“Cuốn sổ dự trữ thơ” của nhà thơ Chính Hữu

Nhà thơ Chính Hữu là gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, suốt đời gắn bó với hình ảnh người chiến sĩ. Trong sự nghiệp sáng tác, ông chỉ để lại khoảng 50 bài thơ, nhưng luôn khắc sâu trong lòng bạn đọc bởi giọng điệu chân thành, giàu cảm xúc và đậm chất nhân văn.
                           Chân dung nhà thơ Chính Hữu
Trong hành trình sáng tác, “Cuốn sổ dự trữ thơ” là người bạn đồng hành thân thiết của ông. Cuốn sổ được nhà thơ Chính Hữu bắt đầu sử dụng từ tháng 1 năm 1968, ghi lại những ý thơ, tứ thơ, và cả những cảm xúc bất chợt nảy sinh giữa khói lửa chiến tranh. Nhiều khi chỉ là vài dòng ngắn gọn, nhưng chứa đựng cả một câu chuyện đời, một mạch cảm xúc sâu sắc. Ở trang 5 của cuốn sổ, nhà thơ ghi lại bốn câu thơ xúc động:
“Cha ở trên chiến khu
Mẹ ở ngoài Côn Đảo
Đêm nay sinh con ra
Ru con bằng gió bão.”
Theo lời kể của nhà thơ Chính Hữu: những câu thơ này được ông viết khi đang tham gia chiến đấu ở chiến trường phía Tây Thừa Thiên Huế. Cảm hứng ấy đến từ cuộc gặp gỡ một người phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt, người mẹ sinh con giữa hai đầu chiến tuyến, trong khốc liệt của chiến tranh.
Bìa “Cuốn sổ dự trữ thơ” của nhà thơ Chính Hữu
Đặc biệt, trong sổ còn ghi lại những dòng cảm xúc chân thành khi Bác Hồ qua đời: “9 giờ 47 phút ngày 3/9/1969, Bác mất. Chúng con xếp thành hàng ngũ trùng điệp đến viếng Bác, mấy hôm nay ngày nào cũng có mưa lớn… Từ ngày 6 đến 9/9/1969, nhân dân xếp hàng đi viếng Bác… dưới ảnh hưởng của cơn bão số 3, ở Hà Nội ngày nào cũng có những trận mưa lớn, hàng người bị ướt nhưng vẫn trật tự, giữ đúng hàng ngũ. Quảng trường Ba Đình, những lá cờ đỏ như giọt lệ của đất nước…” Những dòng chữ ấy không chỉ là ghi chép, mà còn là chứng nhân cảm xúc của một người lính, người nghệ sĩ trước nỗi mất mát lớn lao của dân tộc.
Trang nhật ký ghi ngày Bác Hồ mất trong “Cuốn sổ dự trữ thơ” của nhà thơ Chính Hữu
Từ ngày 2/6/1968 đến cuối tháng 7/1968, nhà thơ Chính Hữu còn dùng cuốn sổ để ghi nhật ký hành quân. Trong đó, ông kể lại hành trình qua Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và những ngày chiến đấu gian khổ ở Thừa Thiên Huế. Ở trang nhật ký ngày 2/6/1968, ông viết: “Tối 2/6/1968, 10 giờ đêm, xe đến phía Bắc Mường Noong (cây số 47, ngã ba Mường Noong là cây số 60…) bị oanh tạc, xe con bị cháy, mình bị thương ở chân và lưng, còn Biền, Quỳ – lái xe hy sinh…”
Ngày 26/6/1968, trong lễ Hội nghị mừng công Đoàn 559, ông viết nên hai câu thơ giản dị mà chứa chan niềm tin chiến thắng:
“Xe ta thêm một vòng quay
Miền Nam bớt được một ngày thương đau…”
Cuốn sổ tay nhỏ bé ấy không chỉ là tư liệu sáng tác mà còn là chứng tích sống động về một thời chiến đấu và làm thơ của nhà thơ Chính Hữu. Hiện nay, “Cuốn sổ dự trữ thơ” đang được Bảo tàng Văn học Việt Nam trân trọng trưng bày trong không gian giới thiệu về ông.
Nhà thơ Chính Hữu (1926 – 2007) tên thật là Trần Đình Đắc, quê quán huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957.
Trước cách mạng tháng Tám, nhà thơ Chính Hữu học tú tài (triết học) tại Hà Nội. Đầu năm 1945, nhà thơ tham gia mặt trận Việt Minh. Tháng 12 năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô. Trong kháng chiến chống Pháp, ông giữ chức Chính trị viên Đại đội trong chiến dịch Việt Bắc năm 1947 rồi Phó trưởng Ban Văn nghệ quân đội từ năm 1949 đến năm 1952. Chính trị viên tiểu đoàn tại Sư đoàn 308 trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Phó Cục trưởng Cục Tuyên huấn Tổng cục Chính trị từ năm 1970 đến năm 1983. Sau đó ông chuyển ngành làm Phó Tổng thư ký Hội Nhà Văn Việt Nam khóa III, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam khóa IV.
Trưng bày nhà thơ Chính Hữu tại Bảo tàng Văn học Việt Nam
Các tác phẩm tiêu biểu: “Đầu súng trăng treo” (tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, 1966); “Thơ Chính Hữu” (tập thơ, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1997); “Tuyển tập Chính Hữu” (Nhà xuất bản Văn học, 1998).
Giải thưởng: Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, đợt II, năm 2000.
Bảo tàng Văn học Việt Nam