Văn học trước hiện thực mới hôm nay qua các thế hệ viết

Bảo tàng Văn học Việt Nam trân trọng giới thiệu bài tham luận của GS Phong Lê tại Hội nghị Lý luận phê bình Văn học lần thứ V:

… Một đội ngũ viết hùng hậu, ở nhiều lứa tuổi, ai cũng muốn viết đến tận cùng những trải nghiệm và ao ước của mình; ai cũng mong đến được với cái riêng của mình – đó là điều tự nhiên; nhưng dẫu sự theo đuổi cái riêng là ráo riết đến mấy thì trước hiện thực hôm nay, tất cả các thế hệ viết đều có một mẫu số chung cho sự tìm kiếm: đó là cảnh ngộ và số phận chung của dânnước – hai khái niệm đã được đặt ra trong tính khẩn thiết của nó, ngay từ đầu thế kỷ XX, và đã được chứng nghiệm cực kỳ sâu sắc trong Cách mạng tháng Tám và hơn hai cuộc chiến tranh. Nếu chủ nghĩa yêu nướcchủ nghĩa nhân văn là xuyên suốt lịch sử nhiều nghìn năm văn học trung đại và hàng trăm năm văn học hiện đại, thì câu hỏi về nó vẫn không phải đã hết ý nghĩa thời sự ở thời điểm bây giờ. Nếu Tổ quốc vẫn cần được giữ gìn cho từng tấc đất; nếu mỗi khoảnh rừng hoặc từng hải lý biển không cho phép bất cứ ai lấn tới; nếu tài nguyên là tài sản cho con cháu muôn đời thì văn học hôm nay đâu có thể dễ dàng là sự cắt đứt với Tuyên ngôn độc lậpĐại cáo bình Ngô… Còn chủ nghĩa nhân văn với lòng yêu thương con người và sự giữ gìn, bảo vệ phẩm chất người thì đâu phải đã hết lý do cho sự tồn tại khi những bất công xã hội vẫn còn đầy rẫy; sự phân tầng xã hội diễn ra càng gay gắt; và nỗi đau nhân quần như tràn lấn, bởi tội ác và các tệ nạn xã hội là muôn hình nghìn vẻ, đến từ nhiều phía và len lỏi khắp mọi nơi, khiến cho Nguyễn Du – từ 1965 đến 2015 vẫn là người duy nhất đứng ở vị trí cao trong sự tôn vinh của dân tộc và nhân loại.

Yêu cầu nhận diện hiện thực hôm nay, và văn học hôm nay, bất cứ ở chặng nào, và với thế hệ nào cũng không được phép xa rời hoặc quay lưng với những vấn đề cơ bản ấy.

Dĩ nhiên, khác với báo chí và các phương tiện truyền thông, sự nhận diện trong văn học là nhận diện qua con người, thông qua tính cách và số phận con người. Dẫu sức hấp dẫn của Chủ nghĩa hiện đại hoặc Hậu hiện đại có lớn đến mấy đối với một bộ phận người viết trẻ từ thế hệ 6X trở đi thì những gì liên quan đến con người vẫn không thể, hoặc không nên là xa lạ với họ; và do vậy vẫn phải có cách thức tồn tại cho người đọc nhận diện. Một cái đuôi lợn gắn với nhân vật chính trong Trăm năm cô đơn của G.G. Máckét, những cái tên phiếm chỉ như K. trong Lâu đài của F. Kafka, hoặc những nhân vật không tên trong tiểu thuyết của A.R. Grillet cũng đều là sự ám ảnh về cái cô đơn, và về thân phận con người trong đời sống hiện đại. Vậy thì con người của hiện thực hôm nay có diện mạo và số phận như thế nào? Đã là số đông hay chưa những ông chủ doanh nghiệp, các doanh nhân biết cách làm giàu mà không lạm dụng sự bóc lột, sự tước đoạt và hủy hoại môi trường? Hàng nghìn (hoặc nhiều nghìn) nam nữ công nhân trong các khu chế xuất đã giảm nhẹ được đến đâu những cực nhục trong sự mưu sinh? Những nông dân trong quá trình đô thị hóa vẫn còn đất, hoặc mất đất đã sống như thế nào? Số lượng những người thay mặt dân trong bộ máy công quyền, kể từ cấp phường, xã, ấp lên các cấp cao giữ được nhân cách mà không sa vào quan liêu, thoái hóa, tham nhũng, theo được tấm gương Hồ Chí Minh là chiếm tỷ lệ bao nhiêu? Những cán bộ viên chức trên mọi lĩnh vực của phân công xã hội biết cách làm trọn phận sự của mình, trên mục tiêu: do dân, vì dân? Những trí thức có thực học, có đóng góp tích cực cho một xã hội học tập và một nền kinh tế tri thức, và giữ được phẩm chất một kẻ sĩ hiện đại?… Có thể nói chưa lúc nào bằng lúc này chúng ta ao ước có được nhiều bảng màu để có thể bao quát một toàn cảnh các chân dung cho cái thời mà các tiêu chí đánh giá cũ là không còn thích hợp, hoặc không còn đủ cho sự phân biệt tốt xấu, hay dở, đúng sai… Thay vì chủ nghĩa xã hội như là cuộc chiến cho sự chiến thắng của một phía, trong một thế giới gồm hai phe kéo dài cho đến hết thập niên 1980 bây giờ là mục tiêu dân giàu, nước mạnh; dân có giàu thì nước mới mạnh; nhưng việc làm giàu là bằng nhiều cách, và không khó thấy những cách cực kỳ bất lương. Xã hội công bằng là ao ước muôn thuở của con người; nhưng bản chất con người là không công bằng, nên không thể dùng phương sách tước đoạt kẻ giàu như thời Cải cách ruộng đất cần đến Sửa sai, hoặc chia đều cái nghèo theo chủ nghĩa bình quân như thời bao cấp cần đến một sự Cởi trói! Còn dân chủ và văn minh? Đó là mục tiêu xuyên suốt cả thế kỷ XX, và bất cứ lúc nào cũng có khía cạnh đặt ra cho sự theo đuổi của con người; và do vậy nó luôn luôn phải được đặt ra cho sáng tạo văn chương – học thuật.

