Ấn tượng của tôi khi lần đầu gọi Giáo sư Phong Lê để sưu tầm hiện vật cho Bảo tàng là cảm giác lo lắng khi Giáo sư rất khiêm tốn nói rằng “Tôi cũng không có hiện vật gì đâu, đóng góp cũng chưa nhiều ” kèm thêm mấy câu hỏi. Lúc đó, tôi thấy mình như một người học trò chưa thuộc bài mà bị thầy gọi lên bảng trả bài. Đến lần thứ hai gọi cho Giáo sư mọi lo lắng của tôi đã hoàn toàn tan biến khi ông chia sẻ: “bác hiểu công việc của các cháu, bác sẽ sắp xếp gửi tư liệu của bác cho Bảo tàng”. Và chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện vô cùng ấm áp tại nhà Giáo sư trong căn phòng đầy ắp sách vở.

Khi chúng tôi tỏ lòng cảm phục về sự uyên bác và những thành công trong sự nghiệp ông chia sẻ bài học kinh nghiệm của mình “Mỗi người vào đời, vào nghề hãy chọn cho mình một nghề nghiệp mà mình yêu thích, mình có sở trường”
“Tôi có một may mắn lớn là có 1 ông bố hiểu được con, tôn trọng con, có định hướng cho con nên từ nhỏ đã mượn rất nhiều sách vở cho con đọc từ đó lòng yêu văn chương được nuôi nấng cho đến hết bậc phổ thông.” Tốt nghiệp lớp 9 (bậc phổ thông) năm 1954-1955 mang trong mình niềm đam mê học hỏi, nghiên cứu văn học ông thi vào khoa Văn Đại học tổng hợp.

“May mắn thứ 2 bắt đầu học Đại học là có trường ĐH Tổng hợp năm 1956 để tôi được học khoa văn, được là lứa sinh viên đầu tiên của trường. Sau khi học xong 3 năm Đại học tổng hợp thì Viện văn học thành lập năm 1959, viện nằm trong UB KH Nhà nước tiếp nối khoa văn Sử Địa của TW Đảng từ năm 1953. Viện trưởng viện phó Viện văn học đều là những bậc thầy của tôi dạy tôi từ Đại học như: Viện trưởng Đặng Thai Mai Viện phó Hoài Thanh. Khóa học ấy có khoảng bảy mươi người mà một mình tôi về Viện văn học và tôi công tác tại đó từ năm 1959 đến năm 2003. Suốt mấy chục năm tôi học các thầy của mình, noi gương họ, kế tục họ như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Cao Xuân Huy, Phạm Thiệu, Vũ Ngọc Phan, Trần Thanh Mại, Hoàng Trinh, Vũ Đức Phúc, Cao Huy Đỉnh. Từ đó ông trưởng thành nhanh chóng và trở thành cán bộ cốt cán của Viện Văn học.
Đây là cái may mắn thứ 2 của tôi khi chọn được một cơ quan nơi mình gửi gắm được những tâm huyết, hoài bão sự nghiệp của mình.
Cái may mắn thứ 3 là thời kỳ đổi mới năm 1989 thí điểm bầu viện trưởng chứ không phải trên cử xuống như trước và tôi được anh em trong cơ quan tin cậy bầu lên làm viện trưởng viện văn học sau Đặng Thai Mai, Hoàng Trung Thông, Hoàng Trinh là những người lãnh đạo ở nơi khác điều về. Thời điểm đó tôi 49 tuổi bị bệnh hen suyễn ốm yếu, gần như chết đi sống lại nhưng vẫn được anh em tin tưởng bầu. Đó là cuộc bầu cử Viện trưởng đầu tiên được tổ chức ở Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam).
Trong 8 năm làm viện trưởng viện văn học tôi thấy rất vinh dự được nối tiếp và gánh được trách nhiệm lớn, đã dấn thân vào cuộc chuyển đổi lịch sử, đất nước đổi mới lấy dân làm gốc nhìn thẳng vào sự thật điều đó tạo điều kiện cho mình làm được một số việc có ý nghĩa nhận thức lại lịch sử văn học Việt Nam trên quan điểm mới không bị nô lệ bởi những thành kiến cũ”
Ông được phong học hàm Phó Giáo sư năm 1984 và Giáo sư năm 1991. GS Phong Lê tham gia giảng dạy ở nhiều trường đại học, viện nghiên cứu trong cả nước, đào tạo nên nhiều thế hệ học trò trong ngành nghiên cứu, phê bình văn học.
Nhật Lê