chỗ cũ, lấy chiếc bê rê đang đội đặt lên trên, ngồi chăm chăm nhìn như sợ người khác mở bát mất. Cả sòng bạc đều lo cho nó. Sợ lão chủ biết được.

Lão chủ vẫn bình thản quát thằng bé:

– Ra chỗ kia ngồi, trông khật khừ như gà ăn phải bọ xít! – Lão nhìn mọi người: Xin các vị đặt tiền cho!.

Tất cả mọi người rút tiền trong túi ra đặt vào phía lẻ, tôi và ông Năm mừng rơn. Vận đỏ đến nơi rồi, một được thành gấp đôi. Hai nghìn của tôi được thành bốn nghìn. Hai nghìn năm chục của ông Năm thành bốn nghìn năm trăm. Bốn nghìn tiêu đến cuối năm vẫn chưa cạn. Tết đến tha hồ rượu, gà, sắm quần áo mới cho vợ con. Tôi còn tính mua chiếc pác – đơ – xuy. Khoác vào, đi đêm hôm vừa đẹp, vừa ấm, nâng cao giá trị con người.

Mọi người cố giữ vẻ bình tình, cầu mong lão không thay đổi thái độ. Thấy lão đặt tay lên bát, mọi người lo nếu lão bán lẻ thì mất hết. Nhưng trông lão không có ý định gì là bán lẻ, lão lấy miếng trầu ra nhai. Mở chiếc túi đeo bên hông, lão nhẩm đến tiền, rồi hỏi:

– Không ai đánh chẵn, toàn lẻ cả à? Chuyền này định cho tôi kiệt quệ chắc. Được làm vua thua làm giặc. Này mua lẻ! Lão đặt tay lên bát. Có người đi về phía sau lưng lão định chặn khi lão hất bát lên thấy lẻ. Phải chồng một chiều đầy tiền kia, hoảng quá có thể lão bỏ chạy.

Đột ngột lão vất chiếc bát vào lòng người ngồi gần, phơi rõ hai đồng tiền trên chiếc đĩa màu xanh. Hoàn toàn khác! Không còn một đồng sấp một đồng ngửa như lúc nãy thằng bé nâng bát lên cho mọi người xem. Mà là hai đồng tiền sấp! Trơ bề sấp nhẵn nhụi bạc ác! Lão chủ sòng vơ giấy bạc nhét vào túi, trước sự sững sờ của mọi người, khi đã moi hết đồng cuối cùng ra đánh mong một trận thắng thật to.

– Vì sao đồng tiền trong bát thấy rõ ràng một sấp một ngửa, mà trở thành hai sấp. Lão thôi miên chăng? Hay đồng tiền có ma? Tôi run chân không đứng lên được nữa. Ông Năm cũng vậy, thất tha thất thểu như chết đuối vừa mới vớt lên. Mất hồn. Đau xót. Tết nhất, vui vẻ, ước mơ, mất sạch! Ông Năm đau một trận suýt tử. Không những rụng tóc mà còn rụng hết cả răng, ông uất quá. Uất vì đồng tiền đổi trắng thay đen, sấp ngửa ngay trước mặt mình, mà mình chịu bó tay.

Khi hai anh em đã hoàn hồn, người tinh tỉnh, vợ con hết càu nhàu về tiền bạc, mới rủ nhau xuống Điện Tân xem thầy phù thủy bắt ma ở nhà ông Chín Toại.

Nhà ông Chín Toại vào loại giàu nhất xã. Tường xây làm cải tiến giữa mới và cũ. Quanh nhà tường cao người đứng ngoài không nhìn vào được. Trền tường cắm mảnh chai và căng dây thép gai. Chó nhà ông có hàng đàn, có cả loại bêc-giê, nhảy cắn ngang cổ người.

Ông Toại có chú ruột mới chết. Thầy cúng nói ông chết vào giờ độc. Người chết vào giờ độc ban đêm sẽ đưa ma quỷ về bắt người thân đang sống. Biết vậy, chập tối ông Toại đóng cửa kín mít. Hai ba người nằm chung giường để ma về mê hoặc người nọ có người kia kéo lại. Đêm xuống mọi người im ro nghe ngóng. Bỗng có tiếng đập nhẹ vào cửa. Cả nhà nín thở lắng nghe. Tiếng đập lại tiếp tục. Rồi nhiều tiếng đập dồn dập. Những tiếng đập cửa kỳ lạ không giống bàn tay con người. Thế là rõ rồi! Người chết phải giờ xấu, đã đưa ma quỷ về định hành hạ con cháu.

Ông Chín Toại là người táo tợn liền bấm đèn, cầm dao nhọn dậy mở cửa, thì chẳng thấy gì cả. Ông đi vòng quanh sân không hề thấy một dấu tích để lại. Ông trở vào, vừa nằm xuống giường lai nghe tiếng đập cửa thình thịch. Đêm hôm sau phải thuê người trong xóm đến ngủ với ông Toại, còn đàn bà trẻ con đi ngủ nhờ nhà người khác. Vẫn không yên! Tiếng đập cửa liên tục. Ông Toại sợ. Vía ông có cứng mấy cũng không chịu nổi với ma quỷ. Ông phải lập đàn mời thầy phù thủy về cúng lễ, yểm bùa ngay, kẻo để lâu nguy hiểm. Hôm cúng yểm ma chúng tôi có đến xem. Thầy phù thủy cho âm binh hiện qua lá bùa tròn đặt trên mâm đồng. Thầy đọc phù chú, bắt quyết, các ngón tay đan chéo vào nhau. Đạo bùa trên mâm dần dần đi. Tài quá, sợ quá. Họ còn nói chuyện là có lần thầy bực mình vì chuyện gì đó, đã cho âm binh về ban ngày, giữa chợ, giậm chân vào hầu hết các hàng bán cháo, làm cho cháo nhão nhoẹt.

Thầy cho âm bình đi đuổi ma quỷ, cúng suốt ngày, đến chiều thầy lại lấy đạo bùa, viết chữ và dán vào nơi đêm ma về đấm cửa. Quả nhiên từ đêm đó nhà ông Toại yên tĩnh, không có tiếng đấm cửa nữa. Cả nhà thở phào. Sắp lễ đến tạ ơn thầy phù thủy.

Điều ngạc nhiên hơn là thầy phù thủy có đạo quân đáng sợ đó, chính là lão chủ sòng bạc đã làm cho chúng tôi sạt nghiệp. Tuy lão mặc áo dài đen, đội khăn đen, quần trắng, chúng tôi vẫn nhận ra. Và càng nhận ra hơn là thằng bé đi cạnh. Cái đầu nó cạo trọc lốc. Thằng bé dạo trước đã ngủ cạnh chiếu bạc, bị đập dậy, mở bát cho chúng tôi xem hai đồng tiền.

“Chu cha, tụi mình chơi phải thầy phù thủy”. Tôi nói rất nhỏ với ông Năm như sợ âm binh nghe. “Hỏng, chúng mình vậy là hỏng. Quỷ ma còn sợ thầy nữa là người”. Tụi tôi lặng lẽ lủi ra ngoài. Hỏi thăm mới biết thầy phù thủy nhận thằng bé làm con nuôi, dạy phù chú, truyền nghề để nó nối nghiệp.

– Cái chính là ở chỗ đó ông Út ạ. – Ông Năm đỡ lời rồi tiếp:

– Tại sao tôi muốn nói chỗ đó. Là vì tôi gặp thằng bé con nuôi thầy phù thủy năm nớ.

– Ông đi gặp hắn thật sao? – Ông Út sửng sốt hỏi. – Gặp hắn ở đâu? Vẫn tiếp tục làm phù thủy chớ?

– Không tiếp tục làm thầy phù thủy nữa. – Ông Năm đưa be rượu ngửa cổ tu một hớp. Hắn đã đổi lốt. Ông cũng không tinh. Hắn qua trước mặt mà ông không biết. Chẳng phải ai xa lạ. Chính hắn là anh cán bộ huyện, hiện đang ở xã ta, chỉ đạo du kích đánh địch.

– Làm sao mà ông biết?

– Tôi quên sao được khuôn mặt nớ. Khuôn mặt chút nữa làm tôi phát khùng.

– Cẩn thận, phải cẩn thận nghe ông. Thời buổi này “nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” (1)

– Tôi sai thì chết bỏ lại con Năm!

– Đừng thề độc miệng như vậy ông, thời buổi bom đạn. Nhưng ông có nhớ thằng bé ở với thầy phù thủy đó quê xã nào không?

– Lạ chi hắn con mụ Hộ ở xã Điện Tiến. Có hai anh em, cha bị địch giết.

– Còn anh cán bộ này?

– Lưng chiều anh ta đến tìm con Năm để bàn chuyện lấy mìn về đánh cầu. Gặp anh ta, tui thấy khuôn mặt quen quá. Lúc đầu tui tưởng mình đã quen bố hoặc anh anh ta. Sau hỏi thăm quê quán tự dưng tôi sực nhớ đến khuôn mặt thằng nhỏ dạo trước. Anh ta tưởng không liên quan chi đến lần đánh bạc đó nên đã kể vanh vách làng xã, cha chết lúc một tuổi, phải đi ở với ông Trẩn, phải đánh địch bằng tâm huyết của mình chứ không phải bằng phù phép. Anh cán bộ đó xuất quỷ nhập thần quá. Một đoàn tàu quân sự của địch chạy trên đường ray giữa vùng cát trắng xóa, nắng tưởng rộp da chân. Cứ năm phút là một tốp lính tuần canh đi qua, con chuột cũng bị bắt nát. Rứa mà anh ta đánh đổ, diệt gần trăm tên, phá hủy vô kể vũ khí. Nép chỗ mô? Cây không có, nước không có. Bãi cát rộng đến cây số. Người thường mà đánh được à? Phải nấp trong mây, thu nhỏ người như con kiến, phải có phép của Tề Thiên Đại Thánh mới che được cặp mắt của Mỹ ngụy.

– Ba nói chi lạ vậy. Trận đánh đó có con.

– Im., mày để tao nói tiếp. Lúc ra ngoài Hòa Vang bị lộ. Địch vây ba phía còn một phía là song. Vòng vây khép tròn dần, địch dùng que sắt thọc xuống từng tấc đất. Vậy mà không thấy anh ta. Người chớ có phải con cá con tôm chi mà bảo quẫy cái đuôi là mất tăm.

– Thôi ba! Ở Hòa Vang anh ấy có cơ sở, có hầm bí mật. Còn nhiều chuyện về cách thoát vòng vây địch không tiện nói để ba hiểu.

– Ừ thì cơ sở mật. Vậy tao hỏi chuyện ngay xã ta. Du kích bị càn, bị quét, bị vây, chết hết lớp này đến lớp kia, sao anh ta không chết, một sợi tóc cũng không đứt. Còn cái hôm địch cày ủi. Ruộng vườn cây cối bị đào xới, tất cả lở loét, không còn bờ, không còn nhà. Cày ủi cho tróc cơ sở. Cho sập hầm bí mật. Ngày đó thằng Nheo, thằng Chút nhảy lên ném lựu đạn rồi chết. Còn anh Hai Pháo, anh Năm Tân, anh gì nữa cùng về về một lần với anh cán bộ huyện đội. Ba anh kia ngồi im trong hầm cho xe nó ủi vào. Họ chết. Mình biết họ chết. Địch không biết họ chết. Số lớn ấy đã chết, đã hy sinh. Vậy mà anh cán bộ huyện đội không chết. Khi đó anh ta cùng ở với mọi người, cùng ở giữa khu cày ủi, răng mà anh ta không chết. Phải có phép thần, phải có âm binh đỡ ngược đỡ xuôi, bịt mắt kẻ thù cứu anh ta ra chớ!

– Con nói cho ba nghe. Anh ấy sống hôm đó cũng là chuyện may rủi. Có một dãy đất giữa hai chiếc xe, chúng không cày đến. Đất đỏ trùm lên. Thằng lái xe này tưởng thằng kia cày rồi. Chỗ đó lại chính là hầm bí mật. Con cùng ngồi chung với anh ấy con biết.

– Ừ, giờ việc chi mày cũng bênh. Anh ấy ở đâu mày ở đó. Làm như mày biết lắm ấy. Ăn phải bùa rồi.

Ngoài đường có tiếng người vừa đi vừa hát. Họ nhận ra tiếng Tư Thìn, Thực ra Tư Thìn đến đã khá lâu. Không thấy Năm ra họp, Lê Mình bèn cử Tư Thìn vào gọi, rồi dặn Tư Thìn làm nhiệm vụ gác phía bắc. Tư Thìn nấp vào cạnh hầm nghe chuyện biết được cô Năm là Đảng viên. À cái cô trông thường vậy lại là lãnh đạo đội du kích.

Hoạt động trong vùng địch, ai làm gì đều không biết việc của nhau. Tư Thìn còn biết Lê Minh, anh chàng cán bộ huyện là con nuôi thầy phù thủy. Gớm thiệt!

Tư Thìn có lối đi rất nhẹ, chân này không đặt kịp bước chân kia, bao giờ cũng như len giữa hai hàng ghế. Cuộc sống du kích kham khổ quá. Bật ra bật vào, Tư Thìn thấy ngán, Tư Thìn dao động. Nhất là trong đợt địch cày ủi.

Lê Minh đoán biết nên bảo Tư Thìn gọi cô Năm và giao nhiệm vụ gác. Anh không muốn Tư Thìn nghe kế hoạch chiến đấu sắp tới. Không may Tư Thìn nghe trộm được câu chuyện giữa cô Năm và ông Năm. Tư Thìn có ý khác nên quay lại đường cũ vừa đi vừa hát to rồi trở vào nói:

– Cô Năm ơi, Sao chậm vầy. Tôi chạy một hơi tới đây…

CHƯƠNG 2

Lê Minh đeo chiếc bồng trên lưng theo lệnh của huyện xuống xã yếu nhất phát động chiến tranh nhân dân, tổ chức, củng cố đội du kích, đánh địch tại chỗ, phá cho được âm mưu bình định cấp tốc của chúng.

Du kích xã bị địch lất mất phần đất phải sống gửi sống nhờ, đã bị dồn lên rừng, đêm đêm mò về hoạt động. Phải bốn tiếng đồng hồ mới đi qua khỏi khu vực trắng. Bao nhiêu vất vả trên đường vừa đi vừa thăm dò, đề phòng địch phục kích hoặc gài mìn. Đến làng vắng teo vắng ngắt như đứng giữa bãi bom B52. Thấy anh đội du kích mừng lắm, bắt vào vào công việc ngay:

– Chưa nắm được tình hình địch anh ạ, vì dân bị dồn hết vào khu tập trung Nổng Đình, du kích không thể cài người vào trong đó được. Trinh sát vừa cho biết có ông Năm mới ở khu tập trung trốn về. Ta tới hỏi xem. Nói để anh biết trước ông Năm là tính gàn gàn, rất ghét địch nhưng cũng nhiều lần ông chửi cả du kích.

Minh khoác ba lô vào xã, đến ngay nền đất đen kịt còn ấm hơi nóng của ngôi nhà bị đốt cháy, được thưng lên bằng mấy tàu lá động đình (1-lá móc), tạm bợ hơn cả lều anh chàng chăn vịt đàn lênh đênh trên đồng nước. Trong đám tàu là động đình đó, một ông cụ răng rụng, miệng móm, hai tay huơ huơ trước bếp lửa, mắt trầm tư như đang nghĩ một điều gì xa xôi lắm. Nghe tiếng động, ông quay ra nhìn. Tư Trơn cất tiếng chào. Ông chẳng trả lời, tiếp tục huơ tay trên bếp than không còn lửa ngọn. Ông là người không ưa gì địch thì đúng rồi. Bao lần bị dồn vào khu tập trung ông đều trốn về Chúng tức quá. Tuy là tức nhưng bước đầu chúng cũng phải cắn răng để giữ cho được cái gọi là “chính quyền vì nhân dân” chúng cho ô tô đến, dỡ nhà ông xuống, bốc tất cả lên xe, từ rui mè, cột, xà, tranh tre đến bát đũa, quần áo, rượu, thuốc, chó gà để gọn trong một thùng ô tô tải.

Lúc đầu ông không chịu đi, nhưng tính toán thế nào ông trả lời: “đi thì đi!” Ông cầm cây dao nhọn, hộp thuốc và bật lửa rồi nhảy lên xe. Trời nắng hanh, gió quạt mạnh đưa hơi nóng hầm hập, ông cuốn thuốc, bật lửa châm hai ba lần không bén. Ông lấy tý bông tẩm vào thùng xăng chỗ xe lắc lư làm xăng chảy ra. Ông réo hơi thuốc thứ nhất, phả khói, réo hơi thứ hai. Ông nhìn quanh và châm lửa vào sô tranh tre, rui mè đang lủng củng dồn lên nhau trong thùng xe. Tranh tre bốc cháy bén sang quần áo, quần áo bén sang thùng xăng. Lửa rừng rực bốc cao. Thùng xăng nổ như một quả bom. Ông kêu cứu. Ông khóc lóc, ông mắng chửi: Mất sạch rồi từ đôi đũa đến chiếc bát mẻ cũng không còn nữa. Ông đòi chính phủ quốc gia đền. Ông chửi thằng nào nghĩ ra cách dỡ nhà ông cho lên xe. Ông chửi thằng nào dồn ông lên xe. Ông chửi thằng nào lại dồn ông vào khu tập trung. Tên lái xe cũng mất hết, lủi thủi đi bộ về chi khu quân sự, nó đi vội như sợ ông giữ lại bắt đền hoặc sơ cây dao nhọn trong tay ông, trong tay một người đã mất hết gia tài dễ sinh ra liều lĩnh! Khi thấy tên lái xe đã đi xe, ông cất tiếng cười, vươn ngực tở mùi khói, mùi xăng, khoan khoái. Ông đã làm được hai việc, chống về khu nhà tập trung và đốt cháy chiếc xe. Ông vén quần đái vào đống lửa rồi đi ngược chiều tên lái xe. Ông về nơi nền nhà thân yêu. Với cây dao nhọn, chẳng cần ai giúp mà cũng không có ai gần để giúp, ông làm xong chiếc nhà khác. Nhưng tụi địch đâu có để ông yên. Nhà ông làm giữa khu vực chúng đang chủ trương làm vành đai trắng. Bốc trắng để tạo một khoảng cách với rừng, chặt đứt mắt xích liên lạc khu tập trung và khu du kích. Nếu để nhà dân là để liên lạc của du kích, du kích sẽ nắm được hoạt động của tề ấp, của hội đồng xã sẽ về quấy rối, đánh úp, ném lựu đạn, giài trái. Bốc trắng, du kích về hoạt động tới làng là sáng hẳn, lớ quớ chưa có nơi ẩn nấp bị dân vệ bắt ngay.

Ông Năm dựng nhà chưa được một ngày chúng đã lù lù kéo đến thét lác:

– A, xin chào cái lão già đốt xe hôm nọ. Lão làm xong nhà khác rồi. Tươm tất quá. Chắc là trạm liên lạc của Việt cộng. Cho đi đời anh em ơi! Chúng vỗ túi quần tìm cái hộp quẹt, rải xăng quẹt lửa. Lửa thiêu đốt ngôi nhà các cột còn tươi, ngọn lửa liếm đỏ đôi mắt ông Năm.

Hai thằng tới kéo tay ông lôi về khu tập trung. Ông không đi, Chúng cứ kéo, Ông lăn xuống đất. CHúng mạnh hơn, khỏe hơn nhưng vẫn không kéo được ông. Bốn thằng tới, thằng nắm tóc, thằng đẩy sau lưng, hai thằng nắm hai cánh tay. Ông ngồi bệt xuống đất. Ông lê hai chân. Gót chân bị các viên đá nhọn trên đường rạch chảy máu, những giọt máu nhỏ xuống dài ngắn đánh dấu từng đoạn đường chúng kéo ông đi. Dù sao thì ông cũng yếu sức hơn, chống lại không được, ông nghĩ ra cách khác. Ông cắn vào bàn tay, cắn vào cánh tay chúng. Không ăn thua. Không để lại dấu vết gì trên bàn tay chúng cả. Răng ông rụng hết rồi, Hai hàm chỉ còn lợi. Ông ước răng đừng rụng hết, chỉ cần còn một chiếc, ông cũng cắn cho chúng chảy máu phải buông ông ra. Chúng kéo ông tới đường cái, trói quặt hai tay ra sau, ném lên ô tô chở về khu tập trung.

Ông chửi Mỹ, chửi ngụy, tức lên chửi cả du kích: đánh chác gì như gãi vào lớp da đất. Non yếu, sợ sệt thì im mẹ nó đi, đì đẹt để địch nó quấy!

Chúng ném ông vào căn nhà có ghi số ở ngoài cửa đã dành sẵn đề tên ông. Ông nằm chửi lung tung đến lúc mệt lử, sắp ngủ thì một thằng lính mon men tới hỏi ông có khát nước không? Ông bảo: “Mày hỏi bố mày hay hỏi ai? Giam từ sáng tới giờ mà không khát à?”

Nói hỏi ông: “có uống không? Ông bảo “uống gì?” Nó mang tới côca côla. Ông ngửi rồi chửi: “Thứ nước nhập của Mỹ này tao đái vô, có chè xanh cho tao một hớp!”

Chiều đến nó hỏi: “Có muốn ăn không?” Ông chửi: Sao không muốn ăn? Mày giam bố mày từ sáng tới giờ đã có miếng chi vào bụng”. Nó mang cơm sang. Ông hỏi: “Thứ chi vậy?” Nó bảo “Gạo sấy” Ông đá phốc một cái túi gạo sấy văng xuống đất. “Tao ỉa vào cái thứ gạo sấy! Có cơm tám thơm gặt hái tên cánh đồng này với giò chả mới gọi là chính phủ nuôi tao, mới gọi ông Thiệu nuôi dân. Còn những cái kia là cúi lưng như con chó, họ vất cho đem về, sao gọi là chính phủ được!”

