Tự Lực Văn Đoàn qua hiện vật trưng bày ở Bảo tàng Văn học Việt Nam

Bảo tàng Văn học Việt Nam đã xây dựng một gian trưng bày trang trọng, hấp dẫn về nhóm Tự Lực Văn Đoàn, tổ chức văn học đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam do tư nhân sáng lập, một hiện tượng trên văn đàn đương thời và có những  đóng  góp to lớn cho nền văn hóa – văn nghệ nước nhà.

Nhiều tài liệu, hiện vật gốc, quý đã được lựa chọn giới thiệu đến công chúng, tiêu biểu phải kể đến như:

“Cố trạch” của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, là quê hương, chốn đi –về, nơi giao lưu của các bậc văn nhân – thi sĩ, những người cùng chung chí hướng nghệ thuật gồm các nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thạch Lam, các nhà thơ Tú Mỡ, Thế Lữ, nhà văn Trần Tiêu và nhà thơ Xuân Diệu. Đặc biệt, nơi đây cũng là bối cảnh của các tác phẩm đi vào lòng người như: “Hai đứa trẻ”, “Gió lạnh đầu mùa”, “Dưới bóng hoàng lan”, “Nhà mẹ Lê”… 

 Ảnh tư liệu: “Ga xép” Cẩm Giàng, nơi từng chứa đựng nhiều kỷ niệm đẹp đẽ về các thành viên chủ chốt của nhóm (Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam).

                                                                                      Ảnh tư liệu về nhóm Tự Lực Văn Đoàn

          Nhóm “Tự Lực Văn Đoàn” là một văn đoàn do nhà văn Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) khởi xướng và bắt đầu hình thành vào cuối năm 1932, chính thức tuyên bố thành lập vào ngày 2-3-1934. Mặc dù do tư nhân sáng lập nhưng Tự Lực Văn Đoàn mang đầy đủ tính chất hội đoàn,  sáng tác theo nghĩa hiện đại và  hoạt động  rất chuyên nghiệp như: có trụ sở chính được đặt ở số 80 phố Quán Thánh, Hà Nội, cơ quan ngôn luận là báo “Phong hóa”, sau là “Ngày nay”, có nhà xuất bản “Đời nay”.

                                                                                                   Báo “Phong hóa”

                                                                                Báo “Ngày nay” trưng bày tại Bảo tàng Văn học.

                                                               Tác phẩm “Nắng trong vườn” của Thạch Lam do NXB Đời nay phát hành.

Không chỉ sáng tác, Tự Lực Văn Đoàn còn trao giải thưởng cho các nhà văn, nhà thơ không thuộc nhóm. Giải thưởng được trao hai năm một lần và được xét trao có ba lần vào các năm 1935, 1937, 1939. Đây là một giải thưởng uy tín, bảo chứng danh giá cho sự nghiệp văn chương của những người đạt giải, đồng thời tác động mạnh mẽ vào văn chương đương thời. Nhiều tác phẩm được trao giải đã trở thành “hiện tượng” trong đời sống văn học và phần nhiều trở thành tác phẩm xuất sắc ghi dấu ấn vào lịch sử Văn học Việt Nam như: “Ba” (Đỗ Đức Thu), “Diễm dương trang” (Phan Văn Dật), “Bóng mây chiều” (Hàn Thế Du), “Kim tiền” (Vi Huyền Đắc), “Bỉ vỏ” (Nguyên Hồng”, “Nỗi lòng” (Nguyễn Khắc Mẫn), “Tâm hồn tôi” (Nguyễn Bính), “Làm lẽ” (Mạnh Phú Tư), “Cái nhà gạch” (Kim Hà), “Bức tranh quê” (Anh Thơ), “Nghẹn ngào” (Tế Hanh).

                                                  “Giấy chứng nhận giải thưởng” của nhóm Tự Lực Văn Đoàn trao cho nữ sĩ Mộng Tuyết.

Ngoài những thành viên chính, xung quanh Tự Lực Văn Đoàn còn tập hợp được nhiều văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa tên tuổi thời đó như: Nhà văn Trọng Lang, các nhà thơ Đoàn Phú Tứ, Thanh Tịnh, Huy Cận, họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp…

Trong khoảng thời gian mười năm tồn tại rực rỡ (1932-1942), Tự Lực Văn Đoàn không chỉ ảnh hưởng đến văn học và xã hội thời kỳ này mà còn là một trong số những tổ chức văn học danh giá nhất trong lịch sử Văn học Việt Nam. Hi vọng, những câu chuyện về hiện vật sẽ giúp những nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên, những người yêu văn chương có thể hiểu biết thêm những Di sản văn hóa – văn học to lớn mà Tự Lực Văn Đoàn đã trao truyền lại cho hậu thế.

Chu Hòa