Bảo tàng Văn học Việt Nam trân trọng giới thiệu bài tham luận của TS. Đỗ Thị Thanh Nga tại Hội nghị Lý luận phê bình Văn học lần thứ V:
Trong những năm gần đây, bên cạnh sự ra mắt của các vở kịch mới, công chúng yêu bộ môn nghệ thuật lại được đón nhận sự phục dựng những vở kịch được sáng tác cách đây gần nửa thế kỷ. Sức hấp dẫn của những vở diễn cũ đến từ đâu? Từ tài năng của đạo diễn, diễn viên hay sự mới lạ của âm nhạc, mỹ thuật sân khấu? Có lẽ, điểm thu hút lớn nhất chính là từ nội dung những xung đột kịch tưởng như đã cũ nhưng vẫn mang tính thời sự hôm nay.
Sau 1975, đất nước thống nhất, sự dịch chuyển của đời sống từ bối cảnh chiến tranh sang hòa bình với nhiều sắc thái đã làm thay đổi những thang bậc giá trị, tư duy và đạo đức, tạo nên rất nhiều kiểu xung đột mới trong ý thức con người và xã hội. Đó là tiền đề tạo rất nhiều cảm hứng cho thể loại kịch nói, vốn lấy xung đột làm nền tảng để khai thác. Là một thể loại có tầm ảnh hưởng rộng đến công chúng, kịch nói đã cho thấy sự linh hoạt qua việc phản ánh những vấn đề rất nóng trong một xã hội đang sục sôi các xung đột cũ mới. Ở giai đoạn 1975-1985, những khát vọng đổi mới được văn học khơi lên và nơi lan tỏa dễ dàng hơn cả là sân khấu kịch nói. Những xung đột xã hội giai đoạn này đã đem đến một loạt thành tựu của thể loại, đưa kịch nói vào thời kì hoàng kim. Trong nhãn quan đương đại, nhìn lại những xung đột trong các vở kịch của giai đoạn này, chúng ta nhận ra những dư vang của các lớp ý nghĩa, có thể xem là kinh nghiệm đối với hiện tại.
Xung đột giữa cá nhân và tập thể
Trong suốt ba mươi năm kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, lịch sử dân tộc đã ghi nhận nhiều kì tích của quân dân cả nước. Đấy là lí do văn học nghệ thuật thời chiến đề cao cái trác tuyệt, cái phi thường, cái lí tưởng. Sự phản ánh này nằm trong hệ hình tư duy nhị nguyên. Xung đột sân khấu cũng được khai thác theo hướng này, nên tính trừu tượng nghệ thuật. Trong bối cảnh mới, xuất hiện những loại hình xung đột mới, tiêu biểu là xung đột giữa ý thức cộng đồng – ý thức cá nhân, giữa chuẩn mực của cái Ta – tập thể và những khát vọng của cái Tôi nhỏ bé đang bị kìm hãm. Nói chính xác, đó là xung đột của cái Ta thời chiến và cái Tôi thời bình, là sự chuyển đổi hệ giá trị để xuất hiện một kiểu con người mới, nhận thức mới. Đây là lúc các tác giả đã có một khoảng lùi về thời gian và tâm lí để nhìn lại và nhận thức lại những gì đã qua dưới đạn bom khốc liệt. Các tác giả kịch thời kì đầu của giai đoạn 1975-1985 đã cho thấy những chuyển biến từng bước trong cách tiếp cận và khai thác hiện thực bằng cái nhìn toàn diện hơn về số phận cá nhân trong guồng quay lịch sử. Vũ Dũng Minh với vở Đôi mắt, Nhật kí người mẹ, Đào Hồng Cẩm với vở Đại đội trưởng của tôi, Tiếng hát tuyệt vời, Tất Đạt với vở Tình yêu của anh,… tuy vẫn theo hướng khai thác xung đột để tô đậm bản lĩnh anh hùng trong hình tượng nhân vật nhưng bên cạnh đó đã tập trung đặt ra những