Ngô Văn Phú
Tôi quen Xuân Quỳnh khoảng năm 1962, khi chị mới bắt đầu làm thơ, trong một buổi họp cộng tác viên của Sở văn hóa Thông tin Hà Nội, do anh Huyền Tâm chủ trì.
Chúng tôi họp ở 14 Hàng Dầu, Hà Nội, lúc ấy Xuân Quỳnh đang là diễn viên múa của Đoàn ca múa nhân dân Trung Ương. Xuân Quỳnh xinh đẹp mà không cần son phấn như các cô gái bây giờ.
Chị ít tuổi hơn chúng tôi. Dạo ấy, những người làm thơ trẻ như Hoài Anh, Giang Quân, Trần Nhật Lam, Bùi Minh Quốc, Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng, Minh Hoài, Đại Thủy, Dương Đình Hy, thường đều đi dự các cuộc họp thể này. Chúng tôi làm thơ làm ca dao in trong các tập “Tiếng hát quê ta” và một loại thơ ca phát hành trong các xưởng thợ ở Hà Nội: “Tiếng máy”.
Khoảng 1962, 1963, thơ Xuân Quỳnh xuất hiện trên mặt báo. Một trong những bài thơ đầu tiên là bài “Chồi biếc”. Xuân Quỳnh vào văn công rất sớm nên trình độ văn hóa còn thấp. Tôi nhớ có lần Xuân Quỳnh gặp tôi, phân trần một cách tức giận:
– Anh Phú ơi, bài “Chồi biếc” của tôi in rồi đấy. Nhưng ghét quá, đầu đề họ lại in sai là “Trời biếc”, Trời biếc thì còn ra quái gì nữa!
Như đoán ra, tôi hỏi:
Thể Quỳnh viết “Chồi biếc”, tr hay ch?
Tôi viết là “Trồi biếc”
Thế thì họ in sai thành Trời biếc là đúng rồi. Viết đúng chính tả là “Chồi biếc”, thì nhất định họ không in sai được.
Xuân Quỳnh im lặng, không nói gì!
Khoảng cuối năm 1962, Xuân Quỳnh được đi học lớp viết văn khóa I, tại Quảng Bá. Nhiều cây bút trẻ có tài năng đều được tập hợp về đây : Xuân Thiều, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Quang Thân, Vương Trung, Vũ Thị Thường, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Trúc Hà… Các chị viết văn lớp tuổi lớn hơn một chút như Bích Thuận, Cẩm Lai, Nguyệt Tú cũng đến dự.
Các thầy đến giảng đều là những nhà văn nổi tiếng : Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Kim Lân, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông…. Lớp viết văn này tổ chức chặt chẽ, kèm cặp chu đáo, có nhiều chuyến đi ngoại khóa, thực tế đều đặn, cũng là lớp bồi dưỡng rất kịp thời để sau này tung lực lượng văn nghệ trẻ vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.. Xuân Quỳnh học tập rất chăm chỉ, chịu khó, kết quả cuối lớp học là tập thơ “Tơ lằm, Chồi biếc” của chị in chung với chị Cẩm Lai đã ra đời… Xuân Quỳnh học thầy, học bạn và tự học. Thời kỳ này, Xuân Quỳnh chơi rất thân với Ngọc Tú và được chị Vũ Thị Thường rất mến. Khi chị Thường lấy anh Chế Lan Viên thì Xuân Quỳnh được cả hai anh chị coi như là em đỡ đầu của mình. Quỳnh học chữ Pháp với chị Thường qua những bài thơ hay của Victor Hugo Lamartine, Baudelaire, Alred de Musset, mà anh Chế Lan Viên chép dạy cho, Quỳnh khiêm tốn được các chị làm thơ có tiếng như Vân Đài, Anh Thơ, Hằng Phương rất quí, nhưng thơ của Quỳnh thì tươi trẻ, hứa hẹn những thành tựu mới, sẽ khác những chặng đường thơ trước của các chị. Tôi cảm nhận thấy ở thơ Xuân Quỳnh có một thiên bẩm, bởi chị có một tâm hồn, nhạy cảm đôn hậu và có những tình cảm yêu thương khá sâu kín.
Học xong, Quỳnh về Báo Văn nghệ thực tập một thời gian ngắn để chờ chuyển công tác. Quỳnh không trở lại Đoàn ca múa nhân dân Trung Ương nữa. Chị quyết đi theo con đường văn học. Dạo ấy chữ viết của Quỳnh còn xấu lắm. Quỳnh tự biết. Để luyện chữ khá hơn, chị làm công việc văn thư, khai thác, vào số các bài vở lai cảo thường xuyên. Chỉ vài tháng sau, chữ viết của chị đã rất khá, có phong cách riêng, dắn dỏi, tuy đôi lúc vẫn còn… rắc rối!