Như vậy, dẫu có theo đuổi cái riêng của cá nhân hoặc của thế hệ thì vẫn không nên tách mình ra khỏi một cộng đồng lớn hơn – đó là cộng đồng nhân dân, cộng đồng dân tộc trong những không gian và thời gian cụ thể của lịch sử.

*

Nhìn lại sự đồng hành của bốn (hoặc năm, sáu) thế hệ viết hôm nay kể từ thế hệ 3X đến 9X như là một biểu tượng lạc quan của sự phát triển văn học sau 35 năm trong sự nghiệp Đổi mới và sau hơn một thế kỷ hiện đại hóa, về phần tôi tôi không khỏi có ít nhiều băn khoăn về thế hệ sinh ra từ sau 1990, là thế hệ đối ứng và đáp ứng trực tiếp với hiện thực hôm nay; thế hệ có thẩm quyền nói lên chính tiếng nói của cuộc sống hôm nay; thế hệ không ai thay thế được họ, trong tư cách là người đại diện.

Vẫn còn một băn khoăn như thế trong toàn cảnh sự phát triển của văn học hơn ba mươi năm qua tính từ 1990 – sau khi phe xã hội chủ nghĩa tan vỡ, trước hiện thực hôm nay. Nếu làm một bản kê tên tuổi những người viết ở tuổi 20 đến 30, ở thời điểm hôm nay thì đó là một danh sách dài và dường như số lớn không có tên trong danh sách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Nhưng trong tổng hợp một gương mặt chung của họ thì những khát vọng sáng tạo đích thực quả chưa thật có dấu ấn rõ rệt, để có thể làm “mới”, chứ không phải gây “lạ” nền văn chương đương đại; để có thể hình thành nên những dấu ấn của khuynh hướng nghệ thuật gồm nhiều phong cách, vốn là yêu cầu, và cũng là đặc trưng của một nền văn học mang phẩm chất hiện đại (tôi nói phẩm chất hiện đại – modernité, chứ không phải chủ nghĩa hiện đại – modernisme, hoặc hậu hiện đại – postmodernisme).

Dưới đây là mấy cảm nhận sơ bộ của một người đọc đã quá quen thuộc với các thế hệ viết thế kỷ XX trong tiếp cận và đối chiếu với thế hệ trẻ hôm nay, thế hệ ở tuổi sung sức nhất và có đủ tư cách đại diện cho hiện thực mới – thế kỷ XXI, không còn giống, nếu không nói là khác, rất khác với các thế hệ ông cha.

*

Nhận diện đặc trưng về nội dung và nghệ thuật trong sáng tạo của các thế hệ viết ở lứa tuổi từ ngoài 20 đến trước sau 30 tôi thấy có những dấu hiệu chung như sau:

  1. Nổi lên vai trò cá nhân thay cho cộng đồng, do sự ráo riết đi tìm những khác biệt thay cho tương đồng. Dị ứng với cái chung, cái giống nhau. Mối quan tâm này chi phối mọi cách thức tìm kiếm trong nội dung và nghệ thuật thể hiện.
  2. Xuất hiện những nhân vật mới thay cho hệ thống nhân vật cũ đã quá quen thuộc trong nhiều chục năm chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội như Công Nông Binh; Con người mới – Cuộc sống mới; những tấm gương tiên tiến thuộc Người thực Việc thực (để ca ngợi, xưng tụng, nêu gương)…; và những nhân vật tiêu cực trong bộ phận lãnh đạo thoái hoá, cao nhất chỉ đến cấp huyện (để phê phán)… Nhân vật mới, đó là các thế hệ trẻ trước những băn khoăn về tình yêu và tình dục, lẽ sống, khát vọng cá nhân, con đường lập nghiệp, và các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, hoặc siêu nhiên và… vũ trụ…