xung đột để cân nhắc giá trị của chiến thắng thông qua những hi sinh của con người. Cô Xanh nhân vật chính trong Tiếng hát tuyệt vời khác với những mẫu nhân vật nữ chính cao cả của kịch kháng chiến. Cô là hiện thân của xung đột giữa định kiến đạo đức xã hội và khát vọng đề cao quyền nhân bản của cá nhân. Cô gái ấy đã dâng hiến tình yêu của mình vào thời khắc khốc liệt nhất giữa ranh giới của sống – chết, cho người mình yêu bằng cả tấm lòng của người hậu phương với người ra tiền tuyến, bằng nghĩa tình đồng chí, bằng tình yêu và niềm tin trong sáng. Vì đức tin ấy, cô chấp nhận mọi điều tiếng thiệt thòi của người đàn bà chửa hoang – cái án ô nhục thời ấy. Cô làm nhiệm vụ đưa bộ đội qua sông nơi tuyến lửa, một công việc đầy nguy hiểm và đòi hỏi bản lĩnh của người lính nơi mặt trận. Lòng dũng cảm của cô không chỉ được thử thách qua mưa bom bão đạn của kẻ thù mà còn được tôi luyện qua quyết tâm bảo vệ giọt máu của người yêu để lại trước áp lực của những phán xét, định kiến. Cấp trên muốn tuyên dương cô là anh hùng nhưng việc cô không chồng mà chửa lại trái với đạo đức xã hội. Câu hỏi đặt ra trong vở kịch là người con gái dám dũng cảm bảo vệ sinh mạng của tình yêu, ý thức rõ ràng về lòng chung thủy và sự chờ đợi ấy có đáng nhận danh hiệu anh hùng không? Dưới cái nhìn nhân văn, nhân bản, đó là một hình tượng rất đáng trân trọng.
Doãn Hoàng Giang cũng đem đến những nhận thức mới về định kiến cộng đồng với thân phận cá nhân trong Hà My của tôi. Hà My, cô công nhân trẻ xinh đẹp, đại diện cho cái đẹp tự mãn và cô độc, phá phách và nổi loạn. Đóa hồng đầy gai nhọn ấy vừa hấp dẫn nhưng lại vừa khó chịu với những gã đàn ông hèn mọn theo đuổi cô. Vì những đổ vỡ của tình đầu mà cô gái ấy trả thù đời bằng lối sống ngông nghênh, bất cần, nhưng sâu thẳm trong lòng, cô khao khát được yêu thương, trân trọng, được hòa nhập và đối xử như mọi cô gái khác. Khi máy bay Mĩ bắn phá nhà máy điện, Hà My xung phong vào đội cảm tử để giữ chốt, tập thể ấy đã từ chối vì những quy kết đạo đức họ chụp lên cô. Thậm chí, họ cho là lòng dũng cảm của cô chỉ là trò ve vãn trá hình với Phương – Phó Giám đốc nhà máy. Thái độ của đám đông bị đập tan dần khi nhân vật dấn thân vào thử thách sinh tử để thể hiện những phẩm chất cao đẹp. Tác giả Doãn Hoàng Giang lần đầu tiên đặt ra vấn đề “có nên tính toán những hi sinh?”. Nhân vật Phương được xây dựng là nhân vật kiểu chính kịch, đại diện cho vẻ đẹp của người đứng đầu đầy tinh thần trách nhiệm, người chiến sĩ trong chiến tranh, dũng cảm, hết lòng vì mọi người. Nhưng khi đứng trước mệnh lệnh cấp trên “Giữ vững dòng điện, chết thì thôi”, huy động toàn bộ lực lượng nhân công trong nhà máy viết đơn tình nguyện tham gia cảm tử, Phương đã phản biện lại: “Nhưng hi sinh không cần thiết thì chúng ta lại có tội với Đảng, với nhân dân hơn nhiều”. Tư tưởng nhân văn ấy buộc chúng ta phải nhìn lại và nhìn sâu hơn vào số phận từng cá nhân để khám phá những khuất khúc, éo le của đời sống.