Đêm đến, ông trốn về đào sắn, nhóm lửa nướng ăn. Trên nền nhà bị ông đốt chặt mấy tàu lá động đình dựng tạm lên che sương. Khi du kích đến gặp ông thấy ông ngồi im, anh nào cũng sợ. “ Mỹ ngụy ông còn chửi nữa huống hồ tụi mình”. Số du kích liêng liếng mắt, người này bảo người kia lên tiếng trước. Ngồi một lúc Tư Trơn lên tiếng nói:

– Dạ ông có tức tụi cháu không ạ?

Ông hỏi nhát gừng:

– Tức chi?

– Tức vì tụi cháu đánh chưa mạnh nên địch càn quét xuống, đốt nhà của ông và của nhân dân.

Ông Năm cười. Cũng chẳng phải ông cười. Ông hơi nhếch mép, khểnh tý hơi, nửa như chê trách nửa như hờn dỗi của người già đối với con cháu. Ông nói:

– Đúng là tao có tức, nhưng tức tụi bay thì ít mà tức tao thì nhiều. Tao tức vì không còn một chiếc răng nữa. Giá như tao còn lấy một chiếc răng thì bốn thằng chớ sáu thằng cũng không kéo được tao đi. Tao cắn cho bàn tay tụi nó, cánh tay tụi nó nát dập ra. Đằng này không còn chiếc răng nào nữa, chỉ còn hai hàm lợi bằng lì, cắn vào cứ trơn tuồn tuột. Tao ước chi răng đừng rụng hết còn dăm ba chiếc hoặc cùng lắm còn lấy một chiếc tao cũng đủ sức chống lại dù chúng khỏe, chúng đông. Đời người có lúc chỉ ao ước một điều bình thường vậy thôi tụi bay ạ. Nghĩ lại cả thời tuổi trẻ cho đến lúc tuổi già tao đã phung phí sức lực có lúc không mục đích, không chí hướng. Còn tụi bay. Tụi bay lớn lên sức đang khỏe, đời còn dài, Tụi bay còn đủ ba mươi hai chiếc răng. Tụi bay phải sử dụng sức khỏe đó, hàm răng đó vào đâu cho thích hợp. Đánh đúng chỗ, cắn đúng chỗ, cắn đúng kẻ thủ. Đừng cắn vào anh em bè bạn, người của mình, quê hương mình nơi đã đổ bao nhiêu mồ hôi sức lức của ông cha.

Ông chuyển thành câu hỏi:

– Chớ đêm nay tụi bay về làm chi?

Tư Trơi trả lời:

– Dạ chúng cháu về nắm bắt tình hình địch.

Vẫn giọng nhát gừng ông hỏi:

– Nắm để làm chi?

– Dạ để đánh

Ông dùng bàn tay này bẻ những đốt của các ngón tay kia kêu răng rắc, hỏi:

– Có dám đánh thật không? Nếu dám đánh thật thì: Ba mươi thằng đang ngủ ngoài Cồn Chùa kia kìa. Chúng không dám ngủ trong ấp. Tao thấy nó cài cả mìn cơ lây mo. Dám đánh thì tao dẫn đường. Tao chỉ còn dây dao nhọn, gia tài, nhà cửa chúng đốt hết rồi, nhưng tao cũng xin làm một mũi.

Tiếng đội du kích lao xao, gần như cùng một ý:

– Đi, đi. Ta làm một quắn trả thù, không gì nhục bằng để mất đất đai, mất nơi đứng chân hoạt động.

Bây giờ Minh mới lên tiếng. Mình đề nghị chưa nên. Đánh địch không riêng gì đội du kích, không riêng gì năm hay mười người. Phải đông, phải cả xóm, cả xã. Già trẻ, trai gái chung sức đoàn kết đánh địch. Đánh đúng lúc, đúng chỗ, hiệp đồng với toàn huyện, toàn tỉnh, toàn miền. Đánh để giữ đất, không phải chi giết ba mươi thằng mà phải xóa sổ cả đại đội, tiểu đoàn, tiến lên giải phóng quê hương. Mặt khác phải chuẩn bị vũ khí đánh lâu dài. Bây giờ tính xem ta có bao nhiêu vũ khí. Đã đánh được xe tăng, xe cày ủi, phá được cầu chưa? Vậy tôi đề nghị, chúng ta phải học cách đánh mới.

Minh đặt ba lô xuống, mở ra. Du kích thấy trong ba lô của Minh chỉ có hai quả pháo lép, ít miếng thuốc bộc phá, một gói kíp nổ, vòng dây cháy chậm và mươi viên ký ninh chữa sốt rét.

Minh nói tiếp:

– Không phả lúc nào cũng có vũ khí của trên chuyển xuống cho, đường vận chuyển bây giờ khó khăn lắm. Vũ khí phải đưa tận miền Bắc vào, cần ưu tiên cho quân chủ lực. Còn du kích và bộ đội địa phương chúng ta phải một phần nào tự chế tạo lấy vũ khí. Các đồng chí chắc cũng hiểu rất rõ ràng đêm nào, giờ nào cũng có pháo địch bắn về hướng chúng ta trong số đó có những quả không nổ. Các đồng chí hãy tìm nhặt những quả không nổ đó đem về như tôi đã làm đây.

Minh lật qua lật lại quả pháo không nổ mang nhãn hiệu U.S.A anh đã nhặt ở bìa rừng cho mọi người xem. Đêm ấy Minh hướng dẫn cho du kích cách cưa quả pháo lép, cách lấy kíp nổ, lấy thuốc và làm lại theo kiểu của mình thành quả mìn, có sức công phá mạnh. Minh còn hướng dẫn cách đặt mìn, cách ngụy trang, chỗ khác nhau giữa đánh xe cày ủi và xe tăng. Anh nói kinh nghiệm mà bản thân đã làm, kinh nghiệm các huyện tỉnh, kết quả số xe đã phá được. Du kích xã thích lắm, vũ khí ngay trên chỗ mình đứng mà lâu nay mình không biết.

Còn thời gian, Minh đưa hai quả pháo lép mang theo, nhồi thuốc, cài kíp nổ, tìm chỗ chon, ngụy trang để du kích học cách làm.

Ngày đầu tiên về xã, Minh không quay trở lại rừng, anh xoa đất bột lên người, nằm giang nắng một ngày, đêm đến chọn chỗ đào hầm bí mật, và đó cũng là ngày có tiếng nổ đầu tiên của Minh, của du kích làm tan xác hai xe cày ủi với tám tên giặc đi theo.

Minh bàn với du kích là nên tổ chức một màng lưới đi nhặt pháo lép. Số đó gồm các cụ già, trẻ em, các chị con mọn. Hễ thấy có quả bom chưa nổ nào thì họ nhặt về hoặc chỉ chỗ để du kích tới lấy. Các em tham gia rất hăng, rất đều vì mỗi lần các em đi tìm nhưng con bò lạc thường gặp pháo lép. Các em buộc luôn quả pháo vào lưng bò đem về. Nhặt pháo về càng nhiều, địch chết càng lắm.

Từ hôm ông Năm trốn khỏi khu tập trung, một số người nữa cũng trốn theo ông, rồi số người trốn ngày càng tăng lên, họ thưng tạm lá động đình, bắt đầu gọi tên xóm, tên xã mình như trước kia đã gọi

Họ cũng tìm nơi chạy trốn, hoặc xuống hầm bí mật khi mỗi lần địch tới càn. Cùng từ cái hôm gặp Lê Minh, ông Năm bắt đầu nhặt pháo lép. Ông có cách tìm pháo lép riêng của ông. Đêm đêm ông không ngủ, nằm nghe tiếng “đề – pa”, ông đếm xem có bao nhiêu tiếng, rồi ông lại lắng nghe tiếng “A-ri-vê”. Nếu tiếng “A-ri-vê” ít hơn là ông biết có quả không nổ. Ông ngồi dậy vác thuổng theo lối pháo vừa nổ đi tới. Nó bắn ở chỗ nào, ông biết chắc chắn như người chỉ huy quân sự tài tình xác định một vật thể trên thực địa khi trong tay không có bản đồ, địa bàn, bởi đất làng ông, mỗi thước đất là một lịch sử, một kỷ niệm, một bước thăng trầm, đau khổ hay gian truân của một gia đình, một dòng họ, có khi của cả một thôn, một xã. Ông biết, ông đi tới bổ nhát thuổng xuống, nâng của đạn lên, mang về nộp du kích. Ông giao mỗi quả pháo ít nhất phải diệt năm tên và du kích phải chia cho ông một tên

Đội du kích dần được củng cố, bắt đầu thực hiện các hình thức chiến thuật. Tập kích ban đêm, chống càn ban ngày. Có lực lượng trụ bám trên làng xã cũ và cài người hoạt động hợp pháp trong ấp chiến lược. Ngày nào xe cũng đổ, tuần nào cầu cũng sập. Trực thăng phành phạch suốt ngày vừa soi rìa tìm mồi, vừa cấp cứu bọn bị thương.

Nhưng rồi tình hình ổn định thì lòng người không ổn định, đấy là lúc ông Năm phát hiện ra Lê Minh là con nuôi thầy phù thủy

CHƯƠNG 3.

Tuổi nhỏ ít khi được quyết định được, hướng đi và công việc tương lai của mình. Tương lai rồi sẽ tốt đẹp hay âm u ỉu xìu là do quyết định từ bước đi ban đầu từ, khi bước vào học tập và chọn nghề, tuổi nhỏ cũng hay bị cái hào nhoáng, không có gốc lừa phỉnh. Lên tám tuổi Lê Minh đã được đến trường và Minh rất say mê với những hiện tượng khoa học. Làm sao mà mấy mảnh thuốc đạn đen đen khi vừa gặp lửa lại bốc khói xì xì, làm sao mà quả mình lại đột nhiên bùng nổ? Như những đứa trẻ khác, Minh hay hỏi, hay thắc mắc và cũng hay hành động. Có lần Minh hỏi thầy giáo “ Tại sao lại có mưa, có nắng, có sấm sét và có những tia sáng nhằng nhằng lóe lên trong bầu trời đen kịt?” Thầy bảo em hãy tạm công nhận vậy đã. Ở lớp dưới chưa thể giải thích hết được hiện tượng hãy chờ lên lớp trên. Minh học say mê lắm, và tin rằng một ngày nào đó, mình sẽ giải thích được mọi chuyện xung quanh. Đanh lúc vậy thì má bảo Minh thôi học. Tiếng má buồn buồn:

– Con ạ! Nhà ta không đủ tiền để cho con ăn học.

Minh nói chen vào:

– Con đi học có tốn kém lắm chi lắm đâu má. Hay là từ mai mỗi ngày con ăn một bữa thôi.

– Con ơi! Con có hiểu rằng, mỗi đứa bé đến trường phải có quấn áo tươm tất, phải đóng học phí, phải ngày lễ, ngày tết thăm thầy, thăm ông hiệu trưởng với những gói quà mà má dành dụm hàng năm mới đủ tiền mua. Mặt khác con chỉ cần học một vài năm biết hết mặt chữ, để lúc cầm giấy phân biệt được phía ngược phía xuôi là được rồi. Học làm gì cho lắm. Giàu có như ông Chánh Tân, ông Bát Sáu, đậu cử nhân, tú tài, bằng này bằng nọ, qua tận bên Pháp học, cuối cùng cũng thất nghiệp trở về chạy vạy mãi mới nhận được vào trường tư. Mình không có tiền để ăn học như họ được đã đành mà học xong cũng không ai cho công việc.

– Vậy má bảo con làm gì nào?

– Con ở nhà giữ Út để má đi sớm hơn và về muộn hơn, kiếm gánh củi gánh rau đi ra chợ bán.

Minh nói ngay:

– Hay là má để con đi ở với nhà giàu, lấy tiền về cho má.

Má cười:

– Ai nhận con làm gì, con đang nhỏ.

– Họ nhận má ơi, Má đồng ý đi: nếu không là người ở, con sẽ là con nuôi họ.

– Ừ, nếu họ hiếm hoi, họ nhận làm con nuôi thì đỡ khổ hơn.

Chuyện xảy ra từ đêm hôm trước khi Minh đang nghĩ đến đi học, học mãi cho đến tuổi hai mươi nên không chú ý, giờ nghe má nói thôi học, Minh sực nhớ tới. Đó là hôm nghịch chơi cùng mấy đứa trẻ quanh xóm, Minh gặp một ông mặc áo dài đen, đội khăn xếp đen, quần trắng, cắp ô ngang nách, từ phía làng dưới đi lên, miệng lần rầm. Tụi trẻ cùng lớp từ đứa nghịch nhất, láo nhất, giàu sang nhất đến đứa hiền lành nhất, nghèo đói nhất cũng đều bỏ dở các trò chơi, chạy đến đứng thẳng người chấp hai tay trước ngực vái, rồi mỗi đứa một kiểu chào:

– Lạy thầy ạ!

– Thưa thầy ạ!

– Bẩm ông ạ!

Minh hỏi:

– Ông đó là ai, có uy quyền chi mà tụi bay phải sợ? Lạ thiệt, có súng đạn, có khóa tay, có nhà giam như ông cảnh sát quận, mà có đứa còn chạy vào lối nhỏ nấp sau bờ tre chổng mông vỗ vỗ vào đít mỗi lần thấy ông cảnh sát đi qua.

Chúng dí ngón tay vào trán Minh làm Minh tức lộn ruột, nhất là khi nghe chúng mắng:

– Đồ ngu, có mắt như mù, đấy là thầy phù thủy.

Mọi tực giận đều có thể bỏ qua khi trước mắt mở ra một điều ky kỳ mà mình chưa thể hiểu nổi, Minh hỏi:

– Thầy phù thủy là gì?

Tụi nó trợn mắt, xòe bàn tay, phùng má làm tóe cả nước miếng vào mặt Minh để giải thích cách làm thầy phù thủy. Tụi nó nói về nhưng đạo âm binh của ông, nhưng phép thần vô cùng xuất sắc có lẽ Tề Thiên Đại Thánh cũng phải gọi bằng anh.

Nghe chúng kể Minh cũng sờ sợ nhưng mà thích. Thế rồi đêm hôm sau, khi cơn mưa vừa tạnh Minh ra giữa cánh đồng vằng vừa đào xong chiếc hầm tròn đang lúi húi cắm chiếc cọc vào chính giữa, phía bên trên buộc chiếc ông tiêm bằng thủy tinh, trong ống tiêm có hai con đom đóm thay nhau lập lòe. Minh biết khi trời mưa, ếch hay ra tìm mồi, mồi của chúng là những con đom đóm lập lòe. Thấy đom đóm ếch hơi co mình lại dùng toàn sức nhảy khỏi mặt đất đớp đom đóm. Đớp xong ếch rơi xuống đất ngồi tõm tẽm nhai. Minh đánh lừa ếch bằng cách cho đom đóm vào ống tiêm, cắm vào giữa chiếc hầm đào dâu khoảng một mét. Ếch mon men nhảy đớp, đớp trật rơi xuống hầm. Cứ thế hết con này đến con khác nhảy vào. Vậy là lũ ếch ngồi đáy hầm không nhảy đi đâu được nữa. Minh đến nhặt mang về. Mỗi đêm ít nhất Minh cũng bắt được mười lăm con. Minh đã nghĩ ra cách đó để đỡ mất thời gian soi tìm. Lúc Minh đang cắm ống tiêm vào hầm thì có tiếng người hỏi. Minh tưởng ông ta là người đi bắt ếch, nên bày luôn cho cách nhử ếch như vậy cho đỡ vất vả. Ông khen Minh giỏi, biết suy nghĩ. Ông hỏi Minh ở xóm nào, con ai, học lớp mấy và cuối cùng Minh có muốn làm con nuôi ông không. Nếu đồng ý thì về nói với má, má nhắn cho ông biết, ông tên là Trẩn ở Điện Quang.

Được má đồng ý về ở cùng ông Trẩn, Minh thích lắm. Bắt đầu từ đó Minh đi hai chân khuỳnh khuỳnh, mặt ra vẻ lành lạnh, lúc nào cũng như ta sắp đọc một câu thần chú đây. Và bao giờ cũng vậy, mỗi lần được về thăm má, tụi trẻ cùng lứa tuổi đón Minh tận đầu làng, gạn hỏi không biết bao nhiêu là chuyện. Minh kể cho chúng nghe về cách ông tuyển âm binh. Minh hắng giọng. Người chết nhưng thực ra họ không chết. Họ còn phần hồn. Bước qua thế giới bên kia họ vẫn sinh hoạt, vẫn làm việc, vẫn hội họp. Chập tối của ta là tờ mờ sáng của họ. Chập tối thầy phù thủy ra giữa bãi tha ma ngồi vào chiếc hầm đã đào sẵn, có mang theo giấy bản và bút lông với đĩa mực đen. Ông chờ ma đến họp chợ. Khi họp, ma gọi tên nhau, nghe được tên ai ông ghi vào giấy, về nhà lập đàn cúng, hai tay bắt quyết, gọi những tên đã ghi được. những ma có tên trả lời, từ đó biến thành đạo âm binh do ông điều khiển. Đạo âm bình đó luôn luôn lảng vảng quanh nhà ông, quanh người ông, ông gọi một tiếng là phải có mặt.

Minh đang kể thì có một thằng bé không hiểu nó khinh câu chuyện hay vì mót đái quá, vội tè vào gốc chuối. Minh tức lắm quát:

– Như vậy là vô lễ, tao sẽ làm cho mày biết.

Minh đến chỉ tay vào chỗ thằng bé vừa tè, lầm rầm đọc một câu thần chú rồi quay sang nói:

– Của mày sẽ to như cái ấm tích!

Thằng bé sợ quá, mếu máo khoác, chạy về nhà xin mẹ được nải chuối mang đến gặp Minh mong Minh tha lỗi cho nó. Nó còn hứa kỳ sau Minh về nó sẽ “cống” thứ khác giá trị hơn.

Trong mọi chuyện kể Minh thêm lên chút ít cho ly kỳ nhưng thực ra dạo đó Minh cũng rất sợ, sợ từ cái lạnh lẽo im ắng trong năm gian nhà ngói của ông Trẩn, mà hai gian giữa để án thư và các đạo bùa. Sợ không khí đầy vẻ huyền bí của hai vợ chồng ông gần như cùng nghề. Ông là thầy phù thủy, còn bà thì lên đồng và coi sóc một ngôi đền cạnh làng.

Vài lần có người gặp cảnh khó khăn, bị am quỷ ám hại họ mời ông đến nhà lập đàn cúng lễ, Minh cũng được ông cho đi theo. Tóc ông xõa dài trên khuôn mặt tái xám và đôi mắt ngày thường đen đen bỗng trở thành lơ xanh, hoàn toàn không còn là ông nữa. Ông như một người xa la từ chín tầng mây nhảy xuống, hai tay bóp vào nhau, các ngón đan chéo xoắn lại kêu răng rắc dòn như xương gà bị gãy. Chân không đi giày, không dép, ông đi trên nền nhà rắc đầy mảnh chai. Đấy là ông ra oai để cứu với một gia đình đang bị thần trùng khảo mả.

Chuyện xảy ra như sau: ở một gia đình nọ, khi ông nội chết, đã được chon cất tử tế và đầy đủ mọi lễ nghi. Đêm đầu con cháu ra viếng không có chuyện gì xảy ra, bốn bề yên tính, khói hương tỏa lan, cảnh vật trầm mặc như cũng bùi ngùi thương người chín suốt. Gia đình thay nhau cúi khấn trước mộ rồi đi về. Bởi vì ở đây có tục lễ cổ truyền con cháu phải ra viếng mộ bảy tối. Đến đêm thứ hai, vừa cắm hương vào đoạn cây chuối đặt trên đầu mộ chưa kịp khấn vái đã nghe dưới mộ văng vẳng lên tiếng rên rỉ của người bị tra tấn. Con chau có mặt vội vàng bỏ chạy, thôi rồi, nguy hiểm lắm. Ông nội chết vào giờ “ trùng khảo mả” tức là thần trùng tra khảo linh hồn người chết, bắt linh hồn người chết đưa về nhà truy nã con chái. Người hợp tuổi bắt trước, người không hợp tuổi bắt sau. Hồn ông cụ thương con cháu, không muốn dẫn đường, nên bị thần trùng dùng mọi cực hình tra khảo cho đến bao giờ chịu khai ra, chịu dẫn đường mới thôi. Luật âm phủ là phải thông qua lời khai cả người thân thích đã chết thì ma quỷ mới dám về bắt người trần gian.

Được mời, ông Trẩn chưa tới ngay, ông chỉ tạm cấp một đạo bùa, dặn người nhà về dán giữa cửa ra vào, đêm đêm mượn những thanh niên lực lưỡng, đứng cách mộ dăm chục mét nghe ngóng. Đạo bùa đó chính là một đội âm binh của ông. Nếu đội âm binh mạnh sẽ trừ được ma quỷ và không còn nghe tiếng rên rỉ của linh hồi người bị tra tấn nữa. Nếu còn hôm sau ông sẽ đến lập đàn cúng tế trước sân nhà. Đó là trường hợp khẩn cấp, ông phải tung hết pháp thuật cao cường mới mong trừ nổi “thần trùng khảo mả”. Nếu ông thua tức là ông thấp phép hơn, ông sẽ chết hoặc bị thu hết pháp thuật.

Những thanh niên gan dạ nhất chưa ra tới mội đã nghe tiếng rên rỉ. Họ chạy về báo cho chủ nhà biết. Nhà chủ đến gặp ông khóc lóc kêu van: Nếu ông không ra tay giúp đỡ, thì vài ngày tới trong nhà nhất định có người chết tiếp.

Sáng sớm ông đến. Ông đi vòng trên nền đất đầy mảnh chai đọc thần chú. Ông gọi lấy chiếc mâm đồng ra đặt lên bàn. Người nhà răm rắp làm theo. Ông đặt ba lá bùa cuộn xoắn tròn như tổ sâu kèn lên mâm đồng rồi tiếp tục niệm thần chú. Tiếng ông nhỏ dần, nhỏ dần xung quanh cũng im ắng tưởng như nghe được tiếng làn gió phải vào mâm đồng. Một chốc ba lá bùa từ từ đi qua đi về trên mâm. Người xem sợ nín thở. Ông bảo người nhà bắc nồi dầu lên bếp lửa đỏ rừng rực ngay giữa sân. Dầu sôi sùng sục ông vục bát vào múc lên, uống tự nhiên, như ta uống bát nước chè xanh âm ấm. Dầu sôi vào miệng, vào cổ mà giọng ông vẫn sang sảng quát tháo: “Xem đây!”. Ông để hai chân lên chiếc lưỡi cày được nung đỏ. Da chân cháy xèo xèo mà ông vẫn bình thản như đứng trên chiếu hoa.