Rồi Báo Phụ nữ Việt Nam nhận Quỳnh về công tác. Cũng là lúc ở miền Bắc đã xảy ra cuộc chiến tranh phá hoại, leo thang ngày càng ác liệt của đế quốc Mỹ. Quỳnh được cử về huyện Gia Lâm đi thực tế cơ sở. Chị công tác ở huyện đoàn. Quỳnh từng giữ thư viện, xuống xã vận động nông dân đóng thuế nông nghiệp, mở hội giao lương làm nghĩa vụ lương thực. Quỳnh đi vận động kẻ biểu ngữ, khẩu hiệu trên tường, trên vải, trên nong nia rất tích cực. Tôi đùa hỏi:
– Quỳnh kẻ được mấy khẩu hiệu?
Quỳnh cười rất vui:
– Tôi kẻ có họa ma nó xem. Lại nịnh mấy cậu thanh niên trong làng thôi. Họ tích cực lắm, còn mình thì quét vôi và vác nong, vác nia…
Sau đợt ấy Quỳnh lại được phân công về Tỉnh Hội Vĩnh Phú. Các chị ở Tỉnh Hội rất mến Quỳnh ở tính giản dị, thẳng thắn, Quỳnh hòa đồng rất nhanh với những ai chị cảm thấy là tốt, và ghét rất lâu khi chị nhận ra người ấy là quay quắt, không thực lòng.
2
Khi tôi trở lại Báo Văn nghệ (1972) thì Xuân Quỳnh lại công tác ở tổ thơ với tôi một thời gian. Quỳnh đọc lai cảo, biên tập và đọc sơ khảo cuộc thi thơ 1972 – 1973. Cách chọn thơ của Quỳnh cũng rất sòng phẳng. Quỳnh rất quý bạn bè, nhưng không chịu nổi những bài thơ nhạt nhẽo, dễ dãi, loại thơ Quỳnh mệnh danh là “thơ âm lịch”, kể lể con cà con kê, thường có hai giai đoạn so sánh ngày xưa khổ cực, ngày nay đồi đời. Xuân Quỳnh cũng không thích lối thơ khoa trương, kênh kiệu, làm xiếc từ ngữ, lòe đời bằng những lối viết bí hiểm, thực ra là mô phỏng không thành công ở một loại thơ nào đó mà phương Tây đã chối bỏ, Quỳnh bỏ những bài thơ ấy không thương tiếc và còn trích ra diễu cợt ở mục “tin thơ”.
Bè bạn làm thơ đều phục Xuân Quỳnh. Có thể những nhà thơ đang nổi tiếng, người này thích, người kia cho là cũng thường thôi », nhưng tài thơ của Xuân Quỳnh ai cũng phải công nhận. Quỳnh cũng mến phục bạn bè, quý từng bài thơ hay của họ, khen rất chân tình và không hề biết lấy lòng ai dù họ là các nhà thơ lớn.
Xuân Quỳnh quý mến tất cả, phục tất cả những tài năng song chị không thích tham gia một nhóm hay một trường phái nào. Bạn thời trẻ của chị cùng vào làng văn là Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Vũ Quần Phương, Tô Hà và kể cả Vương Trí Nhàn. Chị thân với cả nhóm hưng ít hay nói chuyện văn chương với họ. Chị hay nói chuyện đời thường hơn là nói chuyện thơ. Trong nhóm có vài ba anh cũng mê chuyện văn chương, có lúc họ muốn kéo mọi người bàn chuyện văn thơ với họ, nhưng Xuân Quỳnh lại thích những chuyện vui đùa hơn. Thời gian này, Xuân Quỳnh đang khủng hoảng về chuyện yêu đương, nhưng Quỳnh vẫn sống rất có trách nhiệm về bổn phận một người vợ, một người mẹ… Quỳnh vui bè bạn dễ khuây những nỗi buồn riêng và Quỳnh cũng thích bè bạn đến thăm mình.
