Nhớ thầy Lê Đình Kỵ

Giáo sư Nhà giáo Nhân dân Lê Đình Kỵ là nhà sư phạm và nhà nghiên cứu văn học hàng đầu, được nhiều thế hệ học trò yêu quý, giới văn chương vị nể. Giản dị và thoải mái trong đời thường. Nghiêm cẩn và chuẩn tắc trong công việc. Đó là người thầy của nhiều thế hệ học trò văn chương.

Một nhà sư phạm mẫu mực

GS. NGND Lê Đình Kỵ (1922-2009)

Con đường đến với nghề giáo của thầy Lê Đình Kỵ rất ngẫu nhiên. Năm 1944 sau khi đỗ tú tài 2 trường Pétrus Ký ở Sài Gòn, ông định học tiếp đại học nhưng không tìm được trường hợp với nguyện vọng. Vì vậy, chàng tú tài xứ Quảng đành rời Sài Gòn “qui cố hương” dạy học tư.

Tháng 3-1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, ông tham gia phong trào yêu nước Thanh niên Phan Anh. Ông tích cực hoạt động, đi nói chuyện nhiều nơi, kêu gọi đấu tranh đánh đuổi ngoại xâm. Thầy Lê Đình Kỵ cùng với Hoàng Phê, Hoàng Tụy, Hoàng Chúng,… tham gia tổng khởi nghĩa ở đô thị cổ Hội An.

Cách mạng tháng Tám thành công, ông được cách mạng phân công làm công tác thông tin tuyên truyền, rồi vào bộ đội chống Pháp tái xâm lược. Ở trong quân ngũ, ông tranh thủ học tiếng để làm phiên dịch cho các cố vấn từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Ba năm sau, ra quân ông quay lại với nghề giáo, vào Quảng Ngãi dạy học cùng với Lê Trí Viễn ở trường trung học kháng chiến Lê Khiết. Trong điều kiện khó khăn, thầy Lê Đình Kỵ cùng đồng nghiệp đã phấn đấu vượt bậc, có nhiều đóng góp cho ngành giáo dục Nam Trung bộ thời chín năm chống Pháp.

Sau Hiệp định Genève năm 1954, ông tập kết ra Bắc và dạy cấp 3 trường Nguyễn Trãi ở Hà Nội. Ba năm sau, nhờ vốn tiếng nước ngoài tự học của mình, ông được chuyển lên dạy đại học. Năm 1957, Khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp Hà Nội mời thầy Lê Đình Kỵ về dạy. Tiếp sau đó, các nhà giáo nổi tiếng như Hoàng Như Mai, Trương Chính, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ… cũng lần lượt được mời về giảng dạy ở đây.

Đất nước hòa bình thống nhất năm 1975, thầy Lê Đình Kỵ chuyển vào dạy ngữ văn ở Đại học Tổng hợp TPHCM. Một học trò thân thiết của Giáo sư Lê Đình Kỵ là nhà giáo Nguyễn Hà nhớ lại: “Đối với các thế hệ học trò, thầy vừa nghiêm khắc, đòi hỏi cao về học thuật, nhất là về chuyện viết lách; nhưng đồng thời cũng rất khoan hòa, độ lượng, hết lòng giúp đỡ trong nghề nghiệp và cuộc sống. Trong phê bình thơ, thầy phát hiện và động viên kịp thời Phan Thị Thanh Nhàn, Xuân Quỳnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Thanh Thảo… Trong đào tạo, những người được thầy dìu dắt và đánh giá cao, nay đều thành danh như Phó Giáo sư Huỳnh Như Phương, Phó Giáo sư Nguyễn Thị Thanh Xuân, Phó Giáo sư Lê Tiến Dũng…”.

Thầy Lê Đình Kỵ là một trong những tên tuổi hàng đầu của ngành giáo dục- đào tạo và lý luận phê bình nửa sau thế kỷ XX. Không qua Giáo sư I, thầy được Nhà nước phong thẳng Giáo sư II năm 1984. Cũng không qua danh hiệu Nhà giáo Ưu tú, ông được phong thẳng Nhà giáo Nhân dân năm 1988. Ông còn được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất.

Một nhà nghiên cứu văn học hàng đầu

Bước lên bục giảng đại học, thầy Lê Đình Kỵ bắt đầu nghiên cứu và viết lý luận phê bình. Năm 1959, ông có bài phê bình văn học đầu tiên được đăng trên tạp chí Văn nghệ. Đó là bài viết về truyện ngắn “Con cá song” của nhà văn trẻ Anh Đức vừa được giải thưởng của tạp chí này, cùng với truyện “Cái hom giỏ” của nữ nhà văn trẻ Vũ Thị Thường. Trên đà ấy, mấy tháng sau ông lại có bài “Từ ấy và phong trào Thơ mới” cũng được đăng trên Văn Nghệ. Từ bài viết này, tài năng phê bình văn học của thầy thực sự được giới văn chương chú ý đến.