Minh khiếp lắm, khiếp đến mức ông dặn công việc sơ sơ, Minh cũng phải làm đến nơi đến chốn, làm không dám dừng tay một phút. Minh cũng không dám nói dối một điều gì. Bởi vì Minh nghĩ: Vô hình như ma quỷ mà ông còn biết được hành động của chúng nữa huống gì mình người trần mắt thịt. Minh tự hứa là suốt đời hầu hạ trung thành với ông để ông cho học được vài môn trong pháp thuật. Nếu không thành đạt cũng lấy làm sung sướng vì đã được ở với người tài ba lỗi lạc.

Làm phép đến xế chiều. Một mình ông ra đồng, yểm bùa bốn góc mộ. Gia đình đã bớt lo, nhưng đêm xuống, chao ôi! Không ai ngủ nổi nữa. Vẫn nghe tiếng rên rỉ từ đáy mộ vọng lên.

Trời ơi, biết làm sao bây giờ, người nào người nấy chít khăn trắng to vành một cách cẩu thả, thất tha thất thểu đi lại, phần thương người chết bị thần trùng đày đọa, phần lo người sống. Họ van lạy, kêu cứu thầy. Minh cũng lắc lắc đầu lo sợ, lo ông không cao tay bị thần trùng trị lại, ông sẽ chết, còn Minh bơ vơ…

Tài nghệ như vậy mà thua ư? Minh từng chứng kiến có chị có thai bị quỷ ám, người xanh dớt như quả mít héo, lần nào cũng đẻ non. Ông đã vì hạnh phúc của gia đình các chị đến tận nơi yểm bùa, rải một lượt tro mỏng trên sân. Hôm sau người ta thấy trên lớp tro đó có nhiều bàn chân trẻ con quay ra phía cổng. Ông giải thích rằng ma quỷ đã chịu. nếu chúng không chịu tức là giữa nhiều bàn chân quay ra có bàn chân quay vào thì còn chừng ấy lần bị quỷ phá, bị đẻ non. Quả thật từ lần sau chị ta “mẹ tròn con vuông”, thằng bé cứng cáp.

“Trùng khảo mả” cũng chưa nguy hiểm bằng “trùng tang liên táng”. Nghĩa là trong nhà có người chết, người đó không chịu được sự tra khảo của thần trùng về lần lượt bắt người này đến người khác. Nửa tháng có tới ba bốn người chết, lúc đầu là anh em ruột thịt sau đến họ hàng gần xa, chết từ bên nội sang bên ngoại. Trường hợp này chỉ có cách đào mả người bị trùng, thầy phù thủy đến tận nơi làm phép hô người bị trùng ngồi dậy, yểm bùa vào miệng. Pháp thuật trừ “trùng tang liên táng” ngoài ông Trẩn ra, chưa có thầy nào làm nổi, một vài thầy chưa thấy rõ bản lĩnh của mình đã làm quá sức bị thần trùng đánh đổ ốm đau kiệt quệ suýt chết, từ đó không ai tin vào thầy nữa. Ông Trẩn đến tận nơi bảo người nhà đào hết lớp đất trên áo quan, bảo mọi người tránh xe, chỉ cần hai thanh niên đứng cạnh, theo lệnh ông hô, cùng lúc bật nắp quan tài lên. Tiếng ông sang sảng: “Ngồi dậy!” Quả nhiên người chết ngồi dậy. Ông đặt bùa vào miệng người chết, hô nằm xuống, người chết làm theo.

Minh đứng xem rất sợ, sợ người chết ngồi dậy rồi vụt nhảy ra khỏi quan tài thì sao? Nỗi lo sợ làm hai đầu gối Minh rung rung không đứng vững, phải ngổi xuống. Minh tưởng như tóc sau ót của mình đã dựng đứng thành từng loạt như lông nhím khi gặp đối phương. Sau khi yểm bùa vào miệng người chết, ông Trẩn về gia đình “ Trùng tang liên táng” lấy lửa đốt hết giường chiếu, chăn màn, quần áo và các đồ dùng của người đã chết. Ông bắt rắc vôi, rắc dầu hỏa quanh nhà. Việc khó đã vậy, thần trùng dữ vậy mà ông còn trị được sao trong trường hợp này đã hai lần tung âm binh ra phép, ra oai rồi mà ma quỷ vẫn không sợ?

Minh lo lắm, lo ông chết vì sự trừng phạt của thần trùng, từ đây, nhân dân trong xã, trong huyện khi gặp sự đe dọa của ma quỷ lấy ai mà cứu vớt. Ông chết, nhân dân mất một người tài ba và Minh mất một người thầy quý mến. Đến ở nhà ông làm con nuôi ông Minh mới nhận thấy rằng học hành chữ nghĩa là điều không cần thiết trong việc tìm bát cơm manh áo, trong việc tìm cuộc sống đầy đủ và đẹp đẽ. Cảm ơn trời đất đã dẫn lối đưa đường cho Minh gặp ông ở cái đêm đi bắt ếch giữa đồng. Cảm ơn ông đã nhận lời cho Minh làm con nuôi. Dần dần Minh sẽ học tập, sẽ trau dồi pháp thuật, ngày nào đó sẽ ra tay trị ma quỷ để xứng đáng với sự nuôi dạy của ông. Trong lúc Minh nghĩ, Minh lo cho ông bị thần trùng phản phép thì ông vấn điềm nhiên, không chút gì luống cuống cả. Sáng ra ông uống rượu với thịt gà thơi phức mùi lá chanh, ông rung đùi, đầu gật gật, miệng lẩm bẩm: “Cao tay, bon thần trùng này cao tay. Ta có nên tung đạo âm binh cuối cùng không. Tung ra nhỡ thất bại thì sao…?”

Gia chủ đứng cạnh nghe vậy nói:

– Trăm sự nhờ thầy. Không có thầy chỉ thương riêng chúng con, mà thương cho dòng họ chúng con. Thầy không giúp thì dần dần cả họ bị diệt.

Ông sai gia chủ mua tám con dao bài mới tinh, đưa thợ rèn mài sắc đến mức nhổ sợi tóc đặt lên khẽ thổi là đứt đôi. Ông buộc tám con dao vào chiếc thang dựng đứng, lưỡi dao ngửa lên trời. Nhờ phép thần thông biến hóa, ông lầm rầm đọc. Mọi khó khăn, mọi trở ngại như bị khuất phục dưới tiếng lầm rầm của ông. Ông leo lên thang, xuống thang thoăn thoắt, hai chân đặt lên những lười dao để ngửa như đặt vào bậc thang, lấy đà mà không chút sây sát. Ông leo thang, leo đến sào huyệt bọn thần trùng, bọn ma quỷ, hỏi tội ngoan cố của chúng. Đêm đến, ông ra mộ một mình với hàng chục đạo bùa trong tay, vận dụng những pháp thuật cao cường nhất một phen sống mái với kẻ thù. Khi ông trở về quả là yên tĩnh. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Không còn tiếng rên rỉ, không còn sự tra tấn và tiếng khóc ai oánh của người trong mộ nữa. Đêm đêm gia đình ấy ngủ ngon hết chập chờn lo sợ thần trùng về bắt đi.

Ở với ông ngoài việc quét nhà, quét sân, rửa bát, chăn bò, Minh còn phải học thêm cách leo tường, leo cây, chui rào, la cà làm quen với các loại chó trong xã. Minh đến đâu là chó chạy ra ngoắt đuôi còn người thì mời mọc chào đón, vì họ biết Minh là con nuôi ông Trẩn. Tương lai những pháp thuật quý báu sẽ được truyền qua Minh. Và họ tin ở cậu bé còn có nhiều khả năng hơn ông Trẩn và sẽ trở thành cứu tinh cho toàn xã, toàn huyện. Ông Trẩn dặn dò Minh:

– Muốn đọc được những câu thần chú, muốn điều khiển được âm binh thì phải giỏi hơn âm binh. Ví như sai âm binh đánh ma quỷ trừ tà ở nhà nào, mình phải biết nhà ấy trước. Không phải chỉ biết bên ngoài mà biết cả bên trong từ ngõ ngách lối đi, bày biện giường tủ, trang trí tranh ảnh đến suy nghĩ và mọi diễn biến trong tâm trạng họ. Mình phải vào nhà không phải bằng ngõ, bằng cửa có sắn mà phải đi bằng lối đi riêng không ai biết. thế giới bên kia, tức là bọn thần trùng, chúng không biết đi ngang về tắt, chỉ biết đi mỗi đường thẳng có sẵn, nếu ta yểm một đạo bùa vào đó là nó chịu, không dám đến quấy phá nữa. Thầy học nhiều, đi nhiều rồi có kinh nghiệm vả lại pháp thuật đã cao tay, bây giờ thầy ngồi ở nhà nhưng biết rõ bọn ma quỷ đã đến phá phách ở đâu, chúng đi ngõ nào. Thầy không cần phải đến tân nơi. Còn con, con còn trẻ dại, chưa có chút gì là pháp thuật cả, cũng chưa đủ tuổi để truyền pháp thuật nên con phải đến làm quen từng nhàm có thể mò vào từng nhà để tạo cách sau này cần trừ ma quỷ khi con đã có pháp thuật. Con đã biết được đường vào nhà đó rồi những chuyện xảy ra trong nhà đó con cũng phải biết. Cái chính bây giờ là con vào rồi nói lại cho thầy để xem thử con nói có đúng không? Thật không?

Nghe giải thích vậy Minh học hăng lắm, Học leo cây, leo tường cứ thoắn thoắt như mèo. Minh rèn luyện tới mức chỉ dùng hai tay co nâng người vượt qua mọi chướng ngại, chứ không cần phải dùng chân đạp lấy đà. Minh nằm ép mình sát mặt đất hàng tiếng đồng hồ …bay hết hơi người đến mức Minh lẻn vào những nhà có chó dữ nhất, dùng tay sờ vào đuôi chó mà chó vẫn không biết. Chỉ một năm đầu ở với ông Trẩn, Minh đã leo vào hết các nhà trong xã, dù nhà xây kín mít đến đâu, dù có chó dữ mua từ nước ngoài về cao to như con bê cũng không ngăn nổi, không phát hiện nổi khi Minh đã thích vào. Năm đầu Minh theo ông để bưng xôi thịt, nhận số tiền mỗi lần cúng xong của gia đình gửi biếu, năm sau Minh được giao việc đun dầu sôi nung lưỡi cày, giữ đầu dây khi ông làm phép thắt cổ. Ông hứa nếu Minh chịu khó sẽ cho làm việc lật nắp quan tài khi trị thần trùng khảo mả. và làm pháp thuật trừ ma quỷ ở những chỗ ông biết là tài nghệ chúng chưa cao.

CHƯƠNG 4

Đội du kích đã đến đầy đủ trong khu vườn chuối nhà bà Nhiên. Năm đến muộn hơn, cô liếc nhìn qua Minh rồi kê dép ngồi phía sau cô Út.

Với giọng nho nhỏ vừa cho Năm nghe, Minh nói:

– Thím Bảy vừa tới lúc nãy, đợi mãi không thấy cô, cách đánh ngày mai có thêm mục tiêu. Cô nghe chung có gì chốc nữa sẽ bàn thêm.

– Minh quay lại nói to hơn với tất cả: – Báo cáo các đồng chí, theo lệnh của huyện, ngày mai chúng ta phải đánh sập cầu Gạc, cầu Vĩnh Điện, cầu Găng, chặn đứng âm mưu địch dịch chuyển quân lên miền Tây mở trận càn vào vùng giải phóng. Dự kiến của tôi như sau: Tổ du kích gái do cô Nhiên phụ trách sẽ đánh cầu Găng, Tổ đồng chí Đô và đồng chí Tám đánh cầu Vĩnh Điện, còn Quýnh và ba Sứt đánh cầu Gạc.

– Kế hoạch gì lạ vậy? Ba Sứt hỏi ngang khi Minh vừa dứt lời. Ba Sứt tiếp: Cầu Găng dài năm nhịp, trên đường dưới đường trên sông, dưới sông đầy lính gác. Ban đêm hàng chục ngọn điện rọi sáng trưng đặt chiếc kim vào còn thấy rõ, Sao lại giao cho tổ con gái?

– Tổ tôi không còn đoạn dây cháy chậm nào nữa – Tám nói thêm

Có tiếng người khác chen vào:

– Loại mìn hẹn giờ nổ hết rồi

– Báo cáo các đồng chí, tôi đã nghĩ đến những thiếu thốn hiện nay, không xin trên được, hoặc trên có cấp phát cũng phải cuối tháng mới về. Minh vừa mở ba lô vừa nói tiếp: Ta phải tự nghĩ ra cách đánh, hơi thô sơ, nhưng tin rằng sẽ đạt kết quả.

Đội du kích chăm chăm nhìn vào ba lô, thấy Minh lấy ra một đoạn dây thừng làm bằng vỏ dừa. Minh móc túi lấy bật lửa, che tay bật lên châm vào đầu dây. Dây từ từ cháy. Anh nói:

– Tôi đã tính rồi, đốt hai phân dây dừa lửa cháy mất ba phút, chậm lắm, người đánh cũng đã rời khỏi quả mình được năm trăm mét. Ta có thể dùng dây dừa thay dây cháy chậm.

– Nhưng lượng lửa trên dây làm sao đủ nóng, đủ mạnh để kích thích được kíp nổ? – Tám hỏi

Minh cười, khuôn mặt roi rói, thoải mái như đã lường trước được thắc mắc:

– Giữa dây dừa và kíp nổ ra đặt vào một lượng thuốc đạn. Tháo vài viên AR15 thì tha hồ. Lửa ở dây dừa đang cháy từ từ gặp thuốc đạn sẽ bốc mạnh, kích thích kíp nổ và toàn bộ quả mìn nổ theo. Nếu cần trước khi đánhm các đồng chí làm thử để rút kinh nghiệm.

Tám gật đầu:

– Hay, hay lắm. Mấy hôm nay chúng tôi thiếu dây cháy chậm mà không sáng ý. Năm nhìn Minh nghĩ: “Con người thật lắm sáng kiến, hình như mọi thời gian của anh, kể cả lúc ngủ cũng nghĩ tới việc tìm cách vượt khó khăn để đánh địch”. Con người mà Năm tin cẩn nhất sao gần đây có những dư luận vớ vẩn vậy? Anh đứng đó, nhưng Năm nhìn rõ anh, lúc anh ở trong hầm với bố, lúc đi công tác một mình trong đêm khuya trên vùng đất khói khét lẹt mùi thuốc súng, mùi đất bị cày tơi, cả lúc tiếng pháo xèn xẹt trong chốc lát ánh chớp của tiếng nổ lóe lên, mạng sống ngàn cân treo trên sợi tóc. Năm cũng nhìn thấy đôi mắt anh, đôi mắt trong sáng, không hiền dịu nhưng dễ thương. Đôi mắt đó, con người đó lại có một thời là lừa đảo, là con nuôi thầy phù thủy ư? Năm không tin, nhưng những chuyện kể về hiện tượng của anh buộc Năm phải tin. Năm chú ý vào những chuyện người ta đã kể về anh. Cậu Tân, cơ sở hiện đang cài trong hàng ngũ địch đã cho biết có lần anh lọt vào khu phố có nhiều nhà bốn tầng giữa thị xã. Địch biết chúng điều động cảnh sát và cả quân chủ lực đóng gần đó đến vây tìm, lục soát. Anh vừa chạy vào một phòng của tầng bốn, tưởng rằng có cửa thông sang phòng khác nhưng không có. Phòng hoàn toàn xây kín. Anh quay lại thì gặp ngay một thằng cảnh sát sục vào, Anh quắc mắt nhìn nó, tên cảnh sát như người mất hồn, và tự dưng nó ngã sấp úp mặt xuống nền xi măng khi anh chưa bắn, chưa đấm đá gì nó. Anh nhanh chóng cởi quần áo nó thay sang mình rồi đội mũ cầm súng trà trộn vào tui nó tiếp tục truy lùng. “Cộng sản xuống tầng dưới” – Anh bảo đồng bọn và đi xuống. Gặp chiếc xe máy 250 phân khối, anh nhảy lên phóng ra ngoài phố. Sau này chính anh cũng không hiểu vì sao mà thằng địch ngã, khi nó hoàn toàn ở tư thế chủ động, còn anh hoàn toàn ở tư thế bị động.

Truy lùng mãi, rồi tìm đến phòng anh vừa ra, thấy tên cảnh sát trần truồng, chúng tưởng là Việt cộng, hò reo gọi nhau tới. Nhưng lật mặt lại, té ra là người cùng bọn.

Khi tên cảnh sát đã tỉnh, tên chỉ huy quát hỏi:

– Tại sao mày không bị nó bắn, không bị nó đánh mà lại ngã ngất?

Tên cảnh sát trả lời:

– Thưa ông, tôi gặp đôi mắt…và chứng tim của tôi đột ngột nổi lên.

Tân cho biết tên cảnh sát này đã có lần bị cách mạng bắt lên vùng giải phóng, cho học tập cải tạo và đã có lần Lê Minh ngồi giải thích chính sách khoan hồng của cách mạng cho nó nghe, rồi cho nó về, dặn phải làm ăn lương thiên. Nó trở về làm ăn không lương thiện càng nhớ tới lời dặn của người cán bộ cách mạng nhớ đến đôi mắt, nên khi gặp đôi mắt xưa kia, đôi mắt Lê Minh, hắn hoảng sợ như gặp bản án tử hình.

Năm thả tâm tư với muôn mớ ngổn ngang trong khi Lê Minh vẫn tiếp tục công việc và gỡ những thắc mắc cho đội du kích:

– Còn vấn đề mìn hẹn giờ?

Minh lấy một chiếc hộp tương tự hộp sữa bò, Anh đổ đầy nước. Nước nhỏ dần bởi có lỗ hổng ở nắp hộp. Trong hộp là miếng gỗ nằm nổi trên bề mặt nước. Miếng gỗ này có một thanh nhỏ cắm đứng cũng bằng gỗ dài khoảng mười phân nối liền với phía trên là miếng thép. Nước nhỏ chừng nào thì miếng gỗ hạ thấp đến chừng đó. Miếng gỗ hạ thấp cho đến bao giờ miếng thép phía trên chạm vào miệng hộp. Minh ngưng một tý nhìn mọi người rồi nói tiếp:

– Các đồng chí nghiên cứu tính chất vật lý chắc đã rõ. Ta buộc dây dẫn điện nối liền từ quả mìn tới hộp nước. Một dây buộc ở miếng sắt phía trên, một dây buộc vào miệng họp. Nước nhỏ, miếng gỗ hạ dần theo, đến bao giờ miếng sắt chập với miệng hộp, tức là hai dòng điện gặp nhau, mìn sẽ nổ. Thời gian nước nhỏ, chính là thời gian ra đi xa quả mìn.

Minh vừa nói vừa làm, giảng giải rõ ràng, rành mạch.

– Các đồng chí cứ yên trí mang tới cầu đánh, thay thế được loại hẹn giờ, nhất định trăm phần trăm thắng. Cần chú ý là dừng để gỗ thấm nước. Nước truyền điện sẽ làm mìn nổ ngay khi mình vừa lắp vào.

– Còn chỗ dễ đánh giao cho các đồng chí nam. Chỗ dễ chính là chỗ khó, chỗ khó lại là chỗ dễ. Nhìn bề ngoài cầu Găng khó thật. Địch gác trên, gác dưới, gác xung quanh. Ban đêm hàng chục ngọn điện, chiếu gần, chiếu xa, soi rõ cảnh vật cách vài trăm mét. Vậy thì ta không tới gần đánh mà phải đánh từ xa.

Ba Sứt hỏi chen với một giong hơi mỉa:

– Dùng pháo để bắn chắc?

– Không, Ta không dùng pháo. Ta làm gì có pháo. Nhưng ta vẫn còn một quả mìn hẹn giờ nổ.

– Còn một quả, chớ mười quả cũng chịu, làm sao mà khiêng tới tận nơi móc mìn vào mố cầu được? Tiếng Ba Sứt vẫn giọng không tin vào chuyện đánh cầu Găng thành công.

– Vậy nên ta mới nghĩ cách. Nếu du kích chúng ta cứ dập khuôn, ngày nào cũng đánh như ngày nào, địch sẽ đối phó được. Phải nghĩ cách đánh riêng của ta, của những người đã sinh ra và lớn lên tại đây. Phải nghĩ ra cách đánh mới, tạo cho địch từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Làm cho chúng lúc nào cũng tưởng như bị trời giáng.

– Tưởng như bị âm binh của thầy phù thủy bao vây!

Có tiếng người nào đó nói rất khẽ, rồi cười. Vài tiếng cười theo, Họ cười vì đã chọc đúng chỗ bởi một câu kê kích. Câu kê kích ấy làm Năm bừng bực. Dù sao cũng có chút ít rạn vỡ về uy tín của anh. Nhưng Minh không hề biết ẩn ý của câu nói đó, nên anh trả lời rấy sòng phẳng:

– Đánh theo lối thầy phù thủy là không đúng. Âm binh là sự lừa dối. Đêm nay cô Nhiên và tổ gắng đi xin được cho ba cây tre. Mỗi cây dài độ sáu mét, khiêng ra bờ sông phía trên dòng nước, buộc ba cây tre vào nhau thành hình tam giác. Mỗi cạnh buộc một quả mìn hoặc buộc nhiều quả tùy theo số lượng thuốc của tổ hiện có. Nước trôi đưa tre trôi theo. Xuống đến cầu, tôi tính rồi: Mỗi nhịp cầu cách nhau năm mét, tre của ta dài sáu mét, trụ cầu sẽ giữ tre lại. Các đồng chí tính ra rồi chứ?