Trút tâm sự nhiều nhất của Quỳnh là ở tập Gió lào cát trắng và Hoa cỏ may. “Gió lào cát trắng” gồm những bài thơ viết đầu những năm Bảy Mươi. Lúc này, Quỳnh có những trăn trở để bước tiếp một bước quyết định của cuộc đời riêng: lấy chồng lần thứ hai. lấy Lưu Quang Vũ, một người mà chị bấy giờ đã yêu thực sự. Xã hội lúc đó cũng có những biến động trong hoàn cảnh gay gắt của cuộc chiến tranh chống Mỹ sắp đến giai đoạn quyết liệt nhất của chặng đường thắng lợi cuối cùng. Đời thường cũng có những trăn trở phức tạp trong sự phát triển tất yếu của nó. Kẻ cơ hội sống lẫn lộn với những người chân chính “Gió lào cát trắng” cũng như một số bài thơ khác đã đề cập đến những nỗi niềm riêng chung trăn trở ấy. Nó đề cập đến cả những mặt đáng lo ngại trong tình cảm, trong cách sống. Chị không chỉ thiên về ca ngợi cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, như đa phần thơ ca lúc bấy giờ. Và thơ ca ấy thì hơi trái tai với những ai quen thưởng thức những lời nói về những niềm vui chiến đấu. “Gió lào cát trắng” có những bài thơ mang những nỗi buồn kín đáo, âm thầm. Những năm 1974, năm đang có cả một luồng phê phán những áng văn chương bị cho là thiếu sức chiến đấu, hoặc làm giảm lòng tin của mọi người,
tập “Gió lào cát trắng” ra đời không có lấy một lời phê bình nào cả trên báo chí. Mãi sau này người ta mới trở lại khen Xuân Quỳnh, khen không tiếc lời về tập thơ này. Nhưng chính lúc ấy, tôi được một bạn thơ cho biết, có một nhà phê bình trẻ còn nói: “Tớ tha không đánh gió lào cát trắng, vì tác giả của nó là loại đàn bà, con gái (!)”. Chuyện tưởng như không có mà có thật!
3
Hoa cỏ may, là tập thơ chót út của Xuân Quỳnh. Đầu năm nay, Xuân Quỳnh được phân công phụ trách phòng. Thơ của Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới. Trước đây chị là biên tập viên của tổ văn xuôi. Nhưng chị bị bệnh tim nặng phải vào bệnh viện điều trị một thời gian.
Trở lại làm việc, Xuân Quỳnh bàn bạc với tôi khá nhiều lần, trao đổi, lo toan về việc in thơ những năm tới đây sao cho đích đáng và có hiệu quả. Có một hôm, Quỳnh bảo:
– Quỳnh năm nay cũng xin in một tập đấy, anh Phú ạ. Tự hát in cũng đến năm, sáu năm rồi còn gì. Thì Quỳnh in, nhưng người nhà thì đòi hỏi cao hơn đấy !
Xuân Quỳnh cười, nửa đùa, nửa thật:
– Có được thì mới in chứ. Trăm con mắt nhìn vào. Mà hay đấy. Thơ Quỳnh bán được, anh không sợ ế đâu!
Như sợ bạn cho mình lại “tư túi cá nhân”, Quỳnh nói thêm:
– Quỳnh sẽ không lấy nhuận bút đâu. Bán hết sách mới nhận. Như thế cũng bằng góp vốn in sách còn gì!
Tôi cười:
– Nhưng nhẹ nhàng hơn. Thôi cứ để việc đến hãy bàn, Quỳnh ạ!
Anh đọc giám định hộ Quỳnh tập thơ này nhé! Tôi nhận lời. Lúc đó, tôi bận rất nhiều việc riêng việc cơ quan. Tôi khất Xuân Quỳnh cho chậm một chút. Khoảng giữa tháng 8, Quỳnh trao tập “Hoa cỏ may” cho tôi, cả thảy có 28 bài. Tôi đọc xong, rất mừng. Vì thơ Quỳnh vẫn giữ được phong độ xưa đằm thắm, hóm hỉnh. duyên dáng, sâu sắc hơn, và tràn đầy tâm sự kín đáo. Bốn câu đề từ của tập, mang một nỗi buồn man mác: Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may
Áo em sơ ý cỏ găm dầy
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết lòng anh có đổi thay?
Tôi chờ Xuân Quỳnh về để mừng cho bạn và góp ý cụ thể, muốn Quỳnh bớt dăm bảy bài để tập thơ tập trung những bài hay, đậm đặc hơn.
Ngày 29 tháng Tám, tôi chờ Xuân Quỳnh cả ngày, nhưng Quỳnh không đến làm việc. Ngày ấy, chính là ngày Quỳnh ngộ nạn. Tôi choáng váng thật sự khi biết tin Xuân Quỳnh đã mất. Tôi thẫn thờ và tự thấy mình càng phải có trách nhiệm với Hoa cỏ may nhiều hơn nữa.
Tôi liên tập cho thật chu đáo tập thơ này, càng đọc thơ càng xúc động. Tôi nhớ những kỷ niệm trong những năm tháng cùng công tác với chị, càng nhớ đến những câu thơ rất yêu đời của chị,ngay từ lúc mới bước đầu cầm bút làm thơ:
Lá vàng rụng xuống
Cho đất thêm màu
Có mất đi đâu
Nhựa lớn chồi biếc.
Hà nội, 29-9-1988