Lưu Quang Vũ với vở Người tốt nhà số 5 (1981) lại nêu lên một định đề về sự lạc lõng của cái Tốt – cá nhân giữa một cộng đồng nhỏ – nhà tập thể số 5. Ở đó, Hiệp – nhân vật chính là con người có tâm hồn thánh thiện, khao khát giữ bản chất trung thực, lòng yêu thương vô tư nhất với mọi người. Sự thẳng thắn của Hiệp đôi khi bị đẩy đến cực đoan khiến cho những người sống quanh và chính bản thân anh gặp vô vàn rắc rối. Không chấp nhận thỏa hiệp, đi đêm với bên quản lí phường, nên anh không thể sửa chữa căn buồng dột nát của mình. Mùa mưa đến, anh phải tạm ngủ ở hành lang nhà tập thể, gây cản trở sinh hoạt cho bà con láng giềng. Những giọt nước thấm từ mái nhà anh đã phá hỏng máy ép lốp – phương tiện mưu sinh nhà bà Ngoạt tầng dưới. Chính Hiệp không muốn thỏa thuận với đám điện lực nên đẩy những người sống chung trong khu nhà chịu cảnh cắt điện triền miên. Cũng vì sự trung thực trong nghiên cứu, Hiệp hi sinh cả tình bạn lâu năm với Bình – người bạn thân đã cưu mang anh bấy lâu nay. Anh trở thành thứ quái vật gàn dở trong mắt mọi người, và chỗ tồn tại của người tốt như anh đã được hình tượng hóa là hành lang cuộc đời. Để cứu mẹ của người yêu, anh phải lấy tiền mượn của hàng xóm để mua thuốc chợ đen và cay đắng nhận ra rằng liều thuốc duy nhất ấy là thứ bị đánh cắp từ bệnh viện. Người bác sĩ điều trị cho mẹ của Mây đã nói cho anh biết vì mất chỗ thuốc đó mà chính em gái ruột của cô phải chết trong đau đớn. Hiệp nhận ra rằng, hạnh phúc và bất hạnh chỉ cách nhau gang tấc, đó là chiếc chăn hẹp mà người này co thì người kia sẽ hở. Hiệp hoang mang về lẽ sống của mình, về sự thánh thiện mà anh tôn thờ. Hiệp bỏ đi mất tích. Những hàng xóm của anh, mỗi căn buồng lại chứa những bi kịch riêng, họ rơi vào đau khổ bởi chính những thói quen giả dối, viển vông hay thực dụng của chính mình. Lúc ấy, họ nhận ra cần Hiệp biết bao. Hiệp là hiện thân của sự bình yên, của sự thanh thản mà họ đang thiếu. Cái Tốt không thể tồn tại đơn lẻ, đối lập với đám đông cũng như cộng đồng của những cái hỗn tạp kia rất cần một điểm sáng để soi chiếu và thiết lập lại trật tự. Cá nhân và tập thể trong vở diễn có lúc xung đột sâu sắc về quyền lợi nhưng lại gắn kết mật thiết với nhau.
Xung đột trong nội tâm con người mới
Giai đoạn kịch trước 1945 hay ba mươi năm kháng chiến, các vở kịch chủ yếu xây dựng nhân vật hành động và ít có đấu tranh nội tâm. Đặc biệt trong kịch kháng chiến, các nhân vật được xây dựng theo hai tuyến đối lập nên hành động nhất quán, không có những xung đột nội tâm. Sau chiến tranh, con người quay về với đời thường, với những ngổn ngang những trăn trở, dằn vặt để đi tìm lẽ sống. Cái đúng cái sai, tốt xấu, lương thiện hay tội lỗi rất khó rạch ròi. Từ đó, các nhà viết kịch đã chú tâm khai thác thêm một kiểu xung đột điển hình trong những con người của thời đại mới – con người đa diện.