Họ kể chuyện về chính mình, đi sâu vào bản thân mình, và tìm được sự hưởng ứng của thế hệ. Sách của họ được in ra với “con số đáng mơ” và được tiêu thụ rất nhanh, qua những cái tên gần đây nhất như Anh Khang, Phan Ý Yên, Jun Phạm, Minh Đức, Diệu Ái, Nguyễn Duy Quyền, Hạnh Nguyên, Nguyễn Phong Việt… Con số do Công ty văn hóa Phương Nam cung cấp: tổng lượng phát hành 5 cuốn của Anh Khang đến nay là 540.000 bản, 3 cuốn của Phan Ý Yên là 200.000 bản, 3 cuốn của Jun Phạm là 250.000 bản…

Hạnh Nguyên, sinh 1995, trong Say – quyển sách được Giải Phát hiện mới của Giải Sách hay 2016, có thế giới nhân vật “là những người trẻ cô đơn, khép kín và vô định, lọt thỏm giữa vũ trụ rộng lớn của cõi người”. Hạnh Nguyên viết từ tuổi 17 – cái tuổi mọi điều buồn vui đều có thể trở thành một “vấn đề”. “Nguyên viết cho cô, nhưng cũng là cho tuổi 17 đầy hoang hoải của bất kỳ cô cậu nhóc nào”… Điều cần lưu ý là tất cả những tên tuổi đã nêu trên trong số rất, rất nhiều tên tuổi viết trẻ khác, có dễ đến hàng trăm, xuất hiện từ nhiều năm trước đây, số lớn ở phía Nam, đều không có gì liên quan đến Hội Nhà văn Việt Nam, một tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước đã có thâm niên trên 60 năm, với trên 1000 hội viên, và với tuổi thọ bình quân có lẽ phải trên 60, hoặc 70!.

  1. Chức năng giải trí trội lên, đứng ở hàng đầu thay cho nhận thức, và giáo dục; cả hai giờ đây rất ít có vai trò vì đã có các phương tiện khác thay thế.

Nhận thức: Các phương tiện thông tin, truyền thông giải quyết ngay tại chỗ và bất cứ lúc nào.

Giáo dục: trả về cho gia đình, nhà trường cùng bộ máy công quyền phải sao cho trong sạch gương mẫu gắn với việc thực thi hiến pháp, pháp luật.

Đáng tiếc là cả ba khu vực này còn rất nhiều khiếm khuyết, bất cập, thậm chí còn chưa ra khỏi những suy thoái cục bộ.

  1. Thay vì các thứ tính như tính đảng, tính giai cấp, tính nhân dân (với cách hiểu nhiều thiên lệch và bất cập trước đây), bây giờ là sự nổi lên cá tính trong đối ứng với tính dân tộc tính nhân loại, để đến với yêu cầu hội nhập một cách bình đẳng và không để mất gốc , với những khác biệt chung của dân tộc so với khu vực và thế giới, và riêng cho các cá thể rất được mọi người viết chăm lo.

Càng dấn sâu vào Toàn cầu hoá thì cái riêng của dân tộc càng phải được khẳng định, bồi đắp, trước hết trong đời sống văn hoá, tinh thần. Nhưng cái riêng đó là thế nào thì vẫn còn rất mù mờ và còn lắm mắc mớ trong nhận thức và thực tiễn. Cứ nhìn vào các lễ, hội diễn ra qua nhiều năm nay với sự lúng túng trong điều hành của bộ máy công quyền và trong tâm thế xã hội thì biết; và các giới trí thức khoa học và nghệ thuật, trong đó có các nhà văn xem ra còn chưa mấy đầu tư suy nghĩ về việc này để có được chiều sâu trong nhận thức và mới mẻ trong sáng tạo.

  1. Ít quan tâm, và do vậy mà khó nhận ra những vấn đề nóng bỏng gây nhức nhối cho xã hội, cũng là dấu hiệu đáng lưu ý khi chức năng nhận thức xã hội được khoán trắng cho báo chí, truyền thông.