Bốn nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên và Tế Hanh nhiệt tình động viên, khuyến khích thầy Lê Đình Kỵ tiếp tục viết. Sau gần nửa thế kỷ hoạt động văn học, thầy Lê Đình Kỵ xuất bản các tác phẩm tiêu biểu như: “Các phương pháp sáng tác”, “Đường vào thơ”, “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực”, “Tìm hiểu văn học”, “Thơ Tố Hữu”, “Nguyên lý văn học”, “Phương pháp sáng tác”, “Thơ mới – những bước thăng trầm”, “Trên đường văn học” (2 tập), “Nghiên cứu phê bình văn học” cùng nhiều bài nghiên cứu đăng trên báo chí. Trong số đó, ông rất tâm đắc với tác phẩm “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực”, bắt đầu viết năm 1965, in lần đầu năm 1970, đến nay đã được sửa chữa tái bản nhiều lần.

Trên bước đường nghiên cứu văn học, giáo sư cũng gặp khá nhiều chuyện ngoài ý muốn do những quan điểm khác nhau về văn chương. Năm 1963, cuốn “Các phương pháp sáng tác” của cây bút Lê Đình Kỵ có đưa ra luận điểm về tính người, về chủ nghĩa nhân đạo (thông qua tính giai cấp), luận điểm về mối quan hệ phức tạp giữa thế giới quan và sáng tác. Như ông cho rằng sau Cách mạng Tháng Tám, thế giới quan của Nguyễn Tuân thay đổi nhưng phong cách thì không khác trước mấy. Cuốn sách đã bị phê phán kéo dài trên tạp chí Nghiên cứu Văn học bởi cho rằng thầy Lê Đình Kỵ xem nhẹ tác dụng của thế giới quan đối với sáng tác. Năm 1974, thầy có bài “Hải Triều- những bước xung kích” đăng trên tạp chí Tác phẩm mới cùng với một loạt bài có tính chân dung văn học về các nhà phê bình nghiên cứu Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi… Ngờ đâu cũng có quan điểm cho rằng ông đề cao cá nhân Hải Triều.

Nhớ lại tai nạn văn chương ấy, lúc sinh thời Giáo sư Lê Đình Kỵ từng nói, đại ý rằng: Lúc ấy, tôi luôn quan niệm phải cố gắng tiếp cận văn học đúng với văn học. Tôi tâm niệm đã gọi là văn học thì phải có thẩm mỹ, có văn. Kiến thức lý luận có thể thu nhận, lĩnh hội, đồng hóa được; còn văn thì phải tự mình đào luyện lấy, đồng thời cũng phải có năng khiếu nhất định. Những quan niệm, trăn trở của thầy sau này được sáng tỏ, khi Đảng, Nhà nước chủ trương đổi mới tư duy văn học nghệ thuật. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật mà Chủ tịch nước trao cho Giáo sư Lê Đình Kỵ năm 2001 đã ghi nhận những đóng góp lớn lao của ông về nghiên cứu văn chương.

Giáo sư Nhà giáo Nhân dân Lê Đình Kỵ đã từ giã cõi đời cách đây 7 năm ở tuổi 87, nhưng nhân cách và sự nghiệp của thầy vẫn còn trong đời sống giáo dục và văn học nước nhà.

Trong công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, GS. Lê Đình Kỵ có những phát hiện tinh tế, hành văn đầy cảm xúc: “Kim Trọng là người tình nhân số một, không chê trách vào đâu được. Kim Trọng mới nghe tiếng tăm Kiều, từ Liêu Dương cách trở đã trộm nhớ thầm mong, nhác trông bóng Kiều từ xa đã thấy mặn mà, thoáng gần lại đã chập chờn cơn tỉnh cơn mê, gặp mặt rồi thì tìm mọi cách để được gần, khi biết Kiều lưu lạc thì đi đến cùng trời cuối đất tìm cho kỳ được mới thôi. Nếu Từ Hải đã tát cạn bể oan cho Kiều, thì tình yêu của Kim Trọng sẽ trả lại cho Kiều cái mà Kiều đã mất: lòng tin ở cuộc sống và ở chính mình. Bản án của đời Kiều mà Đạm Tiên và Tam Hợp đã từng đọc lên bằng những lời ma mị, Từ Hải đã đập tan nó bằng những đạo quân, và Kim Trọng bằng tấm lòng của mình”.

 Phan Hoàng

Theo nguồn:https://baocantho.com.vn/nho-thay-le-dinh-ky-a21174.html