Một trong những vở khai thác xung đột này có thể kể đến là Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ. Những đấu tranh, dằn vặt, đối chất giữa hồn và xác, thực chất là chủ đề về xung đột giữa các mảng sáng tối, cao cả – thấp hèn trong nội tâm con người. Linh hồn Trương Ba hướng tới cái cao cả, thiện lành có lúc thỏa hiệp, có lúc đấu tranh, có lúc suýt bị lôi kéo theo ham muốn của thân xác. Tư tưởng mà Lưu Quang Vũ gửi gắm trong xung đột ấy là khát vọng làm sao có thể tồn tại là chính mình toàn vẹn, nhất quán? Trong cuộc đối thoại giữa linh hồn và thể xác, có thể thấy linh hồn cao ngạo ngày càng đuối lí trước thân xác khiêm nhường nhưng thực tế. Đó cũng là trăn trở về lẽ tồn tại của con người trong cuộc sống hôm nay, khi cuộc sống đầy rẫy nhưng ràng buộc và cám dỗ, rất khó để thoát li những thói quen, nhu cầu vật chất tầm thường. Những nhân vật trong Người tốt nhà số 5 cũng có những day dứt, xung đột nội tâm khi đi tìm hạnh phúc và lẽ sống của mình. Hiệp dằn vặt khi lòng tốt của mình được mua bằng tiền làm ăn phi pháp của hàng xóm và dẫn đến cái chết oan cho một cô gái trẻ. Bình và Yến là đôi vợ chồng luôn diễn cảnh gia đình trí thức trang nhã, đầm ấm nhưng nội tâm mỗi người là một ốc đảo cô đơn, bị chia cắt bởi sự hoài nghi, lòng khinh bỉ, thói xu nịnh giả dối. Những kiểu xung đột này đã tạo ra những nhân vật có tính cách đa chiều, gần gũi với đời thực và phản ánh đúng những phức tạp đang diễn ra trong lòng một xã hội tích tụ những ion âm và dương, chờ đủ để nổ ra tiếng sét Đổi mới.
Người trong bóng tối của Doãn Hoàng Giang đem đến xung đột nội tâm của nhân vật chính là anh thương binh mù trở về từ chiến trường và phải sống trong sự chăm sóc, chào đón giả tạo của người thân. Trong thế giới bóng tối, Sơn dần dần tìm thấy ánh sáng của sự thật. Anh đau đớn nhận ra mẹ nói dối vì thương mình, anh trai lừa mình vì muốn lợi dụng mình “đổ vỏ” cho cái thai trong bụng bạn gái mình – kết quả ngoại tình của anh ta. Những đổ vỡ trong nội tâm của Sơn gợi cho người xem liên tưởng đến bi kịch tinh thần của anh thương binh mù Lê Chí trong vở Nguồn sáng trong đời của Lưu Quang Vũ. Người nghệ sĩ ấy được báo chí tán tụng tài năng vì những bức tượng được anh nặn ra khi đôi mắt anh mất đi ánh sáng. Trải qua một hành trình gian nan tìm người hiến giác mạc, cuối cùng anh đã tìm thấy hi vọng ở Toàn – một bệnh nhân ung thư đầy lạc quan. Khi phẫu thuật thành công, anh có thể tự mình nhìn được thì nhận ra những lời ca tụng trước kia chỉ để an ủi một người khuyết tật. Đau khổ và tuyệt vọng, anh tự tay đập nát đống tượng đã nặn và hiểu rằng thử thách của đời mình sẽ bắt đầu từ đây. Sơn hay Lê Chí đều là những người lính trải qua mất mát ở chiến trường, về với đời thường phải làm quen với những trắc trở. Họ được xây dựng với những phẩm chất cao thượng, trung thực của người lính, những xung đột trong nội tâm của họ rõ nét hơn các nhân vật khác bởi chính hoàn cảnh bệnh tật đã giới hạn họ trong khuôn khổ của suy nghĩ, dằn vặt nội tâm, giảm thiểu xung đột hành động.