Tất cả vỗ tay:

– Sáng kiến quả!

Có tiếng xuỵt im:

– Vỗ tay gì mà to vậy, địch phục bên ngoài nó nghe.

Minh tiếp:

– Quả mìn hẹn giờ nố, kích thích các quả khác nổ theo. Lượng mình của chúng ta đủ sức làm sập cầu. Nhưng phải chú ý là nên đánh vào lúc chín giờ sáng, giờ này địch sau một đêm canh gác uể oải, lại là cho ban ngày ta không dám bơi tới.

– Tôi thấy chỉ cần dùng một cây tre cũng đủ. – Có ý kiến rụt rè của cô nào đó

Minh nói ngay:

– Một cây cũng mắc được vào cầu, nếu như cây tre trôi ngang. Nhưng lỡ lúc đó tre trôi dọc thì hỏng. Phải làm ba cây cho chắc, trôi bề nào cũng vướng.

CHƯƠNG 5

Quận trưởng Huỳnh Ví uống hai viên thuốc an thần màvợ hắn vừa đưa lên. Cuộc đời của hắn bây giờ phải chăn cũng chỉ còn gửi chút ít lòng tin vào người vợ. Hắn không tin hoàn toàn vào ai cả, từ cấp trên cấp dưới đến cha mẹ anh em. Hắn chỉ tin hắn và việc gì cũng muốn tự tay hắn đặt vào. Còn người vợ thì sao? Chẳng phải là hứa hẹn trăm năm duyên nợ trèo non lội suối đi tới cùng trời cuối đất gì đâu, cũng chẳng phải là mơ mộng cao xa đẹp đẽ của mối tình đầu trong trắng đầy kỷ niệm cắt tóc thề tặng nhau, hoặc lồng ảnh trong quả tim có dây chuyền đeo trước ngực. Hắn biết người đàn bà ấy trước khi đến với hắn đã qua bao nhiêu tay người con trai khác, cũng như hắn, có phải hắn đến với cô ta lần đầu tiên đâu. Nhưng cuộc sống không thể nào thoát ra ngoài cái khuôn phép bình thường đã sẵn có trên trái đất. Nghĩa là ai cũng phải lấy vợ lấy chồng. Thế thì cái gì buộc hắn gửi gắm chút lòng tinvào người đàn bà ấy? Đấy không phải là người đàn bà chỉ sụt sùi thương thân trách phận mà là người có tầm suy nghĩ lớn, đóng góp với hắn nhiều ý hay trong vun vén nền kinh tế của gia đình cũng như công việc quân sự. Nhưng ả không bao giờ ngồi ngang hàng với chồng bàn bạc, hơặc khi có khách đến cũng nói ngang ngang làm tăng uy thế của mình. Không. Hoàn toàn không, ả biết việc chồng đang làm, và nhân một câu chuyện kể bâng quơ để chồng thấy ngay nhưng điểm được gỡ ra trong thế bí chưa giải quyết được: “Anh ạ, từ Điện Bắc đi về hướng Tây có nhiều cây lúp xúp và một khoảng đất bằng”. Huỳnh Ví lắng tai nghe ý vợ và đặt câu hỏi: “Đất bằng để làm gì?”. “Cây lúp xúp để làm gì?”. Hắn nghĩ ngay ra ý hay. Phải phát hết cây lúp xúp, lợi dụng vùng đất bằng đưa xe cày ủi tới, ủi thành vùng trắng ngăn cách hẳn giữa ĐIện Bắc và lực lượng giải phóng đang ở cánh rừng phía Tây. Làm được vùng trắng rồi, hắn dựng lên một chòi gác giao cho dân vệ đảm nhiệm. Ban ngày Việt cộng không dám vào, còn ban đêm Việt cộng vừa ra khỏi cánh rừng đã lộ nguyên hình trên khu vực trắng. Ý kiến vợ hắn rất hay.

Huỳnh Ví không bao giờ rối trí. Cuộc sống đã cho hắn thấy phải hết sức bình tĩnh. Nóng nảy là con đường dẫn tới diệt vong. Nhất là ở trên mảnh đất này, nơi hắn sinh trưởng cùng lũ trẻ bơi qua sông đánh giặc giả, rộp da dưới lòng bàn chân vì chạy thi trên bãi cát giữa trưa hè nóng bức. Hắn hiểu mỗi tấc đất, mỗi gò đất cũng như tên tuổi đặc điểm từng thôn huyện. Bởi vậy cùng với sự gợi ý của vợ hắn, hắn đã từ chối thẳng thừng việc đi làm sỹ quan ở các đơn vị chủ lực mà xin về quận. Tuy về quận nhọc nhằn hơn, vất vả hơn, giấc ngủ vật vờ và đối phương là những lũ du kích không có chiến thuật, chiến lược rõ ràng, dễ dồn hắn vào thế bị động. Hắn đã được cấp trên tin cậy và mười năm hắn đi từ Mỹ sang Pháp rồi Đài Loan, Úc, Nhật…tiếp xúc với những phù hoa hiện đại mà lòng hắn trơ trơ dửng dưng như một người ở cõi nát bàn về. Mắt hắn chỉ đăm đăm nhìn về đất nước, nhìn về cái quận nhỏ nhơi như chiếc móng tay nằm dài theo dải đất miền Trung, nơi ba má hắn đã vứt lại cả gia tài điền sản bỏ chạy khi cách mạng thành công. Hắn không ăn hối lộ, không đòi hỏi những tiện nghi sang trọng, hắn chỉ trầm ngâm làm việc, tính toán cách đào bới lòng đất, thể hiện trên tấm bản đồ. Hắn gắn liền với chế độ, hơn gắn liền với cha mẹ. Hắn hiểu chế độ mất là hắn mất. Vậy thì bọn chen làm giàu được ích gì, phải dồn sức tập trung vào mọi suy nghĩ để diệt cộng sản. Khi đất nước hoàn toàn trong tay hắn, trong chế độ hắn, thì có gì lại không thuốc về hắn!

Ngày hôm nay, còn đau nhất đối với hắn là ba chiếc cầu trên đường về quận bị đánh sập một lúc. Gò Nổi chết bốn mươi tên, mất cả máy bay và súng đạn. Khi nghe hắn báo cáo, tỉnh trưởng lặng im qua điện thoại một lúc rồi bỏ máy. Sự im lặng làm hắn sờ sợ, Nhưng sờ sợ ấy không nằm sâu trong óc, bởi hẳn phải nghĩ ra cái gì đây để hiểu đối phương, chứ không phải bây giờ là lúc tìm lý lẽ để biện bạch cho mình. Kẻ có ý nghĩ đúng đắn là trong mọi lúc nên tìm cách nghĩ đến đối phương, moi móc đối phương, dồn tâm trí vào đánh đối phương. Đúng! Vợ hắn gợi ý đúng: Phải tìm hiểu xem kẻ chỉ huy bên kia là ai? Tên tuổi gì? Quê quán ở đâu?

Hắn ngẫm nghĩ: Kẻ chỉ huy bên kia là ai? Từ tỉnh cử xuống hay người ngoài Bắc vào. Đánh mà không biết đối phương thì đánh cái quái gì? Phải hiểu. Phải tìm cách để hiểu. hắn đi đi lại lại trước tấm bản đồ. Hắn không cần nhìn bản đồ cũng đã hình dung hết mảnh đất của quận. Tuổi thơ và năm tháng trưởng thành của hắn dàn mỏng lên mỗi tấc đất ở đây. Con người bên kia đang chống lại hắn, đánh lại hắn phải là con người hiểu tường tận mỗi gốc cây, mỗi ngọn cỏ ở đây, mới bày binh bố trận được như vậy. Mới đi tắt về ngang đánh tan chiến thuật: Lấn chiếm Gò Nổi làm đà cho cuộc hành quân thực hiện ý đồ bình định của hắn. Ai chỉ huy bên kia? Phải là người sinh ra và lớn lên ở đây như hắn? Không! Không thể có. Số cùng lớp với hắn đi theo Việt cộng dù ở chủ lực hay cài làm cơ sở không bị bom của máy B52 giết trong từng loạt rải thảm thì cũng bị cày ủi làm bẹp nát dưới hầm bí mật. Số đi cùng một phía với hắn, đều không dám đương đầu với chiến tranh, tản mát đến những vùng yên ổn kiếm ăn làm giàu, mưu cầu lối sống ích kỷ. Chẳng còn ai ở mảnh đất này cùng tuổi với hắn dám đương đầu với thử thách. Có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, Huỳnh Ví quay lại lạnh lùng:

– Gì mày?

Tên lính hầu khúm núm:

– Dạ bẩm quận trưởng, có một du kích chiêu hồi.

– Hừ, nước mẹ gì ở bọn chiêu hồi, toàn sợ chết ham sống, Vì thế khi còn ở với Việt cộng bất cứ thằng chỉ huy nào cũng không giao cho chúng việc quan trọng. – Hắn bừng bực nói ra như vậy, rồi sực nhớ chẳng có gì đáng cáu gắt, nhất là đối với lính hầu, hắn hất hàm hỏi lãnh đạm:

– Cho vào đây ngay!

Tên chiêu hồi bước vào, đứng cúi đầu, mắt chăm chăm nhìn xuống những ô gạch vuông. Huỳnh Ví kéo ghế, mặt hơi tươi tỉnh nói:

– Mời anh ngồi, Về với chúng tôi rồi anh không phải lo lắng gì về cuộc sống nữa đâu. Cái đã qua coi như thuộc về cái chết. Bây giờ hãy cùng chúng tôi làm việc. Anh người ở đâu?

– Dạ Điện Bắc

– Cũng ở trong đội du kích?

– Dạ

– Vì sao anh chiêu hồi?

– Dạ vì sợ sức mạnh hỏa lực của các ngài. Bên chúng tôi…- tên chiêu hồi chưa lại câu vừa nói: – Bên Việt cộng ngày nào cũng có người chết.

Tên chiêu hồi nói rõ cách bố trí, những hầm bí mật, nơi tập trung sinh hoạt ban đêm và phân tán canh gác ban ngày của đội du kích.

Huỳnh Ví nói tiếp:

– Anh có nắm được vì sao mà chiếc cầu về quận lỵ bị sập một lúc với tiếng bom nổ trên đỉnh Gò Nổi làm rớt trực thăng không?

– Dạ biết, nhưng không thể nào trốn qua để báo cáo sớm hơn được, vì họ giao cho tôi gác hướng Tây Bắc với một người nữa đi kèm.

Huỳnh Ví thầm nghĩ: Đúng như mình đoán, tên chỉ huy du kích phải là tay khá mới hiểu rõ những ý nghĩ của tên chiêu hồi này, nên đẩy cho nó đi gác ngoài xa.

– Ai là người chỉ huy bên ấy?

– Dạ, người chỉ huy thường rất bí mật, ít khi lộ mặt. Mãi đêm hôm qua nghe bố con ông Năm nói chuyện mới biết con Năm là đảng viên, chịu trách nhiệm lãnh đạo đội du kích xã.

Huỳnh Ví hơi dướn người hỏi:

– Con Năm, con lão già đốt xe ô tô ấy à?

– Dạ phải.

– Gớm thiệt, Vậy mà mình coi nó như trẻ con, nhưng con nhỏ ấy làm gì đã lắm mưu mô…

– Dạ thưa…còn một tên cán bộ huyện đội nữa, chính đó là đầu mối của mỗi trận đánh xảy ra.

– Hắn tên gì?

– Dạ, Lê Minh!

– Lê Minh…Quận trưởng gõ gỡ ngón tay lên mặt bàn lắp bắp: – Lê Minh…chưa nghe tên ấy ở đâu cả… trong hồ sơ lưu trữ về cán bộ Việt cộng nằm vùng hoặc thoát ly cũng không có… Lê Minh!

Tên chiêu hồi đỡ lời:

– Dạ, Lê Minh…Phải diệt Lê Minh, bắt con Năm đột nhập đánh ban ngày mới có thể làm cho du kích tan rã.

Bây giờ thì cuộc đời tên chiêu hồi hoàn toàn quay lưng lại với đội du kích xã rồi. Hắn muốn Lê Minh chết, cô Năm chết, và toàn đội du kích chết, dù trong đó có người hắn cảm tình, có người là bà con của hắn, nhưng hắn biết nếu họ còn sống thì dù chỉ sống có một người họ cũng tìm đến nơi hỏi tội hắn.

– Đúng, phải đột nhập đánh ban ngày, nhưng anh qua đây đã ai biết chưa?

– Dạ, chưa hề ai biết. Họ cho tôi về nghỉ để sáng mai đi tìm pháo lép. Trưa mai không thấy tôi, chắc họ đoán ra. Nên tốt nhất là đánh úp luôn vào sáng mai.

– Anh có ai là họ hàng trong thị trấn này không?

– Dạ có bà cô ruột, bán tạp hóa phía ngoài cổng chợ.

Huỳnh Ví hỏi chuyện đồng thời thăm dò thái độ tên chiêu hồi để quyết định việc tổ chức tập kích. Hắn cũng sợ du kích cử người trá hàng. Không, không có gì là trá hàng hết. Tên chiêu hồi có cô ruột trong thị trấn, sẽ cho người kiểm tra, ngay đêm nay. Hơn nữa, đôi mắt nó không dám nhìn thẳng. Đôi mắt bàng bạc kia thì dứt khoát là thiếu lòng dũng cảm Lại còn cái điệu nói không dứt câu, ngập ngừng kia nữa. Tạng người như vậy ở chế độ nào cũng chỉ nịnh bợ, ham sống sợ chết. Phải tập kích vào sáng mai, kẻo du kích biết đồng đội của chúng đã có tên chiêu hồi, sẽ thay đổi cách bố trí. Nhưng còn điều băn khoăn của Huỳnh Ví vẫn chưa giải đáp được. Người chỉ huy bên kia là ai? Họ có đề phòng những trường hợp bị tập kích bất ngờ không? Đầu óc đang hướng về chuyện đó nên HUỳnh Ví tiếp tục đặt câu hỏi:

– Anh có biết Lê Minh là người ở quận nào không?

– Dạ ngay quận ta

– Xã nào?

– Dạ, xã Điện Tiến

– Ô. ĐIện Tiến! Huỳnh Ví kêu lên như vừa nghe một điều kỳ quặc

Tên chiêu hồi nhắc lại:

– Dạ, ĐIện Tiến và còn điều này nữa, thưa quận trưởng, đêm hôm qua tôi rình nghe lão Năm nói chuyện với con gái lão mới biết, xin cẩm để quận trưởng rõ. Quận trưởng cần chú ý: Lê Minh, chính là tên đã từng làm phù thủy, làm con nuôi thầy phù thủy!

– Tôi nhớ rồi! Quận trưởng nói như reo. Tôi nhớ tên Lê Minh rồi. Nhà nó nghèo xơ xác. Ba nó chết sớm. Nó làm con nuôi cho ông Trẩn – thầy phù thủy.

Tên chiêu hồi mấp máp miệng theo để lấy lòng quận trưởng bằng những tiếng: Đúng, thực vậy. Quận trưởng nhớ tài quá!

– Vậy chớ!

Huỳnh Ví không để ý tiếng đệm theo của tên chiêu hồi mà vẫn giữ luồng suy của mình. Vậy mới đúng, phải là người cá biệt, mới chỉ huy được đội du kích bên kia. Thì ra lâu nay nó đánh mình bằng phép phù thủy.

Nhưng hình như nó ở với ông Trẩn chỉ mấy năm rồi bỏ nghề, pháp thuật chưa được là bao.

Khi tên chiêu hồi ra ngoài, quận trưởng ngồi một lúc suy nghĩ, quanh quẩn với ý: Nếu mình đánh úp ngay vào sáng mai thì Lê Minh có kịp đối phó không? Kể cả dùng pháp thuật phù thủy. Đòn bất ngờ này chắc Lê Minh trở tay không kịp. Còn phù thủy là những điều chưa chắc đã có thật trong cuộc sống. Huỳnh Ví có chút suy nghĩ vậy, nhưng lòng tin ở trận tập kích sáng mai quả là hấp dẫn. Hắn cho gọi quận phó cùng đại đội trưởng đại đội biệt kích lên, với ý định năm giờ sáng hành quân đột nhập vào khu du kích, tiêu diệt và đốt phá làm sập toàn bộ hầm bí mật. Bao vây ĐIện Bắc bắt cho được Lê Minh và con Năm. Kế hoạch này chưa phổ biến cho cấp dưới kể cả đại đội phó. Chỉ ba người có mặt ở đây biết thôi. Tảng sáng báo động hành quân chiến đấu cấp tốc, phải giữ bí mật cho đến phút cuối cùng. Huỳnh Ví nhắc thêm quận phó là tạm thời giam giữ tên chiêu hồi thật chắc, và ngay trong đêm kiểm tra xem có phải bà cô ruột nó bán tạp hóa phía ngoài cổng chợ không.

Khi quận phó và đại đổi trưởng đại đội biệt kích ra về rồi, Huỳnh Ví vẫn ngồi một mình suy nghĩ. Hắn tin là chiến thắng, nhất định thắng. Hắn đã chỉ thị cho tên đại đội trưởng đại đội biệt kích cách phân tán đơn vị đi vào Điện Bắc bằng những hẻm mà chỉ có những người sống ở đây hàng chục năm trời, dày công nghiên cứu, chỉ có những người đã để lại tuổi thơ ở đây, vui chơi trò đánh giặc, tìm cách bắt nhau, ngày nay mới có thể nhớ được. Tuy vậy hắn còn đắn đo. Hắn không tin ở phù phép, ma quỷ lắm, nhưng những câu chuyện kể dạo nhỏ của Lê Minh bây giờ rõ mồn một như đi lại trước mặt hắn, nào là “ trùng tang liên táng”, “trùng khảo mả”.

Lê Minh và hắn cùng tuổi, cùng học một lớp. Về sau Lê Minh bỏ học đi làm con nuôi ông Trẩn. Mỗi lần về nhà Lê Minh lại kể những tài ba của ông Trẩn – thầy phù thủy cho hắn nghe.

Dạo nhỏ sao nó mềm yếu đến vậy. Nghe câu chuyện mà người cứ run lên như sốt rét, nhưng càng sợ càng muốn hỏi thêm. Tuy vậy, trong thực tế cũng có những chuyện xảy ra làm hắn băn khoăn. Băn khoăn cho đến bây giờ vẫn còn. Đấy là ký ức xa xưa. Cái thời hắn mới lên tám lên chín, mẹ hắn chết đột ngột. Mọi việc quản lý kinh tế trong nhà từ vàng bạc đến gạo thóc đều do mẹ hắn nắm. Mẹ hắn chết đột ngột vì chứng đau tim. Không một lời trối trăng, không để lại một ghi chép gì cả về tiền bạc. lúa gạo đã cho quanh xóm mượn. Nghe người ta bàn, bố hắn lập đàn cúng tế mời ông Trẩn thầy phù thủy về đánh đồng thiếp, tức là đưa người đang sống xuống âm phủ gặp người đã chết, gọi hồn người đã chết về nhập vào xác người đang sống để nói lên những điều gia đình cần hỏi.

Lễ đánh đồng thiếp tổ chức giữa sân, có hàng trăm người tới xem. Vợ ông Trẩn ngồi trùm khăn đỏ, đầu lắc lư theo giọng đọc văn cúng của thầy phù thủy rồi nằm dài im lặng, mê man trên một tấm ván được trải bằng chiếu hoa. Mọi người im thin thít chờ đợi. Số đông đến xem là do tò mò muốn biết chuyện, nhưng cũng nhiều người do số nợ đã mắc mà đến, nếu hồn về nói đúng sẽ mang trả nhưng không đúng là làm lơ luôn. Họ sống với nhau, nên biết rất rõ mẹ của Huỳnh Ví là người nắm chìa khóa và mỗi lần đến vay mượn họ cũng chỉ gặp mẹ Huỳnh Ví mà thôi.

Khoảng nửa giờ, người đàn bà đang nằm mê man trên tấm ván đột ngột ngồi dậy, hất tấm vải trùm đầu, mặt đỏ bừng hét:

– Ta Trận Thị Nam (đấy là tên tục của mẹ Huỳnh Ví) thường gọi là bà Chánh Ngân hiện về trả lời chuyện công nợ. Quanh xóm còn hàng trăm người vay tiền vay lúa của ta. Nếu không mang trả trong vòng một tháng ta sẽ đưa hồn âm phủ về hỏi tội! Những người vay tiền của ta là: Ông Trạc bảy trăm đồng. Bà Chín hai trăm năm mươi đồng. Cố Miệt sáu trăm đồng…

Cố Miệt đến gần, chắp tay vái hai vái run run:

– Dạ…dạ…hồn nói đúng, tôi còn nợ bà sáu trăm đồng, xin mang trả hôm nay.

Nhiều người đứng xung quanh cũng tự xướng lên số tiền nợ, họ sợ tên mình bị nhắc qua miệng người âm phủ sẽ trở thành điều bất hạnh cho cuộc sống tiếp theo.

Người cầu hồn tiếp:

– Nhận như vậy là được, mau mau đem trả. Chưa hết, lần sau ta sẽ về.

Người đồng thiếp ngã dài trên ván nằm một lúc, đấy là hồn đã thăng, Người trần gian trở về với trần gian. Bà Trẩn ngồi dậy, khuôn mặt hơi ngơ ngác. Người ra gạn hỏi mãi bà mới chịu nói đến cảnh vật dưới âm phủ nào là qua chín cửa có quỷ sứ vác đại đao đứng gác, quỷ sứ gầm gừ vung đại đao định chém một vài người cũng là người trần gian xuống gặp người chết. Bà sợ không dám đi, nhưng có tiếng khe khẽ sau lưng nhắc: Cứ đi, không việc gì hết, nếu mình ăn ở lương thiện. Còn những người kia tuy ở trền gian nhưng tính xấu của họ thể hiện rõ trên mặt làm cho quỷ sứ tức giận. Quỷ sứ dọa thôi, không giết đâu nhưng sau này khi xuống sẽ bị trừng trị. Bà Trẩn kể tiếp, lúc bà đi qua quỷ sứ im lặng, không nói năng gì cả, mà cũng không dọa nạt, cứ thế bà tìm đến chỗ bà Nam ở.

