Nhà văn Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam hiện đại, người suốt đời say mê “chủ nghĩa xê dịch”. Với ông, mỗi chuyến đi không chỉ là hành trình qua không gian, mà còn là cuộc phiêu lưu trong thế giới của cái đẹp, của văn hóa và con người.

Từng chặng đường, từng miền đất đi qua đều được nhà văn Nguyễn Tuân gửi gắm trong những trang viết tinh tế. Ông để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ, gồm nhiều tùy bút, truyện kí, truyện ngắn.
Bảo tàng Văn học Việt Nam hiện đang lưu giữ và trưng bày một hiện vật đặc biệt, gắn bó cùng nhà văn trong biết bao chuyến đi đó là chiếc ba toong “xê dịch”.
Chiếc ba toong được nhà văn Nguyễn Tuân sử dụng trong những năm 60, 70, 80 của thế kỷ XX. Điều độc đáo là trên thân ba toong, ông đã tỉ mỉ khắc ghi tên nhiều địa danh từng đặt chân tới: Lũng Cú 23*22’; Pakmie (Bắc Mê); Lao – Kay; Gio Linh; Xin Mã Cai 1965; Vân Đồn; đảo Vân Hải; Sài Gòn; Tourane; Hoàng Su Phì; Cap St. Jacques.*

Vật dụng giản dị này đã cùng nhà văn đi khắp mọi miền Tổ quốc, từ Tây Bắc hùng vĩ đến những hải đảo xa xôi, thậm chí theo ông sang tận nước Pháp hoa lệ. Có những chuyến đi kéo dài hàng tháng, thậm chí cả năm, chỉ để nhà văn “đi tìm cái đẹp”, đúng như tinh thần sống và viết của mình.
Nhà văn Nguyễn Tuân vốn ít khi ở một nơi quá lâu và không thích sự trầm lặng, bình ổn mà luôn khao khát khám phá, tìm cái mới, cái độc đáo của đời sống. Mỗi tác phẩm của nhà văn là kết tinh của trải nghiệm, quan sát và rung cảm sau những hành trình “xê dịch” ấy. “Tùy bút Sông Đà” (1960) là kết quả của những chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc, còn “Ký Cô Tô” (1965) được viết sau khi nhà văn có dịp ra thăm đảo.
Chiếc ba toong đã không chỉ là người bạn đồng hành lặng lẽ, mà còn là chứng nhân cho tinh thần tự do, say mê khám phá và tình yêu đất nước của nhà văn Nguyễn Tuân.

Nhà văn Nguyễn Tuân (1910 -1987) sinh ra ở phố Hàng Bạc, Hà Nội, quê thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (tên nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Năm 1929, do tham gia phong trào bãi khóa, bị đuổi học và sau đó, do phản đối chế độ thuộc địa, đã hai lần bị bắt, bị tù … Từ những năm 30, bắt đầu viết văn và làm báo, chủ yếu đăng trên các báo, tạp chí: “Trung Bắc tân văn”, “Đông Tây”, “An Nam tạp chí”, “Tao Đàn”, “Hà Nội tân văn”, “Thanh nghị”, “Tiểu thuyết Thứ bảy”. Từ 1937: chuyên sống bằng nghề viết và nổi tiếng từ 1938, 1939 với “Một chuyến đi”, “Vang bóng một thời”… Sau Cách mạng, năm 1946: vào công tác tại khu V (Trung bộ). Năm 1947: phụ trách một đoàn kịch lưu động. Từ năm 1948 đến 1956: là Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam, tham gia nhiều chiến dịch và về các vùng sau lưng địch để sáng tác. Từ năm 1958: Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam và Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa I và II).
Tác phẩm tiêu biểu: “Một chuyến đi” (tùy bút – du kí, 1938); “Thiếu quê hương” (1940); “Chiếc lư đồng mắt cua” (1941); “Tàn đèn dầu lạc” (1941); “Tùy bút” (1941); “Tóc chị Hoài” (1943); “Tùy bút II” (1943); “Đường vui” (1949); “Tùy bút kháng chiến” (1955); “Tùy bút kháng chiến và hòa bình” (1956); “Sông Đà” (1960); “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” (1972); “Cảnh sắc và hương vị đất nước” (1988); “Tình chiến dịch” (1950); “Đi thăm Trung Hoa” (1955); “Chùa Đàn” (1946); “Vang bóng một thời” (1940); “Yêu ngôn” (2000); “Tuyển tập Nguyễn Tuân” (tập 1: 1981, tập 2: 1982)…
Nhà văn Nguyễn Tuân được Nhà nước truy tặng Giải thưởng thưởng Hồ Chí
Minh về Văn học, nghệ thuật, đợt I, năm 1996
Bảo tàng Văn học Việt Nam