Vở Hoa cúc xanh trên đầm lầy (mặc dù ra đời năm 1988 nhưng vẫn trong luồng cảm hứng kéo dài của giai đoạn 1975- 1986) là một thế giới giả tưởng mà Lưu Quang Vũ tạo nên để phản ánh những xung đột trong nội tâm của con người. Người máy Liên B và Vân B được tạo ra từ nguyên mẫu ưu việt hơn con người thật, là giấc mơ của con người về mẫu hình hạnh phúc hoàn hảo. Những người máy ấy đã tự tìm tự do và tình yêu cho mình, trên hành trình về với đầm lầy cổ tích, họ đã gặp một thế giới con người đầy bi hài, thật giả lẫn lộn, thậm chí cả nguyên mẫu của họ cũng đang sống trong những dằn vặt, khổ đau của đời thường. Xung đột giữa ước mơ và thực tại trong tâm hồn của Hoàng, họa sĩ Vân và Liên của đời thực được đặt bên những suy nghĩ, cảm nhận của cặp đôi người máy để khán giả tự rút ra triết lí về cuộc đời. Sự hoàn hảo chỉ có thể là sản phẩm của trí tưởng tượng mà thôi, còn thực tế, trong mỗi người luôn tồn tại những xung đột giữa những mảng sáng tối.
Xung đột giữa cơ chế quản lý và thực tế xã hội
Mười năm sau chiến tranh là khoảng thời gian chuyển giao cơ chế và thay đổi về tư duy quản lý xã hội từ mô hình thời chiến sang thời bình. Thay cho tâm thế hi sinh tất cả cho dân tộc, quyết tâm thống nhất đất nước bằng bất cứ giá nào, con người hậu chiến trở về với đời thường, khao khát dựng xây cuộc sống mới, một cuộc sống đích thực. Trong quá trình chuyển đổi đó, đã có nhiều sự trả giá cho những nóng vội, chủ quan, duy ý chí của cơ chế quan liêu bao cấp, hệ điều hành tập trung, làm chậm lại, thậm chí lỗi nhịp phát triển của đất nước. Tuy nhiên, bộ máy quản lý cồng kềnh theo mô hình cũ đâu dễ thay đổi trong một sớm một chiều, những dấu ấn thời bao cấp, ngăn sông cấm chợ để phục vụ cho một mục tiêu chung duy nhất “tất cả vì chiến trường” trở thành rào cản, ngăn cấm các tư duy cá nhân. Không khó để nhận ra tác hại của tư duy quản lý ấy lên thực trạng đời sống, kinh tế và văn hóa đất nước trước thềm đổi mới. Những bất cập, nhưng xung đột ủ sẵn ngày càng bức bối, đòi hỏi phải được giải quyết bằng những hành động thiết thực. Đó là những cảm hứng để các nhà viết kịch giai đoạn này khai thác. Xung đột giữa cơ chế quản lý và thực tế xã hội hay nói cách khác là giữa thượng tầng và hạ tầng kiến trúc vừa là thách thức, vừa là cơ hội cho nghệ thuật sáng tạo, góp tiếng nói mạnh mẽ đưa đất nước sang thời đổi mới.
Năm 1978, Xuân Trình viết vở Thời tiết ngày mai – vở kịch mang tính luận đề về công cuộc cải tạo nông thôn. Những người nông dân trong Thời tiết ngày mai đã phải đấu tranh với nhau, với bản thân mình để khẳng định rằng muốn phát triển để bước vào một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa phải tạo dựng được một cái nền vững chắc về dân trí, về cơ sở vật chất, về trình độ quản lý chứ không phải là cờ rong, trống mở với la liệt khẩu hiệu mà có được. Những người nông dân đã được Đảng giải thoát cho trong cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ, giờ đây họ phải tự giữ lấy không thể nhẫn nhục, không thể cứ khom lưng cúi xuống mãi cho những lý trưởng mới cưỡi lên đầu lên cổ. Vào đầu những năm 1980, Lưu Quang Vũ cũng viết vở Bệnh sĩ để lên án lối quản lý hợp tác xã hình thức, hô khẩu hiệu và giả dối theo bệnh thành tích.