Mặt khác, những gương mặt mới của thời đại cũng ít thấy có trong sáng tạo của giới trẻ nói riêng, và lực lượng hùng hậu hàng ngàn hội viên Hội Nhà văn nói chung. Tôi muốn nói đến nhân vật Doanh nhân (hiện đã có trên 60 vạn) và sự khẳng định nền kinh tế tư nhân (chiếm trên 60% GDP quốc dân)…

Nhân loại đã trải biết bao thay đổi kể từ khi Mác viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản tiên tri về sự diệt vong của giai cấp tư sản và khẳng định giai cấp vô sản sẽ là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản… Cũng thời gian đó, giai cấp tư sản trong vai trò kiến tạo nên thời đại mới cũng đã chứng kiến biết bao thay đổi mà hình ảnh sống động về nó đã được ghi lại trong cả một gia hệ gồm nhiều đời, qua những bộ tiểu thuyết lớn như Gia đình Rugông Macca của ÊminDôla, Gia đình Tibô của Rôgiê Máctanh đuy Ga, Gia đình Butdenbruc của Tômát Man đến Gia đình Acta-mô nốp của M.Gorky… Và bây giờ, khi thế giới xuất hiện những tỷ phú có tài sản trên dưới 200 tỷ đô la, không phải nhờ vào sự bóc lột, tước đoạt như Bin Gatte, ông chủ Amazon, ông chủ Facebook mà số lớn tài sản lại được dùng vào việc thiện, thì trên đất nước ta cũng đã có người lọt được vào con số 200 đại gia giàu nhất thế giới, và hiện đã có trên 60 vạn doanh nhân, cùng nhiều chục vạn bạn trẻ trong phong trào khởi nghiệp…

*

Là người viết và cũng là người đọc thuộc thế hệ sống trọn vẹn trong 3 cuộc chiến chống xâm lược, và chống đói nghèo suốt hơn nửa thế kỷ, tính từ sau 1945 cho đến hết thập niên 1990, tôi rất mong mỏi có những đổi thay lớn trong tương lai văn học nghệ thuật nước nhà đang chuyển sang vai các thế hệ trẻ – là sản phẩm và là chủ thể của chính cái thời chúng ta đang sống hôm nay. Được đồng hành với họ, nếu chưa bị thay thế cũng đã là hạnh phúc lớn! Nhưng tương lai đó như thế nào thì ngay cả dự đoán tôi cũng không dám có…

Nếu biến động từ xã hội phong kiến sang xã hội thuộc địa, từ văn học Hán – Nôm trên các mộc bản, thạch bản sang văn học Quốc ngữ với sự xuất hiện công nghệ in ấn và phong trào báo chí – xuất bản, trong giao chuyển thế kỷ XIX sang thế kỷ XX đã vô cùng lớn và khôn lường như thế, thì biến động từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI sẽ còn rất nhiều lần lớn hơn. So với 3 cuộc cách mạng cũ (hơi nước; điện năng và lắp ráp dây chuyền; máy tính cá nhân và thiết bị lập trình) thì tác động của cuộc cách mạng 4.0 sẽ còn dữ dội gấp nhiều lần. Robot sẽ thay cho mọi loại lao động giản đơn đưa đến nạn thất nghiệp cho nhiều triệu người. Còn trí tuệ nhân tạo thì đã phát triển đến mức có thể chiến thắng mọi kỳ thủ cao thủ nhất thế giới, hoặc rất thành thạo trong sử dụng các nhạc cụ. Có nghĩa là ở cả hai lĩnh vực – đánh cờ và chơi nhạc, robot đã vượt mặt con người! Vậy thì việc robot có thể làm thơ, viết văn chắc chẳng phải là chuyện khó hiểu! Không biết thứ thơ, văn đó có địch nổi, hoặc vượt hơn Xuân Diệu, Nguyễn Tuân? Còn về tình yêu? Hẳn chắc những bản tình ca muôn thuở của con người, kể từ Ngưu Lang Chức Nữ, Tristan và Yseul, Romeo và Juliette, Kiều và Kim Trọng, Tố Tâm và Đạm Thuỷ… sẽ hết đất đai cho sự gieo cấy khi cách sống đơn thân (không cần chồng), sự mất cân đối giới tính, tình yêu đồng tính, búp bê tình dục, cùng với các phương thức sinh đẻ không cần đến sự phối thuộc trực tiếp giữa tinh trùng và trứng… Có nghĩa là không chỉ tình yêu của hai giới tính, mà cả đạo hiếu giữa con cái với cha mẹ sẽ hoàn toàn khác, hoặc biến dạng.

Sẽ không còn chỗ cho những ý thơ, như:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Vậy thì văn học nghệ thuật – như một hình thái ý thức xã hội sao lại không thay đổi trước những thay đổi của các cơ sở hạ tầng vật chất – như Các Mác từng dạy.

Phải chăng, do tình thế mới của lịch sử, khi Cách mạng công nghệ làm thay hoặc lấn dần hoạt động của con người, thì mọi sáng tạo tinh thần như văn học – nghệ thuật cũng phải và sẽ thay đổi để có một gương mặt mới – như cách tôi nhận diện như trên?