Đây là thắc mắc mà nhiều độc giả mong muốn được chính nhà thơ Hoàng Trung Thông giải đáp. Trong bài viết gửi Sở Giáo dục Nghĩa Bình (Bình Định cũ), nhà thơ đã đưa ra những lời giải đáp vừa sâu sắc, vừa thú vị.

“Tôi có thể nói, tôi yêu văn học từ lúc còn bé lắm. Tám, chín tuổi tôi học thơ chữ hán đến mười tuổi mới học quốc ngữ. Tôi đã học thuộc lòng “Truyện Kiều”. Tôi không những thuộc bản dịch “Chinh phụ ngâm” tiếng Việt, tôi rất thích mà tôi còn học thuộc lòng bản “Chinh phụ ngâm” bằng chữ hán của Đặng Trần Côn. Tôi mê văn học từ thuở nhỏ là như thế, nhưng cũng không phải lớn lên, tôi mới phân tích những bài thơ hay, những câu câu thơ hay. Sau này tôi mới biết là người chồng trong “Chinh phụ ngâm” là tướng: “Bán dạ phi nịch truyền tướng quân” (nửa đêm truyền hịch địch ngày xuất chinh) cho nên có người phê bình rằng:
“Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”.
Là công thức? Công thức chỗ nào? Tả một vị tướng như thế là hay.
Tại sao lại khen miêu tả Kim Trọng trong “Truyện Kiều”:
“Tuyết in sắc ngựa câu dòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời”.
Và lúc bấy giờ tôi còn trẻ, tôi còn nghi ngờ những sự bình luận về văn học không chính xác.
Một bên là tả vị tướng, một bên là tả văn nhân. Nếu viết “Truyện Kiều” hay viết về “Chinh phụ ngâm” tôi còn có thể viết nhiều hơn nữa, nhưng bài này không cho phép vì sợ quá dài.
Tôi yêu văn học Pháp, nhất là thơ Pháp rất trong sáng. Tôi thích cả thơ Anh mờ mờ sương và thơ Nga mênh mông như đồng cỏ. Cả thơ haica của Nhật. Nhưng cuối cùng tôi vẫn thích thơ Đường, rồi trở về với thơ Việt Nam.

Thơ nước nào cũng có bài hay bài dở. Có những bài thơ nước này khen rất hay, nhưng đọc lại thấy không hay mấy và trái lại. Ngay cả bài thơ của Ly Ích đời Đường, có một bài thơ người ta rất khen và tôi đã biết từ lâu lắm trong tập “Đường thi nhất bách thủ” (một trăm bài thơ Đường).
“Sử điền đường chính ngọ
Hoà hạ hãn như vũ
Thuỳ tri bàn xan trung
Lạp lạp gia tân khó”
Thế mà không biết ai dịch ra tiếng Việt Nam còn hay hơn nguyên tác:
“Bữa này đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
Ở đây không nói một mâm cơm mà chỉ nói một bát cơm, ở đây đưa dẻo đối lập lại với sự đắng cay, ở đây chỉ nói một hột đối với muôn phần. Bài thơ đã trở thành ca dao của Việt Nam và không ai nhớ đến nguyên bản.