Huỳnh Ví nghe mà rợn rợn. Có lúc nào đó, liên hệ với thái độ sống hàng ngày, Ví không tin Bà Trẩn lương thiện, không tin là ở âm phủ có quỷ sứ gầm ghè với những người nhiều tội ác đi qua cửa ngụcm có thể đó là điều Bà Trẩn nói thêm cho ly kỳ câu chuyện. Nhưng cái kết quả cụ thể thực tế làm Huỳnh Ví không thể vượt qua được là những người vay nợ lần lượt mang đến trả tính đủ cả tiền lãi. Bố của Huỳnh Ví mang lễ vật rất hậu đến tạ ơn ông Trẩn. Từ cái hôm ấy gia đình Huỳnh Ví sống tin nhiều vào phù phép thần thánh. Cũng bởi thế nên hắn làm quen và chơi thân với Lê Minh, thằng bé cùng tuổi làm con nuôi ông Trẩn. Đặc biệt Lê Minh được thím Bảy quý mến. Thím Bảy người ở vú, tiếp tục nuôi Huỳnh Ví từ khi mẹ hắn chết bố hắn đi lấy vợ khác.

Thím Bảy giật mình khi thấy khuôn mặt tên chiêu hồi ngồi đối diện với quận trưởng: Tư Thìn! Đúng là Tư Thìn! Đã mấy lần thím thoáng thấy nó trong đội du kích. Nó không thể nào nhận ra thím bởi vì mỗi lần vào Điện Bắc thím chỉ gặp Năm hoặc Lê Minh ở một chỗ hẹn vào ban đêm. Chuyện giữa Tư Thìn với quận trưởng, giữa quận trưởng với quận phó và đại đội trưởng biệt kích thím đã nghe hết. Huỳnh Ví rất tin ở thím. Nó lớn lên là do dòng sữa của thím và sự săn sóc của thím, nó mến thím hơn má nó và quý trọng thím hơn cả vợ nó. Thím có thể đi lại, nghe mọi công việc của nó. Còn vợ nó thì không bao giờ được tự so như thế. Khi nào cần nó cho gọi vợ nó mới được lên nơi nó làm việc. Thím Bảy sốt ruột như có lửa đốt. Chúng nó sẽ tập kích vào sáng ngày mai. Làm sao bây giờ? Tuy vậy thím vẫn bình tĩnh bước lên khi quận phó, đại đội trưởng biệt kích đã về và Huỳnh Ví hình như cũng chấm dứt giai đoạn một mình ngồi suy nghĩ.

– Cậu Hai, mợ bảo cậu cố gắng ăn bát mỳ hai tôm có hành tăm cho đỡ đau đầu.

Đúng là một người vợ hiểu chồng, và là một người bạn tri kỷ. Huỳnh Ví nghĩ vậy về vợ rồi đưa mắt cảm ơn thím Bảy. Hắn bưng bát húp chút nước không cần thìa. Miệng húp mà óc nghĩ chuyện khác. Hắn hỏi đột ngột, cứ như là đang tiếp tục câu chuyện với thím Bảy:

– Thím còn nhớ cái thằng bé ngày xưa ở với thầy phù thủy nữa không?

Thím Bảy hơi lo lo, đưa mắt xét đoán thái độ nó rồi ngập ngừng trả lời:

– Thằng bé nào…hồi ấy cậu có bao nhiêu là bạn….

– Thằng bé ở với ông Trẩn đến đánh đồng thiếp dạo má tôi mất, nó hay đọc sách kiếm hiệp cho thím nghe.

– À…phải, tôi nhớ mường tượng thôi, lâu quá rồi…cậu nhớ dai thiệt.

– Bây giờ nó chỉ huy đội du kích bên kia đó thím à.

– Cậu nói thiệt, bộ dỡn?

– Thiệt đó thím ạ. Kể cũng lạ, thuở nhỏ chơi bời đánh vật cúi lưng cõng nhau chạy dài trên mặt cát dọc bờ sông, chia cho nhau vắt xôi ngày giỗ, mà giờ lớn lên mỗi đứa đi một hướng, tìm cách giết nhau.

Thím Bảy tưởng Huỳnh Ví nói gì với mình, nhưng nghe một lúc biết y có tính hay lầm rầm vậy, đấy là tự nói với y. Thím se sẽ đi xuống bếp. Có nỗi đau nào bằng nỗi đau của thím không? Cuộc đời của thím đã chôn sâu trong gia đình Huỳnh Ví, sau khi lấy chồng chưa bén mùi mồ hôi chồng, đã tiễn đưa chồng đi tập kết. Đêm cuối cùng chia tay chồng, chị Bảy đã có thai nhưng đứa con đã chết. Thím vào nhà Huỳnh Ví xin làm vú. Trong người Huỳnh Ví là dòng sữa của thím, nhưng đó không phải là dòng sữa của người mẹ cho con mà dòng sữa bị cướp mất. Nếu Huỳnh Ví phải chết thím cũng cảm thấy đau đớn, chẳng khác gì mình vắt sữa mà chiếc chén rồi hất xuống đất.

Thôi, thôi không nghĩ lan man nữa, nếu cứ nghĩ lan man những dòng suy nghĩ, những ước mơ cứ tràn đến không bao giờ hết, ước mơ trong những người nghèo khổ bao giờ cũng rất nhiều, cũng đẹp và bao giờ cũng đi rất xa. Thím phải quay lại thực tế, quay lại những chuyện sắp xảy ra. Huỳnh Ví sẽ cho quân đánh úp sáng mai vào khu du kích. Thím nhìn ra ngoài trời. Đêm tối lắm thằng lính gác vẫn đi qua đi về trên lối mòn quen thuộc và thím đã bước ra giữa đêm đen đi về hướng du kích…

CHƯƠNG 6

Lê Minh lên huyện họp ba ngày để nhận nhiệm vụ mới. Anh ra đúng đúng giữa đêm được tin thím Bảy báo cho biết sáng hôm sau Huỳnh Ví sẽ cho đại đội biệt kích đánh úp. Ra đi Minh hơi băn khoăn và nhất là khi Năm gợi ý anh nên ở lại, chậm một hôm chắc huyện thông cảm. Song kỷ luật quân đội đã thường xuyên được giữ nghiêm chỉnh trong người Minh, vả lại chắc có nhiều diễn biến quan trọng của mùa xuân này nên huyện mới cấp tốc gọi về, hơn nữa đội du kích xã bây giờ đã phát triển đông, vững vàng mỗi người là một hướng chiến đấu tốt, và Năm – có thể thay anh điều khiển trận đánh khi hai người đã dự kiến hết các phương án mà địch sẽ áp dụng. Bây giờ điều gì Minh nghĩ ra là Năm có thể nghĩ tới người này gần như là một phần của người kia.

Đúng hẹn, đêm Minh về, Năm ra đứng tận đầu làng chờ đón. Nói là đầu làng nhưng rất khó phân biệt đâu là đầu làng, đâu là cánh đồng, tất cả bằng phẳng, không ranh giới. Người nơi xa đặt chân tới làm sao hiểu nổi trước kia, chỉ cách vài tháng thôi, đây là những khu vườn có rào dậu rậm rạp, đủ các loại mít, xoan, cau, chuối, khế, táo, cam, quýt, bưởi…Từ mùa đông lạnh lẽo đến mùa thu bâng khuâng tới mùa xuân phơi phới, rồi mùa hạ tưng bừng, mùa nào cũng vó một vị quả, một hương thơm của hoa lá làm điều hòa không khí, tăng thêm thi vị cuộc sống…Bây giờ mọt cành nè tre (1-cành tre lòa xòa) không rơi xuống cho lũ chim bói cá về đậy cũng không còn. Tụi Mỹ ngụy hòng diệt người, diệt cây quả, chim muông…Nhưng không phải vì thế mà người ta không biết đâu là làng, đâu là đồng nữa. Biết chứ! Nơi kia phân biệt bìa làng với cánh đồng là một đầm sen nho nhỏ, có đường kính khoảng mười mét. Những bông sen vẫn không thay đổi trước những sự đe dọa thường nhật của chiến tranh. Sen vẫn sáng màu hồng tươi roi rói, thơm phức làm dịu bớt sự căng thẳng cho đội du kích sau một ngày nắng rát nằm trong hầm bí mật chịu mọi sự lùng soát của kẻ địch. Đêm đến, bật nắp hầm, gặp ngay mùi thơm quen thuộc, và giờ đây cũng phần nào làm giảm bớt sự bồn chồn của Năm khi trời tối một lúc mà vẫn chưa thấy Minh về. Bên cạnh tình đồng chí, những lúc mày mò nắm địch, bàn bạc cách đánh, tức thở khi giày đinh giặc nện cồm cộp trên nắp hầm, còn là phần tình cảm riêng tư giữa Minh và Năm nữa. Mới nghĩ thôi mà hai má Năm đã nong nóng, thèn thẹn, Từ lâu Năm đã cố gạt ra ngoài những suy nghĩ không bình thường để giữ thăng bằng tình bạn. Nhưng nào có được.

Sao anh chưa về. Có chuyện gì xảy ra chăng? Đêm trên vùng đất không cây cối trông càng dài càng rộng, tưởng dài và rộng hơn ban ngày. Kẻ thù dữ tợn đã biến đất cứng thành mùn, bốc một nắm lên không gặp sắt thép thì cũng có ít nhiều xương người. Năm đứng đó trong nỗi chờ đợi tưởng như lạc vào giữa bãi cát dài không ranh giới với những điều nghĩ gần đến nghĩ xa. Cho tới lúc nghe tiếng chân bước, cô vội vàng để ngón tay trỏ sát nòng súng. Nhận ra dáng đi nổi trên nền đất, Năm không hỏi mật khẩu, không cất tiếng chào, cô im lặng như thưở nhỏ trốn trong bóng đêm đố nhau tìm bắt.

Khi tới gần, dáng đi đó, lên tiếng hỏi:

– Năm chờ đã lâu chưa?

– Tóc em ướt hết rồi. Bắt thường anh đó.

Nói ra chờ lâu thì ngượng với mình mà nói vừa ra xong, sợ bạn không hiểu sự chờ đợi, lo lắng gần như tức thở nên Năm chọn cách nói thách vậy.

Minh để tay lên tóc Năm:

– Khô rang, có ướt gì đâu. Nói ngoa nhá!

Năm nắm bàn tay Minh có ý chống chế như mình không vừa lòng, nhưng rồi cô giữ mãi tay anh trong tay cô. Đưa các ngón sờ sờ lên những nốt chai sạn. Im lặng. Cả hai im lặng. Không khí dường như cũng chẳng chuyển động, Họ đứng bên nhau, tay đặt trong tay, giữa trời đêm yên ả, thoang thoảng hương sen. Chiến tranh như đã lùi xa và như chưa bao giờ nơi này xảy ra chiến tranh. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc.

Xa xa nổi lên một tiếng cạch, đấy là tiếng bắn pháo sáng của bọn bộ binh gác đêm soi quanh hàng rào, từ mặt đất vút lên trời kêu cút cút kéo dài, người mới nghe lần đầu dễ rờn rợn. Tiếng cút cút vừa dứt là bầu trời rực sáng. Ánh sáng lung lay trong mắt hai người. Cả hai ngường ngượng buông tay, chuyển sang hỏi chuyện công tác.

– Anh chị em có ai việc gì không? – Minh hỏi về trận đánh xảy ra sáng hôm anh đi.

– Một người bị thương nhẹ thôi. Chúng vào đúng các hướng như Thím Bảy đã báo. Mười lăm thằng bị mìn và lựu đạn cài mà chúng vẫn cứ vào.

– Chắc chúng lùng sục ghê lắm để tìm cho được Năm?

– Chúng tìm anh là chủ yếu. Các hầm loại hơi lộ để tránh khi báo động cấp hai đều bị đào bới hoặc dùng mìn đánh sập.

– Ở trên huyện tôi có nghe tin, các anh bên huyện ủy theo dõi trận đánh tỷ mỉ lắm. Nhưng sao em không bảo ba xuống hầm bí mật?

– Em nói ba có nghe đâu. Chúng vấp mìn rồi mà ba vẫn ngồi trong hầm thùng uống rượu. Ba còn quát ra: “Tao mà phải chịu chui vào hầm bí mật hử! Tao phải ngồi lại đây để xem chúng vào bao nhiêu và chúng mày giết được bao nhiêu?”. Thế là chúng bắt mất ba, và phá hầm thùng. Họp huyện có gì vậy, anh?

– Vui lắm. Sắp đánh to. Sắp giải phóng huyện rồi. Trong mùa xuân này thôi. Tôi và Năm trao đổi trước. Huyện ủy giao cho chúng ta nắm thật chắc địa hình địa vật, cách bố trí trong chi khu và số lượng địch. Nắm quy luật hoạt động của chúng. Nắm số hàng rào, chiều cao và độ dày. Tìm nơi chúng đặt mìn. Ta có nhiệm vụ dẫn bộ đội chủ lực tiếp cận đến hàng rào thứ nhất và cung cấp mọi tình hình. Càng cụ thể càng giải quyết nhanh trận đánh. Hôm tấn công, du kích của xã ta đã cũng đảm nhiệm một mũi. Vài ngày tới đề nghị cô Năm sẽ đưa bốn chị em tin cậy nhất lên chợ mua mỳ tôm, gạo, la ve giải khát và các thực phẩm khác vào bán cho tụi lính bên khu biệt động, để tạo điều kiện liên lạc với cơ sở, nắm tình hình bên trong. Ta tính xem, những ai làm được. Theo tôi thì nên đưa cô Út, cô Nhiên…

Hai người lầm rầmbàn tính. Năm nên đặc điểm từng cô trong đội du kích sau khi loại ra ngoài những cô bộc trực, những cô đảm nhiệm tốt một hướng tấn công đối mặt với kẻ thù, những cô thiếu mềm mỏng, họ đã chọ được từ bốn đến sáu cô. Đó là những cô vừa đẹp vừa duyên dáng, có tiếng nói ngọt ngào, nhưng rất chủ động, trong mọi trường hợp không rối trí và có thể đóng góp tỉ mỉ thêm những điều trong nhiệm vụ đã giao.

Năm nói:

– Chút nữa thím Bảy sẽ vào có gì ta bàn thêm, nhất là cách đưa người vào bán hàng trong khu biệt động.

– Năm có thấy còn điều gì cần phải tính thêm nữa không? Minh hỏi.

– Bước đầu chi vậy đã…có gì ngày mai em nắm tình hình thêm đã.

Hai người như cùng xôn xang phần chính là do nhiệm vụ sắp tới, một nhiệm vụ nặng nề mà sau đó trong đội du kích sẽ có người vắng mặt vĩnh viễn. Họ ngã xuống để bảo vệ quê hương. Họ chết và rồi nấm mộ cũng không còn, phần thì địch thường xuyên cày ủi và bom pháo bắn tới liên tục, lưỡi cày và mảnh đạn sẽ đào xới từng mô đất nổi lên, phần khác đội du kích thề rằng quyết không để cho thằng địch thấy được chúng đã thắng lợi như thế nào dù thắng lợi rất nhỏ, cho nên mọi người đều đề nghị. Nếu tôi chết hãy chôn sâu vào lòng đất, đừng đắp nổi thành mộ, đừng để thằng địch thấy chúng đã giết được ta. Đừng để chúng thây ta đau khổ. Và người dân Điện Bắc đã thực hiện ý định đó. Nơi đây không có nghĩa trang liệt sỹ, không có mảnh vải đen nào cài lên áo để tang. Tất cả những đau thương ấy dồn làm một: Phải chiến đâu, phải đi thẳng tới kẻ thù, đánh chúng, diệt chúng. Tất cả mọi mảnh đất thuộc Quảng Đà bây giờ đều sôi bỏng, đều quyết liệt như vậy. Từ suy nghĩ vùng mình đến cả huyện, và rồi bao giờ suy nghĩ cụ thể đến những điều bình thường gần như bẩm sinh của người phụ nữ Việt Nam, Năm khẽ hỏi:

– Anh lên huyện có tạt qua nhà không?

– Vội quá, nhưng cũng được các anh cho biết tin

– Má vẫn mạnh chứ anh?

– Tàm tạm

– Anh chưa bao giờ nói chuyện riêng cho em nghe cả

– Riêng tư cũng chẳng có gì đặc biệt. Nhỏ thì đi ở. Lớn lên chưa qua tuổi thiếu niên, Mỹ đã nhảy vào, từ đó đi đánh Mỹ ngụy.

Năm hỏi:

– Hình như dạo nhỏ, anh làm con nuôi thầy phù thủy

– Sao Năm biết?

– Em nghe người ta nói

– Họ nói nhiều lắm à?

– Không nhiều, không ít, nhưng cứ để vậy, theo em thì chẳng lợi. Cần phải có sự thanh minh để họ thấy rằng mình chiến đấu không phải bằng phù phé

Năm ngừng một tý rồi nói tiếp: – Anh chẳng lạ gì, ở xã em các cô bác, ngay cả nam nữ, thanh niên cũng còn mê tín…Mặt khác, những chuyện họ nói về anh đều có dẫn chứng cụ thể làm em rối lên không sao giải thích được.

Minh cười, cười rất thoải mái. Đêm nay còn chờ cơ sở từ ngoài quận vào cho biết tình hình, cũng là thời gian có thể cho phép Minh kể cho Năm nghe tuổi thơ của anh đã đi qua như thế nào.

– Tôi tưởng về đây là biệt tích phần lý lịch thuở nhỏ. Vậy mà cũng có người biết.

Minh kể cho Năm nghe những ngày đi ở với ông Trẩn, vì sao đến ở với ông. Kể về cảnh nghèo của gia đình và những pháp thuật của thầy phù thủy. Minh kể với giọng huyền bí, có lúc lầm rầm như đọc thần chú, cố tìm cách bắt bẻ, nhưng rồi câu chuyện ly kỳ, chốc chốc Năm níu lấy vai Minh hỏi:

– Thiệt bộ dỡn anh? Nghe khiếp quá!

– Thiệt chớ

– Mắt anh thấy hay nghe người ta kể?

– Tôi theo hầu, giúp việc đắc lực nhất cho ông ta mà

– Còn chuyện nữa anh chưa kể, nghe tên gọi đã lạnh thấy mồ

– “Thần trùng lão âm khái thanh” à?

– Dạ, nghĩa là sao anh?

– “Thần trùng lão âm khái thanh”, đó là cách gọi của thầy phù thủy, dịch nôm na có nghĩa là: “Tiếng ông già ho trong nhà”. Chuyện xảy ra như sau: Gia đình nọ có cụ già chết. Chôn cất xong, ngay đêm đó trong buồng nơi ông cụ lúc ốm đau vẫn nằm, con cháu nghe tiếng ông cụ nấc lên, ho khù khụ như lúc sắp hấp hối thở hơi cuối cùng. Trong nhà, người gan dạ nhất mới dám cầm đèn đi tới soi xem thử có thấy gì không, nhưng chẳng thấy gì cả, gian buồng lặng ngắt, cửa đóng kín mít. Ra ngoài nằm chưa ấm chỗ lại nghe tiếng ho ấy phát ra. Có sợ không chớ. Cứ thế kéo dài suốt đêm. Họ phải sang nhà khác ở nhờ, đợt mặt trời lên sẽ mời thầy phù thủy về cúng. Trường hợp đó là vì thần trùng áp giải linh hồn ông cụ đã chết về tận nhà, tra tấn bắt ông khai tên con cháu, để thần trùng lần lượt bắt chết theo. Ông cụ thương hại nên nghẹn ngào nức nở. Phải lập đàn cúng té, xin bùa yểm, giải thoát tống tiễng hồn ông cụ ra khỏi vòng tra tấn của những người còn sống tránh được tai nạn.

Có tiếng chân đạp vỡ một hòn đất, cắt ngang câu chuyện. Lê Minh huýt sáo. Bóng người phía trước nhận ra tín hiệu, ngồi xuống rồi đứng dậy đi vào.

– Thím Bảy! Minh gọi rất khẽ như thoáng hơi thở rồi hỏi thêm: – Thím đi luôn không sợ tụi chúng biết à?

– Tụi chúng thì không sợ nhưng sợ tiếng gió vù vù trên đồng trống cứ như ma đuổi. Thím hỏi: – Ai ngồi đó nữa. – Thím cúi xuống nhìn: -À cô Năm, – Tiếng thím vui vẻ: – Nè ngồi riêng thế vầy, không sợ “cậu con nuôi thầy phù thủy” này bắt mất hồn hứ?

– Em đâu có sợ, Anh ấy đang kể chuyện hay lắm.

– Thôi, ta bàn công việc đã…Lê Minh trao đổi với thím tất cả mọi việc mà thím có thể làm được.

– Huyện chỉ thị việc phải giết tên quận trưởng, Tôi định tối ngày kia.

– Không được đâu

– Nó đi vắng hay thay đổi chỗ ở?

– Vẫn chỗ cũ, nhưng gay lắm. Tôi vào bữa ni cũng là báo cho chú biết thằng Tư Thìn chiêu hồi đã nói với quận trưởng rằng: Xưa kia chú làm con nuôi thầy phù thủy. Nhất là sau thất bại ba cầu sập cùng một lúc, quận trưởng càng bày mưu tính kế rất gấp. Bằng giá nào cũng bắt cho được chú, hoặc giết cắt đầu đem về treo giữa chợ.

– Minh nói chen vào:

– Nó định cùng một lúc treo đầu tôi và đầu cô Năm giữa chợ à?

– Tôi nói thiệt, mà chú cứ dỡn. – Giọng thím Bảy tỏ vẻ rất lo lắng, lo hơn những lần thím vào báo tin quan trọng mà đội du kích phải đối phó ngay tức khắc. Thím tiếp: – Quận trưởng đã vận dụng bao nhiêu cách đánh đều thua chú, nên hắn đã xoay sang phép khác. Hôm nay hắn đã mời được ông Trẩn, thầy phù thủy, bố nuôi của chú xưa kia lên. Nó buộc ông phải tung mọi pháp thuật bắt cho được chú.