Vở Mùa hè ở biển ra đời năm 1985 đánh dấu sự thành công của tác giả Xuân Trình và được công chúng trong Nam ngoài Bắc ghi nhận. Xuân Trình không chỉ dừng lại ở những sự kiện riêng lẻ, những con người riêng lẻ, những địa phương riêng lẻ mà đã khái quát được một tuýp người, một kiểu quan niệm, một cung cách làm ăn đã trở thành những lực lượng kìm hãm sự phát triển của cuộc sống. Đây là thời điểm thực tế cuộc sống đã bộc lộ tất cả những mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là yêu cầu hoàn thiện, phát triển với một bên là những cái tốt, những chuẩn mực đã lỗi thời không còn phù hợp nữa. Nhân vật chính là Đoàn Xoa – chuyên viên kinh tế của Trung Ương, vừa đáng trân trọng, vừa đáng phê phán một cách nhẹ nhàng, hóm hỉnh. Nhân vật chẳng những đại diện cho những quan điểm bảo thủ cực đoan mà còn là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử, của cơ chế quan liêu bao cấp, của một hệ tư tưởng thống soái chi phối cách nghĩ, cách làm, cách sống của những người tuyệt đối trung thành với hệ tư tưởng ấy. Là một lãnh đạo rất thương dân nhưng trung thành tuyệt đối với đường lối sản xuất hợp tác xã đã lỗi thời, ông không nhận ra hậu quả của những năm tháng hợp tác xã đã đẩy người nông dân đến chỗ chết đói, đi ăn xin trên thành phố. Thậm chí trong chính chiếc ba lô mang về cho vợ con của ông ta cũng chỉ có mì sợi và cơm nguội phơi khô để chống đói. Khi phát hiện ra vợ con mình đang làm các việc “khoán chui” thì Đoàn Xoa phê phán họ gay gắt. Những hành vi ứng xử của Đoàn Xoa trước sự chuyển biến của xã hội đang đổi mới tư duy đã được diễn tả như là những hành động chống lại sự tiến bộ để bảo vệ cái cũ cái lỗi thời với tinh thần cố thủ đến cùng.
Trong vở Người… của tôi, tác giả Doãn Hoàng Giang cũng dựng lên một bối cảnh là Công trường xây dựng X.45, một nơi điển hình của lối quản lý quan liêu bao cấp, tựa như trong vở Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ. Công việc bị bỏ bê vì các lãnh đạo mải bài bạc, chơi bời ở quán Mộng Mơ – nơi tiếp tay cho đám công nhân và lái xe rút ruột công trình buôn lậu. Dũng – người giám đốc mới về công trường chấp nhận đơn thương độc mã để chiến đấu với cả cỗ máy hoen gỉ, ỳ trệ đó. Anh không chỉ phải đối đầu với những cạm bẫy ngọt ngào họ giăng ra trong văn phòng mà còn phải đổ máu để dẹp bỏ cái tụ điểm trác táng cổng công trường, để bảo vệ những người lao động muốn thay đổi, làm chủ cuộc đời. Những lời thoại của nhân vật đã tố cáo thực trạng thối nát của cơ chế quản lý phục tùng: “Tôi sợ cái thời trách nhiệm cấp trên và trách nhiệm tập thể lắm rồi. Cái thời mà mỗi tí cũng phải thỉnh thị lãnh đạo, cũng phải xin ý kiến cấp trên, nghĩ cũng bằng cái đầu của cấp trên. Thậm chí… ngủ với vợ cũng phải xin phép cấp trên, mà trên thì…có phải là ông thánh gì đâu? Nhiều ông cũng dốt, cũng vô học, quan tám cũng ừ, quan tư cũng gật. Đến khi sai lầm thì đã có quan trên gánh hộ. Mà khi cấp trên sai thì ai dám hỏi tội cấp trên nữa? Thế là hòa cả làng.” (Kịch Doãn Hoàng Giang, Nxb Sân khấu 1998, tr. 525)