Ca dao, tục ngữ là nguồn nuôi sống tâm hồn tôi và giúp cho tôi sau này sáng tác về văn học. Đó là một nguồn không bao giờ cạn cho mỗi con người, dù là con người muốn đi vào tự nhiên, vào toán học. Những vấn đề trí tuệ phải đi đôi với vấn đề tâm hồn và tình cảm. Nêu không thì còn người đó không thể sống như một con người mà chúng ta mong muốn. Trong một hội nghị ở Liên Xô, người ta từng phê phán các nhà văn nghệ không hiểu gì về khoa học và các nhà khoa học lại tách rời văn học nghệ thuật. Tôi không dám nói rằng tôi vừa đi sâu vào văn học và cũng đi sâu vào khoa học tự nhiên, song tôi muốn các bạn trẻ phải vừa làm văn học vừa biết khoa học kỹ thuật hoặc vừa làm khoa học vừa say mê văn học. Nhưng vì đây là một cuốn sách khuyến khích các bạn trẻ đi sâu vào con đường văn học, cho nên tôi muốn nhấn mạnh vào vấn đề yêu văn học nhiều hơn.
Học để hiểu biết về văn học đã là một việc khó. Nghiên cứu và giảng dạy về văn học cũng không phải là một việc dễ. Sáng tác về văn học lại càng khó hơn. Đừng tưởng một vài em viết được một số bài thơ thì đã có rằng là đã có tài năng. Tài năng là một sự học tập, rèn luyện, say mê và chuyên cần. Không nửa chừng ngưng bút. Chúng tôi cũng có lúc đã chán nản những công việc của mình. Nhưng rồi cách mạng yêu cầu và lương tâm mình không cho phép. Và chúng tôi phải phấn đấu làm công việc sáng tạo về văn học. Lênin đã từng nói tài năng là của hiếm, cần phải bảo vệ một cách chặt chẽ. Các bạn trẻ đang học về văn học, đang say sưa với văn học, hãy cố gắng vươn tới những tài năng tương lai văn học của Tổ quốc.
Cuối cùng rồi các thầy cũng phải hướng dẫn cho các học sinh yêu thích văn học mới, văn học hiện đại, văn học cách mạng vì văn học đó mới phù hợp với cuộc sống mà chúng ta hằng ngày đang sống và đấu tranh cho nó. Văn học mới của chúng ta có những chỗ còn sơ lược nhưng cũng phong phú biết bao nhiêu vì đã vẽ nên những con người, những cuộc đời mà ngày xưa không thể nào có được. Từ thuở nhỏ tôi yêu văn học cổ điển bao nhiêu thì ngày nay tôi yêu văn học cách mạng bấy nhiêu. Nếu các bạn trẻ biết những bài thơ của Tố Hữu truyền đi từ nhà tù này đến nhà tù khác rồi những đồng chí chính trị phạm trở về đọc lại cho chúng tôi nghe thì mới thấy chúng tôi lúc bấy giờ xúc động như thế nào. Tôi sẽ không trích dẫn ra đây nhiều câu thơ hay của trước và sau cách mạng vì sợ bài viết quá dài.
Tôi được đọc một bài văn của Bác Hồ tả phong cảnh một bản của người Nùng viết rất hay mà không hiểu sao lại không đưa vào sách giáo khoa cho các em đọc. Đoạn văn đó như sau:
“Ở vùng này lúc hoàng hôn và lúc tảng sáng, phong cảnh rất nên thơ. Gió rừng thổi vi vu làm các nhành cây đu đưa một cách nhẹ nhàng yểu điệu. Mặt trời chênh chếch rọi xuống, biến ức triệu giọt sương trên lá cây ngọn cỏ thành những hạt ngọc nhấp nháy, lung linh. Những con suối trong vắt chảy róc rách hoạ vần với giọng ca hót líu lo của hàng ngàn hàng vạn con chim rừng. Nhiều khi ta ngửi thấy mùi thơm của hoa và nhựa cây từ xa bay đến phảng phất và nhẹ nhàng. Trên trời xanh biếc có vài đám mây trắng đủng đỉnh bay, giống hết những chiếc thuyền buồm khoan thai lướt trên mặt biển. Bên ven rừng hàng vạn con bướm nhỏ vàng vàng bay phất phới như muốn thi đu với khách đi đường. Như để làm cho phong cảnh thiên nhiên càng thêm màu thêm vẻ, mấy chú bé cưỡi trên lưng những con trâu béo núc na núc ních, em thì hò hét, em thì giở sách chăm chú ôn lại bài học tối hôm qua. Khó mà nói đó là bài thơ trong bức vễ, hay là bức vẽ trong bài thơ”.

Có yêu văn học mới chịu khó hiểu văn học nhưng cũng phải hiểu văn học mới yêu văn học được. Chúng ta thấy Bác Hồ “Ngâm thơ ta vốn không ham” nhưng trong quyển “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” thì chúng ta biết rằng bên cạnh sự say mê hoạt động chính trị, bác còn đọc biết bao tác phẩm văn học và Bác còn dùng văn học như là một vũ khí đấu tranh cho cách mạng và xây dựng xã hội mới, con người mới”.
Bài viết của nhà thơ Hoàng Trung Thông không chỉ giúp người đọc hiểu rõ hơn vì sao ông yêu văn học, mà còn thể hiện tấm lòng chân thành, tâm huyết của một người nghệ sĩ luôn trăn trở với cuộc sống và con người. Tư liệu hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Văn học Việt Nam.