Trái với sự lo lắng của thím Bảy, Minh phá ra cười. Tiếng cười thoải mái vô tư, gợi những kỷ niệm mà giờ đây Minh hết sức thích thú. Tiếng cười lan qua vùng đất đã bị cày ủi, không còn bóng cây bóng lá.

Năm ngạc nhiên hỏi:

– Gì mà anh cười dữ vậ?

Minh không trả lời Năm mà quay sang hỏi thím Bảy:

– Thím tin là ông Trẩn có pháp thuật và sẽ bắt được tôi à?

– Hỏi lạ thiệt, chú quên chuyện cũ rồi sao. Chuyện đánh đồng thiếp đưa hồn người chết xuống âm phủ gặp người chết mà dạo trước ông Trẩn đã cúng lễ cho bố Huỳnh Ví, hôm đó hình như cũng có cả chú nữa?

– Từ bấy đến nay chưa ai giải thích cho thím hiểu chuyện đánh đồng thiếp đó à? Tại thím cả thôi.

– Sao lại tại tôi?

– Ngồi xuống đây!. Thím cứ ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân, cũng vừa đỡ lộ mục tiêu. Tại thím là thế này. Khi thím ở vú cho nhà đình Chánh Ngân, nuôi thằng Huỳnh Ví, thì tôi làm con nuôi ông Trẩn thầy phù thủy. Ông nhận hai ba đứa cùng trạc tuổi tôi làm con nuôi, nhưng rồi khi chúng ốm đau ông đuổi dần, còn lại mình tôi. Ông đối xử với tôi không nghiệt ngã lắm. Cho đi chơi khắp nơi. Sau này tôi biết việc cho đi chơi ấy cũng có mục đích. Dạo đó tôi hay đến chỗ thím ngồi khâu vá, gặp hôm trời mưa tôi đọc sách kiếm hiệp cho thím nghe. Cũng có lúc thím bảo tôi đọc những lá thư viết bằng bút chì, chữ mờ mờ. Thím khâu cho tôi những chỗ rách trênlưng áo do trèo cây hoặc bị dây thép gai cào. Tôi lục tìm đầu giường thím, thấy có quyển sổ thím ghi chép tên những người nợ tiền bà Chánh Ngân. Cũng vô tình thôi, về nhà tôi kể cho ông Trẩn nghe, ông bảo phải tìm mọi cách đánh cắp cho được quyển sổ đó. Nghe ông nói là “ phải tìm mọi cách” tôi bĩu môi trả lời: dễ ợt! Ông Trẩn khen tôi là làm được việc và nhận xét tôi là đứa con nuôi có nhiều triển vọng nối nghiệp ông.

Thím Bảy nói ngay:

– Tôi nhớ rồi, quyển sổ ghi tên những người trong xã nợ tiền, Cứ tưởng là thằng Ví xe, đâu ngờ chú lấy. Trong vở cũng chẳng ghi gì. Mụ chủ thường sai tôi đến các nhà đòi nợ. Tính tôi hay quên, nên phải ghi vào những nhà nào mắc nợ và họ trả chừng nào.

– Cái chốt là ở đó – Minh nói chen vào. Ông Chánh Nhân sau khi vợ chết thì không biết những ai còn nợ tiền, nợ lúa của mình nữa. Chìa khóa kinh tế gia đình cả mọi quyền hành sai bảo hầu như là ở trong tay mụ Chánh. Ông không dám hỏi người ở hoặc hỏi bên ngoài là những ai mắc nợ, hỏi vậy họ biết thóp và xí xóa hết, không có chững cớ đâu mà đòi. Hình như dạo đó cũng có người hí hửng cho rằng ông Chánh không biết nợ để đòi. Ông Chánh Ngân đang tìm cách thì ông Trẩn nắm được và mừng rơn khi tôi lấy quyển sổ của thím về. Ông bắn tin sang cho Chánh Ngân biết là chỉ có cách đánh đồng thiếp đưa người đang sống xuống âm phủ gặp hồn bà Chánh Ngân, gọi bà về nhập vào xác người đang sống để đọc lên số tiền mọi người đã nợ.

– Nhưng trong số có ghi hết tên người nợ đâu?

– Có cần chi phải đủ tên, chỉ đánh trúng đòn tâm lý là mọi người mang trả hết. Chắc thím còn nhớ khi hồn bà Chánh về nhập vào xác người sống, đọc vanh vách những người nợ, số tiền bao nhiêu, đọc chưa hết thì xung quanh đã hoảng, tưởng bà Ngân về đòi nợ thật, một số người vội vàng xướng luôn số tiền mình đang nợ, không chờ nhắc đến tên. Thực ra thì có gì đâu, chắc thím còn nhớ, người nằm để đánh đồng thiếp là vợ ông Trẩn. Bà ta đã thuộc lòng tên những người nợ và số tiền đã ghi trong sổ của thím. Còn cách bày binh bố trận làm cho ly kỳ thì dưới tay phù phép của ông Trẩn sẽ hóa thành ghê gớm. Bà Trẩn đọc hết tên những người đã ghi trong sổ của thím, bà làm như chưa hết nhưng vì công việc ở âm phủ còn gấp gáp phải về, nên nói là còn nhiều người nợ nữa, nếu không mang trả ông Chánh Ngân cứ lpạ đàn tế cúng là bà cho ma quỷ về gõ cửa đòi nợ. Nghe ma quỷ gõ cửa ai cũng sợ!

– Gớm thiệt! Vậy là chú cùng một giuộc với thầy phù thủy lừa dối bà con hử?

– Dạo đó tôi còn nhờ đã biết chi đâu mà thím, nên cứ nghĩ là lừa lọc kiếm cho nhiều tiền là được rồi, ai chết mặc ai.

– Còn những chuyện anh kể lúc nãy cũng là lừa cả chớ?

Nghe Năm hỏi vậy thím Bảy nói:

– Bây chừ mà chú còn đi lừa bà con hử?

Năm đỡ lời:

– Không phải chuyện bây giừo đâu thím ạ, anh Minh kể chuyện ngày xưa đó thôi.

Thím Bảy hỏi:

– Chuyện chi vậy

– “Thần trùng lão âm khái thanh”

Thím Bảy rụt người lại nói:

– Gì mà nghe dữ vậy, cứ như kiếm hiệp, hảo hán giang hồ.

– Cũng lừa thôi. Minh nói vậy và tiếp:

– Chuyện không lấy gì làm ly kỳ nữa đâu. Bây giờ ai cũng biết cả rồi. Chẳng là khi người chết, ông Trẩn giao cho tôi chập tối lẻn vào nhà họ ném xuống gầm giường người chết một con cóc. Con cóc nào do ông Trẩn bắt từ đêm hôm trước rồi cho vào miệng nó một nhón thuốc lào. Ông khâu hai múi chỉ phía trước miệng. Thuốc lào ngấm vào cổ họng, cóc khó chịu phải dồn sức ho khạc cho bật nhón thuốc ra. Tiếng cóc nghe như tiếng ho ở gầm giường khi người chết vừa mang ra đồng xong, ai cũng sợ, nên vội vàng lập đàn cúng tế. Sau đó ông Trẩn vào buồng một mình, cấm không được ai theo, cũng chẳng ai dám theo. Ông yểm bùa làm phù phép trừ thần trùng, giải vây linh hồn. Ông chụp luôn con cóc đưa cho tôi. Tôi giả đi ngoài ném vụt xuống ao, thế là xong chuyện. Nhưng cái khó của âm mưu này là ở chỗ khác. Lúc bắt cóc phải soi đền đi tới, chộp hết sức bất ngờ để cóc hốt hoảngm sau đó mỗi lần thấy bóng người hoặc bóng đèn là cóc không dám ho, sợ bị bắt lần nửa, nên nhảy vào bóng tối ẩn nấp. Nếu không cóc sẽ ho ngay cả khi thấy ngừoi tới, lộ tẩy âm mưu của thầy ngay. Còn khâu chỉ vào miệng có cũng cần khéo léo. Phải khâu một mũi chính giữa, buộc lưỡi của cóc luôn luôn nằm thẳng, không co vào đâu được nếu lưỡi co vào duỗi ra được là cóc sẽ nuốt mất viên thuốc lào.

– Anh ở với lão phù thủy mấy năm?

– Ba năm, Ba năm chỉ học leo trèo vượt tường, làm quen với chó la cà khắp các nhà giàu sang. Muốn đi chơi bao nhiêu cũng được nhưng phải về báo cho ông biết nơi đến chơi đã có những chuyện gì đặc biệt xảy ra. Ví như gia đình kia có anh em ở bên Pháp gặp tai nạn hoặc ông chủ nọ nằm ngủ gặp giấc mơ kinh hoàng, thức dậy rồi mà vẫn còn ngơ ngẩn.

Không phải ông Trẩn chỉ phù phép mà ông cũng còn luyện tập nữa. Ông đi trên tám mũi dao nhọn, nhưng thực ra chân ông chỉ đặt hờ vào mũi dao thôi, còn hai cánh tay nắm chắc thành thang rút người lên. Đêm đêm ông đóng cổng ngoài, đóng cửa trong, một mình tập leo. Các cơ bắp trên cánh tay ông nổi tròn, rắn chắc như một hiệp sĩ hay một đô vật. Tôi cũng phải học tập như ông, bởi vậy cái đạo đến lớp huấn luyện đặc công của tỉnh anh em rất khó nhọc khi leo vượt tường rào còn tôi xoạch một cái nhẹ như mèo lọt thỏm bên trong. Đó là thói quen lúc đi ở.

Việc phối hợp với ông Trẩn thầy phù thủy lừa dối người khác là sai, nhưng cũng phải nói rằng tôi học tập được ở ông rất nhiều, nhất là rèn luyện cơ thể vượt tường rào và tôi vận dụng vào huấn luyện cho bộ đội thực hiện bí mật: “ Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng…”

Ba năm, tôi trở thành tên đầy tớ mưu mẹo, làm giàu cho ông Trẩn rất nhiều

Minh đã muốn ngưng câu chuyện để thím Bảy còn về và Năm còn lo sắp xếp công việc ngày mai, nhưng cả hai người vẫn bắt kể, vẫn muốn nghe. Chưa giải thích xong hiện tượng này họ đã hroi sang hiện tượng khác.

– Còn chuyện ma đấm cửa? Năm hỏi

Minh trả lời:

– Nghe lúc đầu thì quả là huyền bí nhưng giải thích xong ai cũng thấy dễ dàng. Dạo đó hình như ông Chín Toại có người chú chết. Tôi nhớ mang mang ông Chín Toại vào hạng giàu có, lại hơi ngang ngang tính, coi thường ma quỷ và thần trùng. Ông Toại không tin thì người khác cũng không tin. Cứ để vậy sẽ ảnh hưởng đến công việc làm ăn, ông Trẩn nhân lúc ông Toại có chú chết, phao luôn tin là chú ông Toại chết vào giờ độc. Đêm đến ông Toại đóng cửa nghe ngóng: Quả nhiên đúng là có tiếng ma đập cửa. Đập nhè nhẹ, rồi đập mạnh dần…tiếng đập cửa ấy chính là do ông Trẩn tạo ra đó thôi. Không phải đối với ông Toại mà với nhiều người khác về sau ông cũng áp dụng cách này để kiếm sống. Chẳng là đêm hôm trước ông Traàn đã bảo tôi vượt tường chui vào nhà ông Toại, dùng mỡ gà và nước quả nhãn lồng, loại ngọt nhất, thơm nhất bôi vào cánh cửa. Hai thứ đó loài dơi rất thích. Loại dơi to ở hang đá xa xôi về bắt được mùi, lao tới giành nhau. Cảnh cửa không có chỗ cho dơi bám chân và lại dơi cũng yếu nên chúng phải vỗ vỗ cánh vào ván cửa, dùng miệng hút chất ngọt, nghe cứ tưởng như tiếng đấm cửa, Lúc người nhà thức dậy cầm đèn đi ra, thấy ánh sáng là dơi bay vù lên cao. Cửa đóng, chúng kéo nhau trở lại. Suốt đêm người nhà nghe tiếng đập bốc bốc lên cánh cửa, thần hồn nát thần tính, phải mời thầy phù thủy về cúng.

Năm hỏi:

– Khi cúng làm sao mà xóa được nước nhãn?

– Đơn giản thôi, Thầy phù phép hò hét bắt người nhà nấu nước sôi. Thầy tùng vào nước một gói bột và là bùa giấy bán có chữ son, Người ngoài xì xào bàn tán, đó là một đạo âm binh thầy sai phái đi từ ma quỷ. Thực ra lá bùa chỉ là giả mạo thôi, cái chính là gói bột màu nâu kia, đó là quả bồ kết được rang khô, tán nhỏ.

Dơi rất sợ mùi bồ kết, ở đâu có bồ kết là ít dơn nhưng rất nhiều muỗi, bởi dơi hay ăn muỗi. Thầy quét một lớp nước bồ kết lên cánh cửa, chờ khô khô, dán là bùa vào. Đêm hôm sau hết tiếng đập thình thịch.

Năm lại hỏi tiếp như sợ Minh ngừng một chút sẽ nghĩ tới công việc mà bỏ qua câu chuyện cô đang muốn nghe:

– Còn đặt chân lên lưỡi cày nung đỏ?

– Trước đây tôi cũng phục ông Trẩn sát đất. Không những mình phục mà mỗi lần về thăm nhà, còn kể cho tụi trẻ cùng lứa nghe, làm như mình với ông Trẩn cùng một cánh, cũng có bùa phép. Tụi trẻ xúm nhau lại, tò mò hỏi, bỏ cả buổi học sáng, mắt chúng trố tròn, có đứa sau khi nghe kể chuyện đêm về không dám ra sân nữa.Một buổi tối đang say sưa kể thì một thằng ở xóm dưới kéo chú bộ đội tới tỏ ý khoe và ra điều thích thú là hắn có bạn, một người bạn có phù phép trong tay: – “ Giới thiệu với chú đây là Lê Minh bạn của cháu, tương lai sẽ chỉ huy âm binh”. – “Cái gì? Âm binh nào? “ Chú bộ đội ngỡ ngàng hỏi.

Tụi trẻ con đứa nào cũng giành nhau nói, chúng kể về tôi như kể vể một chuyện thần thoại, một nói thành ba, ba nói thành chín. Lạ gì tụi trẻ con khi đã tưởng tượng ra đủ thứ thì không còn biết đâu là chuyện nói dóc nữa. Tôi biết chúng kể cũng có nhiều chuyện sai, cả những chuyện trước đây tôi nghe họ kể là xảy ra đâu tận Sài Gòn, mà giờ chúng cũng nói là của tôi. Tôi không chối, đứng gật gật đầu, bụng có vẻ hơi ưỡn ra một tý. Chú bộ đội hình như sực nhớ ra cười nói:

“-Đây hả. Đây hả!” Chú đi tới cầm tay tôi:”Ông nhóc, đừng đưa chuyện ma quỷ về huyễn hoặc làng xóm, gieo rắc mê tín dị đoan nhá!. Tôi cáu lắm, tự dung ông này mò tới làm mất hết cả uy quyền của mình. Tôi nói:”-Dị đoan làm sao. Chú biết quái gì. Chẳng được tích sự gì lại vô thần. “Ấy là hàng ngày tôi vẫn nghe ông Trẩn nói những người cách mạng là vô thần. Chú bộ đội nghiêm nét mặt lại, hình như tôi đã có thái độ quá đáng hoặc nói một câu gì hơi nặng nề. Chú hỏi: ”Cháu có thần à? Thần của cháu gồm những loại gì?” Tôi đỏ mắt tía tai trả lời: “Cháu chưa có thần, nhưng rồi sẽ có thần. Ông Trẩn nhà cháu có thần, có hàng trăm đạo âm binh, có pháp thuật trừ tà quỳ!”. Chú bộ đội gạt đi hỏi: ”Không mà quỷ mà cũng chẳng có âm binh nào cả. Bịp thôi. Ma đấm cửa là chuyện con dơi, “lão âm khái thanh” là chuyện con cóc, “trùng khảo mả” là chuyện con mèo” Tôi cãi: – “Thế nào là chuyện con mèo ạ?” Chú bộ đội vỗ vào vai tôi nói: “-Cháu đừng nóng này mà chóng già, dễ đau đầu, mất hết trí thông minh. Chính cháu cũng bị lừa, Từ trước đến nay cháu không để ý đến cách làm của lão phù thủy đó. Nếu cháu chú ý theo dõi sẽ rõ sự thật. Trùng khảo mả, có nghĩa là chết đúng giờ độc bị ma quỷ tra tấn, nên đêm đến người nhà ra thăm nghe tiếng rên ri trong mộ. Chuyện ấy không có gì là lại cả. Lão phù thủy đêm hôm trước đã đến chôn cạnh mộ người mới chết một con mèo sống. Con mèo đó được nhốt trong chiếc nồi hông bằng đất có nhiều lỗ thông hơi. Lão lấp đất ngụy trang rất khéo, khéo như bộ đội chôn mìn tren đường cái đánh xe địch. Người nhà đi tới viếng. Mèo nghe tiếng động đứng dậy cất tiếng kêu cầu cứu. Tiếng kêu trong nồi đất nghe âm vang rền rĩ và không còn là tiếng mèo nữa. Với sắn óc mê tín nên ai cũng tưởng là tiếng kêu của hồn người chết đang bị thần trùng tra khảo”. Chú bộ đội nói vậy, tôi cũng bán tín bán nghi. Có thể là trước kia mình tin hoàn toàn vào phù phép của lão Trần nên cứ tưởng học vượt rào, leo tường là để cho âm binh sợ. Ừ mà đúng thật, như cái việc luồn vào nhà ông Toại quét một thứ nước lên ván cửa, lúc đầu mình tưởng là để dọa mà quỷ. Nghe chú bộ đội giải thích mới rõ dần, và bấm bụng nghĩ kỳ này về thử theo dõi xem. Tuy vậy lúc đó tôi cũng còn cố cãi thêm: “Ma quỷ là loại mơ hồ, giải thích vậy cũng tạm nghe được nhưng còn chuyện đi trên lưỡi cày nung đỏ, uống dầu sôi, bùa biết đi. Không những tôi thấy mà hàng trăm người đứng quanh cũng thấy. Ông bịt được hết mắt họ à?”Chú bộ đội trả lời: “Giờ thì chú bận đi họp. Cháu có ở nhà đến ngày mai không? Nếu còn ở nhà chú sẽ làm mọi việc cho cháu thấy rõ ràng hơn.”

Đêm hôm sau, bộ đội tổ chức liên hoan văn nghệ, đốt lửa trại ngay giữa sân vận động, Họ hát tập thể, hô bài chòi ca vọng cổ, sau múa súng là đến tiết mục “ những mưu mẹo của thầy phù thủy” Bốn chú bộ đội vác nứa đã đốt đỏ vào một chỗ, bắc nồi nước lên. Lửa rừng rực cháy, bốc cao quá đầu người. Trong bếp có chiếc lưỡi cày nung đỏ. Một người bước ra mặc áo dài đen, quần trắng, tay cầm ô, bôi thêm nhọ nồi và phấn trắng vào mặt, lông mày kéo dài gần chạm tai, vắt dải khăn đỏ ngang vai, vung tay thét: “- Bớ âm binh, theo lệnh ta, mau mau lên đường thi hành nhiệm vu. Hỡi thần trùng khôn hồn cút sớm kẻo ta ra oai dưỡng sức thi tài” Nhìn kỹ chính là chú bộ đội hôm qua. Chú đã cải trang thành phù thủy, trông dữ tợn, bộ tóc giả xõa dài và mắt đeo kính trắng. Phép biểu diễn đầu là uống dầu đun sôi. Chú vẫy mọi người hãy đứng sát để xem. Dầu sôi sùng sục tưởng chừng chỉ một giọt bén vào tay cũng tuột da chín thịt. Chú xắn áo, mồm lẩm rầm đọc, hai tay bắt vào nhau như bắt quyết, hét lên một tiếng rồi dùng chiếc bát để cạnh vục vào nồi dầu đưa lên miệng uống. Uống một hơi ngon lành như buổi trưa đi làm về được bát nước chè xanh, Người xem chen nhau chăm chăm nhìn thử có phù phép gì không. Số sửng sốt, số vỗ tay. Rồi tất cả vỗ tay để chấm dứt tiết mục thứ nhất. Sang tiết mục thứ hai, chú kéo lưới cày trong bếp đã đỏ rực ra giữa nền sân cỏ.Hai chân không dày dép, chú đứng lên lưỡi cày, Miệng chú hát và tay bắt nhịp cho những người khác hát theo. Nào có ai hát, mặc dầu rất thuộc bài hát ấy và cũng rất quen hát tập thể, nhưng tất cả đang rờn rợn, thắc mắc và lo lắng cho hai bàn chân chú sẽ bị bỏng. Chú bước khỏi lưỡi cày chân không hề sây sát, phút chốc chú quên ngay chuyện đang làm, chú hét lên như thầy phù thủy, bảo các chú kia đưa chiếc mâm đồng ra. Chú đặt lên trên chiếc mâm đồng những đạo bùa xoắn tròn rồi đi vòng quanh, miệng lầm rầm đọc, hết đọc lại hét, bốn chú bộ đội khác kề bên cũng hát, hát như kiểu hát của người cúng văn. Mắt chú bộ đội đứng giữa nhăm nhắm. Còn một chú khác giải thích cho mọi người nghe: “Đó là thầy phù thủy đang giao nhiệm vụ cho âm binh. Âm binh nào rõ nhiệm vụ sẽ cuốn trong di chuyển”. Một chiếc, hai chiếc, ba chiếc bùa rồi tất cả đi vòng quanh. Khi chú gõ vào mâm đồng là các đạo bùa đứng lại

Người xem trầm trồ khen chú bộ đội có cả âm binh, chuyến này thì địch sẽ thua liểng xiềng.