Vở Nhân danh công lý (Doãn Hoàng Giang – Võ Khắc Nghiêm), các tác giả lần đầu tiên trực diện đặt vấn đề dân chủ công khai trên sân khấu. Vấn đề này không mới nhưng chưa bao giờ là cũ. Vở kịch ra đời trong thời điểm không khí mất dân chủ đang có chiều hướng gia tăng trong xã hội. Những kẻ có quyền lực trong tay đang lũng đoạn xã hội, thao túng luật pháp. Những cậu ấm sinh ra trong gia đình quan chức quen thói hống hách, phu nhân quan chức dùng tiền và quyền lực của chồng để đổi trắng thay đen, chà đạp lên sinh mạng người vô tội. Những chiến sĩ công an trẻ có lúc bị đe dọa nhưng họ vẫn giữ bản lĩnh vững vàng trên con đường đi tìm công lý. Đã có lúc, người ta tưởng chính nghĩa trong vở kịch đã bị bóp nghẹt, niềm tin vào lẽ phải và lẽ công bằng trở nên nhạt nhòa, tan biến trước thế lực của cái ác. Lương tâm con người là thứ duy nhất có thể lật lại vụ án. Cán cân công lí đến cuối vở kịch đã thăng bằng, hành trình đấu tranh cho công lý đã để lại trong công chúng nghệ thuật ấn tượng mạnh mẽ về khát vọng hướng thiện. Cũng đặt vấn đề tìm sự công bằng và dân chủ, vở Trái tim trong trắng hay “vụ án hai nghìn ngày” của Lưu Quang Vũ cũng phản ánh chặng đường gian nan đi tìm ánh sáng công lý cho người bị tù oan. Đó là hành trình đau thương và gian khổ, đôi lúc tưởng như vô vọng khi mà từ công an điều tra dùng thủ đoạn ép cung đến Chánh án vô trách nhiệm, xử khoán cho nhanh. Những vở diễn này không chỉ phản ánh thực trạng của cơ chế hành pháp có nhiều bất cập thời đó mà đến hôm nay cũng vẫn làm cho khán giả thích thú vì tính thời sự của vấn đề đặt ra.
Những người lính trẻ trong vở Lời thề thứ chín của Lưu Quang Vũ đã tự tìm đến công lý, tự giải cứu người cha già bị cán bộ xã bắt giam vô lý vì bản thân họ mất lòng tin vào chính quyền. Ông chủ tịch Hà nguyên là một người lính, khi trở về, ngồi lên vị trí chủ tịch tỉnh dường như đã quên mất ân tình của nhân dân. Sự quan liêu của ông phải trả giá bằng chính hành động “nổi loạn” của cậu con trai đang trong quân ngũ, dám đào ngũ để cùng về cứu cha bạn. Xung đột của vở lên cao trào khi những người lính trẻ tự tạo chiến tuyến đối đầu với chính quyền, với cấp trên và với chính cha ruột của mình. Đó chính là góc tối trong cơ chế quản lý, khi mà những khẩu hiệu “Nhân dân làm chủ” chỉ là khẩu hiệu suông trên tường Ủy ban và “Lời thề thứ 9” chỉ có ý nghĩa trong phạm vi quân ngũ.
Từ những xung đột nội tâm trên sân khấu kịch nói, có thể thấy văn học nghệ thuật 1975-1985 đã chuyển hướng khám phá chiều sâu tâm hồn con người, soi chiếu từ nhiều chiều để lí giải tâm lí con người trong hoàn cảnh sống mới. Những biến động tinh tế ấy sẽ tạo thành cơn sóng của những khao khát đổi thay, hướng cuộc sống đến những giá trị nhân văn cao cả hơn.
Khoảng thời gian mười năm sau thống nhất đất nước là một bước đệm quan trọng cho sự chuyển đổi một cơ chế xã hội, thay đổi tâm thức của cả cộng đồng. Những nhà viết kịch đã tận dụng và khai thác những mầm mống xung đột trong đời sống xã hội để khơi mở những hướng đổi mới toàn diện cho giai đoạn lịch sử sau đó. Những vấn đề mà kịch nói đặt ra trong giai đoạn này không chỉ có tính nhất thời mà còn nguyên giá trị đến hôm nay. Sau gần nửa thế kỷ, xã hội đã có nhiều biến chuyển tích cực hơn như ước vọng của những nhà viết kịch gửi gắm nhưng đây đó, ta vẫn gặp những câu chuyện thời sự có ý nghĩa tương đồng. Những vở diễn ấy vẫn đang được tái dựng trên sân khấu và được công chúng yêu nghệ thuật đón nhận bằng tâm thức của con người đương đại, chứng tỏ tính bất hủ của những tác phẩm nghệ thuật chân chính.