Đêm đã khuya, còn đảm bảo sức khỏe cho ngày mai sản xuất và công tác, chú bộ đội thu các đạo bùa cho vào túi, gỡ khăn đội đầu, hai tay xoa xoa vào nhau nói: “Bà con, chú bác vừa xem xong một vài thần bí của thầy phù thủy. Thực ra không có gì là thần bí cả đâu” Chú bộ đội cho tay vào túi lấy ra một đạo bùa mở cho bà con xem, bên trong chỉ là con ốc nhỏ, loại ốc vặn ở cầu ao. Chú giải thích rằng phải để mắt hàng ngày, chọn tìm những con nào hau đi, xong cuốn vào tờ giấy bản, cho miệng ốc nằm dưới. Lúc đàn hát không khí yên ả là ốc bò, kéo theo tờ giấy trên lưng. Con ốc trong tay thầy phù thủy làm cho ta tưởng có phép tài giỏi sai khiến được âm binh.” Chú móc túi lấy ra nắm bùa, vừa dặt xuống bàn là tụi trẻ con ùa tới cướp và ngày hôm sau trong xóm không còn con ốc nào nữa. Chúng thi nhau bắt, cuốn vào giấy làm phép.

Sang chuyện đi trên lưỡi cày nung đỏ, chú giải thích là dùng nước là trầu không hòa tan trong thủy ngân với thạch lãnh sẽ có chất cách nhiệt rất tốt. Bôi các chất đó vào chân là đi được trên than hồng, trên lưỡi cày nung đỏ. Bôi càng dày đi càng lâu. Một thằng bé lau nhau hỏi ngay: “- Lấy chất thủy ngân và thạch lãnh ở đâu ạ?” Chú trả lời là nên đi học cho giỏi cho đến cuối chương trình văn hóa cấp hai sẽ rõ, Đừng hỏi tắt về làm dọa người khác, không cẩn thận bị bỏng chân đó.

Tôi đúng nghe cũng thấy thích, mọi điều rõ rang, có một số điểm mà ông Trẩn hay làm, muốn hỏi thêm nhưng ngài ngại. May quá đã có người hỏi đúng điều mình đang thắc mắc như việc uống dầu đun sôi. Chú nói: “Chỉ được uống dầu đun sôi thôi nha, và chỉ được dùng dầu lạc đun sôi thôi vì dầu lạc đun lên thấy sôi, ta đứng ngoài tưởng là nóng lắm nhưng cũng chỉ nóng từ sáu mươi đến bảy mươi độ Trước khi múc uống, thầy phù thủy thường cầm chiếc bát, trong bát đựng rượu Thầy huơ huơ tay trên nồi, đọc thần chú, đổ bát rượu vào. Rượu bốc hơi nhanh nên nhiệt độ trong nồi lúc nào chỉ còn bốn mươi đến năm mưoi độ, múc uống ngay sẽ không việc gì cả. Tôi vừa làm cho bà con xem là như vậy đó. Chú ý là chỉ dùng dầu lạc để nấu thôi, còn các loại dầu khác nhiệt độ sẽ rất cao và thế này nữa: Người nầu dầu bao giờ cũng phải là loại tin cậy nhất của thầy phù thủy, bởi dùng kẻ khác nhỡ họ phản bội, cho nhúm muối vào là nhiệt độ sẽ tăng đột ngột làm bỏng miệng, bỏng lưỡi.

Chú kết luận: “Vũ trụ bao la, thế giới đầy bí ẩn, ta cũng đừng nghĩ rằng không có thần linh, không có thế giới bên kia. Nhân loại khoa học đang nghiên cứu vấn đề này, ta phải ủng hộ nhưung cũng cần vạch mặt một số kẻ đang lợi dụng kiểu thầy phù thủy dùng mánh khóe để lừa lọc bà con ta”.

Sau đó chú gặp tôi nói: Cháu nên trở về với gia đình, xin đi học hoặc lao động giúp đỡ má cháu, Theo thầy phù thủy chỉ trở thành tay sai, lớn lên sẽ có tội với nhân dân. Ba năm qua cháu học được gì nào? Học thói lừa lọc thôi ư? Để chú bàn với má cháu”

Tôi trở về nhà thầy phù thủy, để ý quả đúng là thầy chỉ tìm cách đánh lừa người như chú bộ đội đã nói. Từ mến phục ông Trẩn, tôi chuyển qua bực bội, khó chịu, song bề ngoài vẫn giữ vẻ bình thường. Mãi tới hôm xã dưới mời ông đi trừ ma, ông giao tôi việc đun dầu sôi. Cũng thử xem chú bộ đội nói đúng hay sai, tôi thủ nhúm muối ném vào nồi lúc dầu đang sôi sùng sục. Ông Trẩn vục bát múc lên uống bỗng ông trừng mắt nhìn tôi, nhìn nồi dầu quát: “Thằng chó! Đứa nào…”. Ông nói chưa hết câu hai tay đã bưng lấy miệng. Gia chủ xúm đến dìu ông tới giường. Hình như mất một tháng ông phải dùng nước cơm pha đường, không nhai được thứ gì hết. Tiếng đồn ầm lên là thần trùng vùng đó cao tay đã trị lại thầy phù thủy. Còn tôi trốn một mạch về nhà mẹ. Từ đó được các chú bộ đội giúp đỡ, cho đi theo, và khi cả xã tôi cũng như cả huyện bị địch đóng chiếmm tôi vẫn ở lại xã, hoạt động bí mật, Có hôm tôi đánh cắp được của tụi ngụy hai trái lựu đạn, Tôi định ném vào nhà chúng khi đêm xuống chúng nằm ngủ. Hồi này chúng bắn giết, triệt hạ những người và những gia đình cộng sản. Cơ sở cách mạng hầu như tan vỡ. Tôi xin phép chú bộ đội đã giải thích các âm mưu của thầy phù thủy, hồi này chú hoạt động bí mật Chú bảo: “Nó canh gác kỹ lắm, không len vào để ném được đâu. Hơn nữa cháu chưa nghe tiếng nổ bao giờ, lập cập ném rất khó. Vậy đang đêm cháu cầm một quả lựu đạn ra chỗ đất trống đầu thôn ném thử. Đó là cách tập ném lựu đạn với lại lựu đạn nổ cũng là tiếng thức tỉnh báo cho bà con biết, chúng chưa giết hết được cách mạng đâu, cách mạng vẫn còn xung quanh bà con.

Câu chuyện Lê Minh kể cho thím Bảy và Năm nghe rất hấp dẫn, mỗi người có một sự hấp dẫn và liên hệ khác nhau. Thím Bảy nghĩ: Từ nay đi qua khoảng trống mà xưa kia là bãi tha ma mình không còn sợ nữa và thím chợt nghĩ ra tiếng thình thịch như tiếng ma đuổi theo làm thím hoảng hốt, có thể chỉ là tiếng chân mình bước dội vào đêm vắng vẻ mà thôi.

CHƯƠNG 7

Bị nhốt trong nhà giam quận, ông Năm sờ tay khắp tường tìm chỗ bấu để vượt ra ngoài, nhưng không có chúng xây kín mít, ngay cánh cửa cũng bằng sắt thép kín chặt, ánh sáng ban ngày khó lọt vào. Ông sờ vòng quanh tường rồi ngồi giữa nhà nói:

– Kiên cố chướ. Giàm cái thằng già này có chi mà kiên cố vậy. Cũng khoái! Thì ra thằng quận trưởng sợ mình, coi mình đang cường tráng a…ha. Ông nằm ngửa, bắc chân trái lên chân phải, ngâm nga.

Ánh sáng không lọt vào phòng giam nhưng tiếng động thì lọt vào, Giữa những tiếng pháo, tiếng còi, tiếng máy bay đi về rồi tiếng súng máy…không làm ông để ý. Ông để ý đến tiếng trống bập bùng và hình như có tiếng hát của người cúng văn. Họ làm cái chi vậy? Không nghe tiếng nổ của bom đạn nữa. Im ắng quá trời, im ắng cho nên càng nổi rõ tiếng hát, tiếng trống. Ông Năm nghiêng, áp hẳn tai vào cánh cửa, muốn biết ngay tức khắc những gì đang xảy ra bên ngoài.

Có tiếng mở khóa lách cách. Tên lính bước vào, mang cơm cho ông như thường lệ. Khác với mọi lần ông hay chửi, xỉa xói nó, lần này ông hỏi rất tử tế:

– Có chi xảy ra ngoài quận vậy cậu?

– Chà, lão già thật là mít đặc – Tên lính nói vậy rồi tiếp, như chính hắn đang làm việc này: -Quận nhà sắp yên vui, sắp thanh bình rồi. Lâu nay thua Gò Nổi, thua ở trận tập kích vào Điện Bắc, bị sập ba cầu một lúc là chỉ vì bên Việt cộng thằng chỉ huy có phép phù thủy. Đêm nay quận trưởng đã mời được lão Trần thầy phù thủy vào loại cao tay nhất nhì của cộng hòa miền Nam về lập đàn cúng tế, dẽ đạt được hai cách: Một là cắt đầu tên chỉ huy bên kia, hay là thu hết các đạo âm binh và pháp thuật của nó. Lâu nay quận trưởng dở quá, ai lại dùng người trần mắt thịt để đánh nhau với hồn ma bóng quỷ.

Tên lính gác đi ra ngoài, khóa cửa lại rồi mà ông Năm vẫn ngồi trên nền xi măng, hai tay ôm vòng lấy đầu gối, lòng ông quặn đau thực sự: Thôi rồi, thế là hết. Lão Trần là bố nuôi của Lê Minh và giờ đây tìm cách bắt Lê Minh, chuyện đó dễ như trở bàn tay. Mất Lê Minh rất có thể con gái ông cũng mất theo.

Mấy hôm nay trong thị trấn quận xôn xao hẳn lên bởi Tư Thìn đầu hàng thổi phồng những phép phù thủy của người chỉ huy du kích, Nhà nào cũng thắp hương, yểm bùa, đốt vàng lá, khấn vái, có người còn tính chuyện móc nối với bên du kích để họ thông cảm hoàn cảnh gia đình mình, chỉ vì muốn tìm kế sinh nhai, chứ không phải chống lại cách mạng, mong người chỉ huy du kích đừng cho âm binh đến quấy phá. Họ còn đồn ầm lên bao nhiêu chuyện nào là âm binh đã đốt nhà nào thì nhà ấy cháy trụi, vàng sắt chi cũng cháy. Nhưng nếu nhà nào tốt thì dù ở giữa đám cháy nhà ấy vẫn không cháy. Những nhà có tội, những tội còn nhẹ thì người chỉ huy kia sẽ ra lệnh cho âm binh đốt cháy các tấm tranh và lạt buộc để cảnh cáo, chứ chưa đốt rui mè và các đồ đạc trong nhà. Bây giờ còn thêm một thứ ồn ào nữa là quận trưởng đã mời thầy phù thủy cao tay nhất về lập đàn cúng tế bắt người chỉ huy bên kia. Có bắt được không? Ai cao tay hơn ai? “Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết” chi bằng đóng cửa thắp hương chờ đợi.

Giữa cái đêm lạnh giá đó, ông Năm ngồi bó gối trong nhà giam lo lắng một cách bi quan, nhân dân thị trần ngập ngừng chờ đợi và cả ông Trẩn vừa làm hết phần phù phép nhưng lòng vẫn phân vân, thì Lê Minh người trần trùng trục, mặc mỗi xi líp, khắp người trát đầy lá khoai lang nhồi cùng bồ hóng, ép mình xuống đất, ai đi qua đạp chân lên người mới có thể nhận ra. Lê Minh đưa bàn tay rà theo ngọn cỏ lần xuống đến tận gốc, nhè nhẹ lướt bàn tay qua phải, qua trái, khoảng năm mươi phân, gặp dây mình là lần theo tới tận nơi, dùng kim băng khóa chốt, đưa mình trờ lại trạng thái an toàn. Sau đó buộc hai dây thép ngang qua hàng rào vào nhau tạo thành quãng hở. Qua xong, nghiêng người quay lại mở dây lạt, rồi rà tiếp mìn và buộc dây lòn qua hàng rào khác. Nếu bị lộ, không đường chạy, y như ngồi trong cũi, Minh tin rằng không thể bị lộ vì động tác anh rất nhẹ và khéo, thuần thục như gỡ dây khoai lang trên bãi cát. Anh hiểu rằng người chiến sỹ công binh chỉ một lần sai phạm về kỹ thuật là mãi mãi không khắc phục nổi nữa, bởi thế những giờ rỗi rãi sau khi giao nhiệm vụ cho đội du kích, Minh thường ra chỗ trận địa cũ của địch, tập bò, tập rà mìn, nghiên cứu nghiều động tác lòn qua hàng rào dây thép gai, chọn những động tác thích hợp áp dụng cho mình và giới thiệu cùng anh em du kích.

Đêm nay Minh bò vào dễ dàng vì các xã hầu hết đã bị dồn đến khu tập trung, tạo thành vòng đai quanh quận. Chúng tưởng du kích bị hất ra phía rừng nên canh gác trễ nải. Phần khác lần trước dạo Mỹ còn đóng, Minh bò vào hàng rào này nhưng không đánh được. Bây giờ nghĩ đến Minh vẫn tự cười với trò chơi gần như trẻ con ấy. Số là tụi Mỹ mới đến định lập căn cứ, chúng canh gác rất kỹ. Đêm đêm thằng Mỹ đi tuần tra hai tay cầm súng, buộc dây dẫn chó béc-giê giữa bụng. Chó đánh hơi lạ hướng nào, kéo thằng Mỹ chạy tới. Thằng Mỹ bóp cò, bắn như giội nước. Minh lòn qua các hàng rào rồi nằm đợi đến gần sáng, không thế nào men tới khu nhà gần ban chỉ huy, Con chó tinh lắm, cứ khịt khịt mũi về hướng có Minh. Chờ mãi Minh đành phải bò ra.

Về đơn vị nghe tin một xã thuộc dân tốc Re vừa bắn được con cọp, mừng quá Minh đi bộ hai ngày, leo núi tìm tới xin miếng da, đem về căng ra phơi nắng. Thử xem tinh ranh láo lếu của chó Mỹ đến mức nào. Tuần sau, Minh lại luồn vào đồn Mỹ, khi vượt qua các loại hàng rào, đến vòng kiểm soát của chó, Minh nằm im, chó ngửi được mùi lạ, chạp lấp xấp tới hin hít, kéo thằng Mỹ theo. Minh vung tay đập miếng da cọp vào mũi chó, con chó hoảng quá tưởng cọp vồ phá chạy. Với sức chạy cao nhất, mạnh nhất. Chó bươn về khu nhà xây có lính gác kéo theo thằng Mỹ to cao lềnh khềnh, ngã xền xệt trên mặt đất, bị dà chó kéo đi không đứng dậy được bởi dây xiềng xích chó được buộc chặt vào bụng nó. Sau cái đêm ấy chó khiếp quá, không dám ra ngoài nữa. Con chó gày còm, phải gửi bán hạ giá cho một nhà tư sản Sài Gòn. Còn tên Mỹ sứt đầu mẻ trán, quanh người chỗ nào cũng sây sát, mất mười lăm ngày nằm bệnh viện, sau đó người cứ ngớ ngẩn vì nghĩ mãi không ra, Việt cộng đã dùng thuốc gì mà làm cho con chó của nó được huấn luyện kỹ với chiến trường hiện đại phải khủng khiếp.

Lần này, vượt qua các loại hàng rào cầm quả mìn hẹn giờ nổ trên tay, Minh bò theo rạch nước đến nhà tên quận trưởng như thím Bảy đã hướng dẫn. Minh nấp sau chiếc cột nhỏ bằng cổ tay, cao ngang bụng người, kinh nghiệm cho hay lính gác thường sục tìm những nơi có cột lớn. Cột lớn sẽ thành bóng lớn tạo điều kiện cho che khuất. Khu nhà hành chính lặng im. Vài tên gác đi vòng quanh, chốc chốc dừng lại xin nhau thuốc hút, hoặc hỏi giờ. Tiếng chửi vu vơ trong cơn ngủ mê vọng ra. Ánh sáng điện hắt về phía cổng chính và phía hàng rào của vùng đất bằng nơi chúng dự đoán dễ bị tấn công.

Lạnh thấm vào da thịt, tưởng như tim cũng rung lên. Minh không nhúc nhíc. Đời đói nghèo quen thức khuya dậy sớm cho mẹ đi chợ, hoặc đi làm thuê từ lúc lên bốn lên năm, rồi lên chín đã được thầy phù thủy dạy cho cách chui rào, vượt tưởng, nằm sát đất bao nhiêu lâu để mất hẳn hơi người. Minh nằm đợi. Theo như thím Bảy đã cho biết quy luật của tên quận trưởng. Thím đã nuôi nó từ khi còn ẵm ngửa đến bây giờ lấy vợ rồi vẫn cũng không phá được quy luật đó. Nghĩa là hắn thức giấc vào lúc một giờ ba mươi đến hai giờ sáng, giờ đó nó dậy đi tiểu và đi vòng kiểm tra sự canh gác. Minh nằm yên lặng và mùi hương thoang thoảng ở một nén hướng chưa tắt cắm trên khúc chuối sau buổi lễ của ông Trẩn đã được gác lên mé gần hàng rào. Minh cứ nghĩ xem hôm nay có phải ngày rằm hay mùng một gì không, chứ anh nào biết đấy là hương thơm còn lại của buổi lễ thầy phù thủy đã cúng với ý định bắt anh nộp cho quận trưởng. Có một người đang hết sức bồn chồn, bồn chồn đến tức thở không thế nào ngủ được. Đó là thím Bảy. mặc dầu thím đã nghe Minh giải thích những hiện tượng phù thủy là lừa bịp, nhưng lúc tối xem ông Trẩn làm các phù phép, tung các đọa âm binh thì óc thím rờn rợn. Nhất là thím biết đêm này Minh sẽ vào giết tên quận trưởng. Thím muốn Minh đừng vào, một sơ suất nhỏ nào đấy xảy ra, Minh ở trong vòng vây là sao thoát được. Minh bị giết, hoặc bị bắt thì uy tín ông Trẩn sẽ lên cao. Mặc dầu việc Minh bị bắt không liên quan gì đến buổi cúng lễ của ông Trẩn cả.

Có tiếng giày lộp cộp trong nhà, báo hiệu đến giờ quận trưởng dậy, Minh lợi dụng bóng tối vọt nhanh tới nép vào cánh cửa. Khi nó xô cửa, cánh cửa đã che toàn thân Minh, Nó bước thẳng ra sân, Minh luồn vào nhà, chui xuống gầm giường nơi hai vợ chồng tên quận trưởng ngủ. Bao giờ thức dậy tên quận trưởng cũng cầm đèn pin, nó không bấm soi lúc đi ra nhưng khi vào nó sẽ soi góc tủ, gầm giường. Thoát chết nhiều lần, cộng với thói quen của một người lúc ở tườ ngoài sân bước vào nhà hay bấm đèn soi gầm giường, xem có rắn rết, hoặc chuột bọ gì chui vào không. Minh biết vậy nên lắng nghe tiếng giày của tên quận trưởng. Khi quận trưởng vào, Minh leo lên nằm phía giường bên trong của vợ nó. Quận trưởng bấm lướt đèn góc tủ, gầm giường không thấy gì, mới ngồi vào giường cởi giày. Đấy là lúc Minh chui lại xuống gầm giường. Lợi dụng tiếng động, Minh hành động mau lẹ nên quận trưởng có đề phòng mấy cũng không thể nhận ra. Minh lấy mìn kiểm tra hẹn giờ nổ, móc chặt vào gầm giường, rồi bò về phía cửa sau, tháo then cài bên trong. Giấc ngủ nửa đêm sau khi thức dậy là ngon nhất, say nhất. Minh lòn ra ngoài dễ dàng như đi trong mảnh vườn của mình. Anh vượt khu trắng về đầm sen, nơi Năm đang đứng đợi

Năm múc nước cho Minh rửa mặt, cầm nắm bông chà hết nhọ nồi, lá cây bám trên lưng và tay chân anh. Minh nghe da rát như ngày nhỏ bên bờ sông mẹ cầm tay kỳ sạch lớp đất đọng dày trên cổ qua mùa đông không nhúng nước vì sợ lạnh. Năm trao gói quần áo bọc trong khăn voan cô giữ lúc Minh ra đi. Năm sờ mái tóc minh rồi nói:

– Tóc ướt quá trời. Lạnh không anh?

Một tiếng nổ phá tan đêm tĩnh mịch, tiếng nổ rền dài đến bìa rừng phía tây rồi mất hẳn.

– Xong rồi! Minh nói.

Quả mìn nổ, vợ tên quận trưởng chết ngay còn tên quận trưởng bị thương nặng. Tên tỉnh trưởng cho máy bay trực thăng tới chở nó về nhà thương quân sự. Máy bay vừa đến, tên lính hầu leo lên kiểm tra, chọn chỗ cho quận trưởng nằm và đặt ba lô sẵn. Hắn sẽ cùng đi để săn sóc quận trưởng, Hắn tới cửa máy bay, nâng đầu cáng nhè nhẹ đưa quận trưởng lọt vào sàn. Hắn lắc lắc đầu, thương xót khi thấy quận trưởng mê man, bọc đầy băng trắng. Hắn bực mình chửi Cộng sản. Một tên lính khác đi áp tải máy bay thấy vậy mắng:

– Đồ ngu như bò! Đứng đó mà chửi đổng, không xuống lấy chiếc gối kê đầu cho ông ấy cao lên, Chập chờ ở đây là đi đời cả nút.

Tên lính hầu định chửi lại, nhưng nghe ra có lý, đành im lặng chạy vào nhà kho, vừa lúc thím Bảy đi tới hỏi nó:

– Này chú Tân, quả mìn hôm qua đâu rồi?

Tên lính hầu trả lời:

– Trong ba lô. Em để trên máy bay rồi

– Chú cũng đi cùng với máy bay à?

– Dạ

Thím Bảy định nói thêm, vừa lúc một tên lính gác đi qua. Tên lính hầu quát:

– Cái nhà thím này làm ăn không ra gì cả. Quận trưởng bị thường nặng mà chiếc gối cũng không có, Tôi phải đi tìm chiếc gối đây.

Tên lái máy bay chờ mấy phút không thấy tên lính hầu của quận trưởng lên, nó bay luôn. Nó sợ ở lâu bị Việt cộng bắn pháo tới.

Máy bay lên quá nóc nhà, Tân mới cầm gối chạy ra huơ huơ chửi thằng láo nhát gan làm mình không kịp theo hầu quận trưởng. Thím Bảy nhìn tên lính hầu, khuôn mặt thím giãn nở, thím thở phào nhẹ nhõm

Mười lăm phút sau, lưng chừng trời bùng lên một tiếng nổ. Máy bay bốc cháy không rõ vì sao. Chẳng tên nào sống sót để giải thích. Lính quận và khu gia binh xôn xao: Có lẽ người chỉ huy bên Việt cộng đã cao tay hơn thầy phù thủy của quận trưởng Huỳnh Ví mời về. Đúng là người chỉ huy bên kia cũng có phù phép, có những đạo âm binh tài giỏi. Chỉ có âm binh mới vào được nhà quận trưởng. Nhà quận trưởng có cửa đóng kín mít, lại có chó và lính canh gác. Việt cộng người trần mắt thịt làm sao vào được? hoặc vào được nhà nhưng làm sao lên được máy bay. Chỉ có âm binh mới đi mây về gió, đuổi kịp máy bay…

Tiếng đồn từ hàng ngũ lính quận sang khu gia binh, ra thị trấn rồi đến khu tập trung Nỗng Đình, lan khắp quận. Tên quận trưởng mới được điều về thay Huỳnh Ví thét ầm lên”. “Không có thần trùng ma quỷ nào hết!”

Nhưng nào có dẹp được sự ồn ào. Toàn quận đang nhấp nhỏm, chờ đợi một đột biến gì lớn sẽ xảy ra. Quận trưởng mới bực mình lắm, y tống cổ ông Trẩn vào nhà giam để nếu có tài giỏi thì ông chui thử ra khỏi nhà tù xem? Quận trưởng mới đã đậu cử nhân toán học là người không tin vào ma quỷ!

CHƯƠNG 8

Nghe tiếng khóa mở lạch cách, ông Năm ngồi dậy và khi tháy ánh đèn lo lói, ông cất tiếng hỏi:

– Mang đèn cho bố mày hử?

Ông lầm! Theo sau tên lính là một người mặc áo dài đen, quần trắng, nách cắp ô. Tên lính quay ra mang theo đèn, đóng sập cửa lại rồi lách cách khóa, phòng giam trở lại màu tối như dùng vải đen bịt mắt.

Người mới đến ngồi xuống và ông Năm không còn nghe tiếng nhúc nhích cử động hoặc di chuyển nào trên nền xi măng nữa. Hẳn lão đang buồn! hẳn lão có cũng có những dính líu với cách mạng nên bị tống giam?

Chưa buồn ngủ, vốn tính thích bắt chuyện, ông Năm rờ rờ tay tới gần hỏi:

– Ai đó?

– Tôi

– Ngụy tặc dữ, tôi là ai mới được chớ?

Người kia im lặng một lúc rồi thở dài. Ông Năm hỏi tiếp:

– Làm gì. Hoạt động Việt cộng hử?

– Nào thành Việt cộng, vạ lây vì Việt cộng!

– Nói nghe giỡn vậy. Có mang chăn chiếu chi không? Không hử? Tới đây nằm chung về sáng lạnh thấy mồ.

Hai người nằm chung, nói chuyện cho đến sáng, mà cũng chẳng biết lúc nào thì sáng: nhà tù không chút ánh sáng lọt vào, đồng hồ không có, mắt người cứ thao láo không một chút cay cay, nhất là đối với ông Năm, khi biết người đang nằm cạnh mình là ông Trẩn, từng là bố nuôi của Lê Minh. Ông Trẩn lầm rầm nói chuyện là đã đưa hết phép phù thủy rồi mà không trị nổi Lê Minh, nên bị tên quận trưởng mới bỏ tù. Ông bảo rằng: Lê Minh cũng có học được ông ít nhiều, nhưng về sau Lê Minh tự rèn luyện thêm hoặc học thêm ở những thầy khác nên pháp thuật rất cao cường.

Những điều lão nói, ông Năm tin răm rắp, bởi vì lão đã từng lừa được ông Năm và ông Năm cũng đã từng nghĩ Lê Minh có phép phù thủy. Lão nói ông Năm tin, nhưng bản thân lão không tin, vì có ai biết rõ lão hơn lão biết lão. Nằm trong nhà tù chán nản, chán nản đến mức không muốn bắt chuyện với người bạn già vui tính. Lão lo lắng, lão sợ hãi. Lào sao, làm cách nào để ra khỏi tù, tránh khỏi những tra tấn, đòn vọt của viên quận trưởng mới, không tin vào thần thánh ma quỷ. Hoặc ra khỏi thì làm sao giữ được uy tín để rồi tiếp tục đi kiếm ăn ở những vùng và bản thân lão gây nên ma quỷ. Lão lầm rầm, lão suy nghĩ…Trong giấc ngủ chập chờn lão mơ lão hóa thành con ong, hoặc có sức mạnh vô song, đập tan cảnh cửa để bước ra ngoài mà đạn bắn vào người không thủng. Một câu hỏi nào đó của ông Năm làm lão thức giấc, lãp chép miệng, bực mình với suy nghĩ viển vông. Lão trở lại với thực tế là nghe nói có người bị tù thường dùng một chiếc đinh, một chiếc thìa để đào ngạch chui ra. Rồi lão cũng phải làm như thế.

Hai người già sống trong tù với nhau ngày này qua ngày khác mà mỗi người nghĩ một cách riêng, hành động một lối khác. Ông Năm nghĩ đến Lê Minh, nghĩ đến con gái ông, Ông mừng là chúng nó không bị bắt, đội du kích không bị tiêu diệt. Ông chửi bọn lính vào đưa cơm, đưa nước. Ông chửi chúng như người chủ chửi nô lệ. Ông hát, ông ngâm nga những câu thơ sai cả âm điệu. Ông phấn khởi và ông tin rằng: chúng nó, nghĩa là Lê Minh và con Năm còn sống thì phong trào còn lên cao và nhất định chúng sẽ nghĩ đến ông, có ngày chúng phá nhà tù cho ông ra. Còn ông Trẩn buồn vã chán nản, không nơi nào bấu víu, chính quyền quận bắt giam ông, cộng sản không tin ông, nhân dân sợ ông và hoài nghi ông nhiều hơn là phục ông. Còn vợ con? Vợ già lẩm cẩm lên đồng suốt ngày, sống mơ mơ màng màng, Còn con thì không có.

Hai người già vẫn tiếp tục theo đuổi những ý nghĩ riêng, không hề biết gì đến những diễn biến bên ngoài.

Theo kế hoạch đã bàn bạc giữa Minh và cô Năm thì định nhờ ông Út ra khu vực trắng đón bộ đội chủ lực dẫn về nơi tập kết chuẩn bị tấn công vào chi khu quân sự. Nhưng chưa gặp Lê Minh thì nét mặt ông Út quàu quạu.

Năm mỉm cười nắm tay ông kéo ngồi xuống:

– Cháu biết vì sao chú tức rồi. Mời chú ngồi xuống đây đã. Đâu sẽ vào đó – Cô quay sang nói với Minh – Nguyên do từ anh mà ra cả!

– Cô nói gì kỳ vậy? – Minh khó chịu hỏi

– Đúng, giữa hai người đều đang có những chuyện bực mình, thôi thì mất chút thời gian nhưng cũng là dịp làm cho ông Út thông cảm. Ông Út thông cảm thì đối với người khác cũng dễ dàng đả thông thắc mắc. Nghĩ vậy Năm nói:

– Đã từ lâu, cháu muốn có dịp để anh Minh trình bày với chú cũng như ba cháu. NNhưng chú coi đó, ngày ngày bao nhiêu chuyện xảy ra. Giờ cũng kíp lắm rồi. Song để yên thì lướng vướng như gai nhặm dưới gan bàn chân. Còn anh Minh, anh chịu khó nói để chú nghe, chú đang mắc mớ về anh

– Chẳng có chuyện gì mà mắc mớ với tôi cả?

– Chuyện ngày xưa anh là con nuôi thầy phù thủy đó mà

Minh tưởng Năm nói đùa, gợi chuyện không đúng lúc, anh cáu:

– Con nuôi thầy phù thủy thì có liên quan gì đến ông Út?

– Nhưng anh đã làm con nuôi thầy phù thủy phải không? Ông Út hỏi với giọng bình thường, song đường nét câu hỏi sắc bén, lạnh lùng.

– Phải!

Nghĩ đến bị lừa lọc, nghĩ đến người bạn tri kỷ vẫn đang còn tù tội, ông Út uất lắm:

– Hừ! không liên quan gì với tôi à? Ông Út nói tiếp một mạch sợ như bị cắt ngang. – Hai chúng tôi sạt nghiệp, ông Năm ốm rụng tóc, rụng răng. Đã tưởng chuyện cũ mím miệng chôn sâu trong lòng. Đâu ngò lại còn bữa này, Đáng buồn hơn cả là anh đội lốt cách mạng. Anh đánh địch anh sống còn bà con, làng xóm chúng tôi, cả đồng đội của anh cũng bị giết, bị bắt…Tôi nói hết rồi, có chết cũng thỏa mãn…có giỏi thì anh cứ tung âm binh mà làm hại tôi…

Minh ngơ ngác không hiểu ngô khoai ra sao, tưởng như câu chuyện lạc đề.

Ông Út nhìn Minh nói:

– Anh đừng có giả bộ ngây ngô, ngây ngô như những lần lăn lóc bên sòng xóc đĩa…

– Nhớ…cháu nhớ những lần đánh xóc đĩa. Nhưng việc đó liên quan chi đến chú?

– Anh nhớ mà không nhớ. Anh quên cũng là đúng thôi.Anh quen lừa lọc chỗ này chỗ nọ, mười lăm năm rồi làm sao mà nhớ được. Tôi nhắc để anh hiểu: Cái đêm gần Tết trong căn nhà giữa đồng, anh đã mở bát úp trên đĩa cho mọi người xem thấy hai đồng tiền: đồng sấp đồng ngửa – lẻ – mọi người đánh lẻ – sau khi anh than thở nghèo khổ giả dối. Nhưng thực ra anh cùng một bè lũ với lão chủ sòng bạc. Khi mở ra hai đồng tiền không còn ở vị trí lẻ nữa mà đã thành chẵn! Thầy trò anh dùng phù phép bịp bợm. Tôi còn nhận rõ ra anh ở cái hôm cúng từ ma quỷ về gỡ cửa tại nhà ông Chín Toại. Mười lăm năm rồi. Anh tưởng anh đổi lốt được mãi. Đến như Tề Thiên Đại Thánh ẩn hình hóa thành ngôi đền cũng còn để lộ cái đuôi khỉ.

– Chú dừng chút đã nghe. Cháu xin nói: Việc ma gõ cửa cháu cũng giải thích được. Còn anh Minh, anh nghĩ sao về đồng tiền đang ngửa lại sấp? Năm tính là Minh giải thích được ngay nên đặt câu hỏi nhưng khi nhìn qua thấy anh ngồi thừ, đầu óc như để đâu đâu, liền hỏi: – Anh Minh sao lặng vây?

Minh chậm rãi trả lời:

– Thưa chú, mọi điều chú noi đều có thật. Cháu là con nuôi ông Trẩn làm nghề phù thủy và đã từng đi theo ông lừa lọc khắp nơi. Chú tha thứ cho, Hối hạn vào giờ này cũng đã muộn. Hồi đó cháu còn nhỏ không có người dẫn dắt đúng đắn. Cũng không ngờ kết quả tai hạn đến cuộc đời người khác, trong đó có chú và ông Năm. Cái quá khứ đen tối ấy cháu tưởng như rũ sạch từ lâu, cắt đứt từ lâu rồi và cháu làm lại cuộc đời khác. Cuộc đời đi theo cách mạng. Có điều chú hiểu cho là là không có thần thánh ma quỷ phù phép nào cả

– Không ma quỷ làm sao bịt mắt được hàng chục người làm ra đồng tiền đang ngửa thành sấp?

– Cháu xin giải thích để chú rõ. Ba năm đi ở với ông Trẩn ông ấy dặn cháu phải để móng của ngón tay út thật dài, vót mỏng vào giao cho cháu sáu tháng liền chỉ việc ngồi đưa móng tay út cài vào cạnh đồng tiền đặt trên chiếc đĩa. Cài vào rồi lật thật nhanh làm cho đồng tiền đang sấp bật lên lật sang thành ngửa, đang ngửa thành sấp. Hai đồng tiền dùng để xóc đĩa cũng rất đặc biệt, nhìn trên xuống thì thấy như những đồng tiền thường nhưng cúi xuống nhìn ngang sẽ thấy giữa cạnh đồng tiền được mài mỏng, móng tay trẻ con có thể để lọt giữa khe hở đó. Ba ngón tay trên và ngón tay cái cháu nắm lấy bát, còn ngón tay út cháu luồn vào trong bát lật rất nhanh trước khi úp bát xuống. Lúc lật bao giờ cũng tính đúng lúc người xung quanh đang để ý chuyện khác.

– Đơn giản vậy thôi à? – Ông Út hỏi.

– Dạ!

– Không có ma quỷ gì hết!

– Hoàn toàn không. Sau trận đánh này đất đai được mở rộng, cháu xin tổ chức một buổi lễ của thầy phù thủy trừ diệt các loại thần trùng. Cháu sẽ giải thích cách làm để chú và bà con rõ. Đánh thắng ngụy rồi chúng ta còn phải đánh thắng trên mặt trận văn hóa, phải triệt tận gốc những kẻ chuyên đi lừa đảo nhân dân.

– Ông Út không còn thắc mắc gì nữa, ông sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm thưở nhỏ của Minh và điều trước hết là ông nhận những đề nghị của Minh

CHƯƠNG 9

Khi tiểu đoàn trưởng bộ đội chủ lực đưa quân lui vào vị trí tập kết theo sự hướng dẫn của ông Út xong anh liền sang gặp đội du kích, Minh đã bắt tay anh rất chặt. Minh đợi anh từ lâu, từ khi nghe tin đồng chí trung đoàn trưởng nói ở hôm hợp đồng tác chiến, tiểu đoàn đồng chí Quyết Thắng sẽ đến cùng các đồng chí. Giờ đây Minh mới gặp, Minh cúi xuống bóp cho hai đoạn dây thép gai sá nhau nói:

– Những hàng rào phía ngoài chúng tôi sẽ buộc dây để luồn người vào…

– Minh! Minh phải không? Tiều đoàn trưởng bộ binh khẽ kêu lên.

Minh sững người, đứng thẳng lên và cũng nhận ra, đột ngột gọi rít lên trong cổ:

– Tè – Tè hử?

Tiểu đoàn trưởng bộ binh cười:

– Tè, Tè đây! Thế là đi khắp đất nước cuối cùng lại gặp nhau trên mảnh đất thuở nhỏ tập đánh giặc giả này

– Bây giờ mình đánh giặc thật rồi. Cậu đặt cái tên đẹp quá mình nào có nhận ra

– Có phải tôi tự đặt đâu, Anh em họ tự đặt cho. Đời tôi đi đâu bị đặt tên đó, có lẽ do cái dớp thuở nhỏ, thủa mang tên thằng Tè!

Một phát pháo sáng bắn dọi vè phía hai người, có lẽ tên lính gác nghe tiếng động nên bắn tỏa sáng để tìm mục tiêu. Cả hai cố ghìm niềm vui tình bạn lại để bắt tay vào công việc. Tiểu đoàn trưởng chủ lực nói:

– Luồn vào hàng rào cũng được, nhưng mất thời gian hoặc lỡ va vấp vào mìn nhảy hoặc lựu đạn nổ tức thì ảnh hưởng đến kế hoạch chung. Tôi sẽ cho đặt mìn thổi.

Minh ngần ngừ:

– Nhưng hàng rào vừa cao vừa dày…

– Tôi tính rồi, đủ sức thổi băng, quét sạch hết trong tích tắc…

Đây là phút hồi hộp nhất của Minh. Bao nhiêu năm, đắn đo tính toán lần mò đối phó với từng tấc dây kẽm gai, giờ trong tích tắc sẽ thổi băng hết. Anh quay lại kiểm tra đội hình, nói một câu cần thiết tới từng đồng chí du kích có mặt trong mũi tấn công đêm nay. Những đồng chí từ tuổi nhi đồng đến tuổi thiếu nên đều chui trong hầm đất, lo lắng từng tiếng xe rú, từng tiếng xích lăn. Giờ đây, từ trong lòng đất họ đứng lên hỏi tội kẻ thù. Các đồng chí du kích cũng không kém phần hồi hộp, ngọ nguậy luôn, đưa tay sửa giày dép, thủ pháo, mặc dầu các thứ đó đã được buộc rất chắc, được kiểm tra kỹ lúc trời còn sáng ở khu vực tập kết.

Lệnh bắt đầu tấn công bằng pháo hiệu đỏ ở phía đơn vị đánh tiểu đoàn biệt động. Không còn khoảng cách thời gian. Mình thổi đi rào rào dọn đường như một con trăn gió. B40, B41, cối 82 bắn dồn dập. Minh đứng khựng một tý, bởi nhìn trước mặt không thấy gì cả, không thấy hàng rào dây thép gai, như nơi này chưa từng có hàng rào dây thép gai. Mìn thổi, thổi bay hàng rào dây thép gai. Quả là tuyệt vời! Minh nhảy vượt qua lô cốt đầu cầu đã bị bộc phá khối của bộ đội chủ lực đánh vỡ góc trái, Mũi của Minh tiền hơn chậm, Anh chưa quen với lối đánh mạnh, đánh lớn. Bộ đội chủ lực ào ào chiếm khu thông tin, chiếm nhà quận trưởng. Tiếng gọi đưa bộc phá tới đánh hầm ngầm, Minh chuyển cánh rẽ phải, bọc lấy khu nhà giam, diệt tiểu đội gác theo đúng hợp đồng.

Chiến sỹ thông tin phối thuộc, chạy theo Minh báo cáo như hét:

– Tiểu đoàn biệt động bị tiêu diệt. Ta hoàn toàn làm chủ trận địa, Đang truy lùng tên tiểu đoàn tưởng! đã chiếm được khu hành chánh quận. Thiếu tá quận trưởng tự tử bằng viên đạn súng trường

– A lô – Anh Minh đâu? Alô!

– Cái gì? À nghe rõ rồi! Thím Bảy hử?

Chiến sỹ thông tin vừa tháo một bên tai nghe, Minh đã hỏi:

– Cái gì? Thím bảy thế nào?

– Báo cáo anh, tiểu đoàn trưởng Quyết Thắng hỏi anh có quen ai tên là Bảy không?

– Cậu trả lời giúp:

– Thím Bảy và anh Tân đều là người của ta, phải bảo vệ họ rất chu đáo

Nói xong Minh nhảy tới dùng báng súng đập tung cánh cửa một phòng giam. Phải gõ đến cửa phòng giam thứ ba Minh mới nghe tiếng trả lời. Anh dùng một đoạn sắt nạy vỡ cánh cửa. Ánh sáng buổi sáng lùa vào phòng giam. Ông Năm cúi xuống dùi dụi mắt rồi chạy ra ôm chầm lấy Minh, quên hết mọi giận dỗi, mọi thắc mắc:

– Anh giỏi quá. Anh tài quá. Anh đã cứu chúng tôi!

– Du kích ta chỉ tham gia tôi ba ạ. Chủ yếu là bộ đội chủ lực

– Đúng đúng…phải có bộ đội chủ lực, phải có cả hai lực lượng đoàn kết với nhau. À, tôi giới thiệt với anh một người quan trọng. Vì sao tôi nói là người quan trọng. Vì người này là bố nuôi của anh: thầy phù thủy!

Minh hỏi:

Ông Trẩn phải không?

Tôi đây, Trẩn đây! Ông Trẩn bước lên nhìn tận mặt Minh nói tiếp: Trông anh lớn quá, không ngờ sau mười lăm năm anh lại cứu tôi.

Bộ đội chủ lực, du kích, rồi bà con khu tập trung, có cả nhân dân thị trấn quận, nghe nói có thầy phù thủy bị giam, kéo tới xem. Minh nói rất to:

– Báo cáo với bà con chú bác, đây là ông Trẩn, thầy phù thủy nổi tiếng. Có trăm nghìn đạo quân âm binh…

– Ông Trẩn cắt ngang:

– Anh Minh! Anh đừng nói nữa. Chắc anh hiểu hết tôi rồi. Không có âm binh nào cả. Tôi cũng chỉ là con người khôn vặt, lừa lọc thiên ạ, giải phóng rồi, tôi xin bỏ nghề trở về làm người dân lương thiện

– Minh cười:

– Ông nhớ cho…Nhưng Minh lại nghĩ sâu hơn. Không đơn giản như ông ta nói đâu, Còn phải đấu tranh vất vả mới giải phóng nhân dân ra khỏi những ách mê tín dị đoan. Và ông ta, nếu cách mạng thả ông, ông ta sẽ phất tiếp nghề lừa dối.

Đồng chí phó Chính ủy trung đoàn tới bàn với Minh về việc thành lập ủy ban quân quản thị trấn. Đồng chí gợi ý là cô Năm sẽ làm phó chủ tịch và đề nghị cử cho một đồng chí nữa giúp việc, nhất là lúc nào cần người nhận được mặt những tên địch trà trộn

– Thím Bảy. – Minh đề nghị

Thống nhất việc thành lập ủy ban quân quản xong, đồng chí phó chính ủy đưa cho Minh một bức điện của tỉnh đội. Nội dung bức điện là: “Minh đi cùng trung đoàn trưởng chủ lực để chuẩn bị tấn công giải phóng thị xã…sẽ có người giao nhiệm vụ cụ thể”.

Minh không kịp nói gì với Năm, với ông Út ông Năm và bà con. Mọi người đều rất bận. Năm chủ động:

– Anh đi mạnh giỏi hí. Em chờ! Cả xã em chờ!

Minh lại khoác chiếc ba lô trong có chiếc võng liền màn, kíp mình và ít thuốc sốt rét đi theo trung đoàn chủ lực tiếp tục thực hiện chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn đất nước.

Cao Tiến Lê