Cao Tiến Lê sinh ngày 31.12.1937 tại xã Lam Sơn, Đô Lương, Nghệ An. Thuở nhỏ học ở quê, đến tuổi trưởng thành cũng là lúc cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn quyết liệt, anh tạm biệt mái trường và tòng quân trở thành anh bộ đội Cụ Hồ, tham gia mở đường trong chiến dịch Điện Biên lịch sử.

Hòa bình lập lại từ Điện Biên, anh hành quân vào Vĩnh Linh bảo vệ vĩ tuyến 17. Từ tuyến đầu của cuộc đấu tranh đòi thống nhất đất nước, các bài báo, bút kí, phóng sự của anh xuất hiện đều đặn trên báo Quân khu Bốn, Quân đội nhân dân. Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, ở tuyến lửa Khu Bốn, Cao Tiến Lê trưởng thành từ Tiểu đội trưởng lên Trung đội trưởng rồi Đại đội trưởng. Báo chí đang rất cần những cây bút tích cực và có tay nghề, anh trở thành phóng viên của báo Quân khu Bốn, rồi là một trong những phóng viên chủ lực của báo Quân đội nhân dân.
Với vốn sống phong phú, sự trải nghiệm qua hai cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc, những cuốn nhật kí, sổ tay đầy ắp tư liệu chiến tranh; đi hùng hục, viết hùng hục, như bạn bè nói về anh. Với cốt cách của con người xứ Nghệ can trường, cứng cỏi, nghĩa khí mà trữ tình, lãng mạn, hay chữ lại hay nghĩa, các bài báo của Cao Tiến Lê không chỉ nóng hổi hào khí chiến trận, những cuộc đọ súng quyết liệt với kẻ thù mà còn nồng thắm dào dạt hương tình: tình đồng chí đồng đội, tình quân dân cá nước và cả tình yêu trong lửa đạn – mùi thơm bát nước chè xanh mẹ nấu mang ra trận địa, mùi bồ kết tóc em thoảng trong gió Lào cháy lửa và… mùi thơm dây cháy chậm.
Như một lẽ thường tình, khí chất lãng mạn ấy giúp nhà báo chiến sĩ có được những trang văn đẹp, những bút kí, phóng sự thép mà thơ, những truyện ngắn lấp lánh sắc diện một cây bút văn xuôi tài hoa, sung mãn. Truyện ngắn “Mùi thơm dây cháy chậm” đoạt giải Nhì Cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ năm 1972 – một giải thưởng sang trọng, danh giá – tạo điều kiện cho Cao Tiến Lê vững vàng bước vào làng văn để lại cho đời trên 20 đầu sách gồm tuyện ngắn, kí, tiểu thuyết… trong đó có những cuốn được dư luận đánh giá cao như tập tuyện ngắn Phía trong (1972), Bến quê (1976), Cây sau sau lá đỏ (1981); tập kí Nếm trải Điện Biên, Ngược rừng Ba Chẻ; các tiểu thuyết Một nửa cuộc đời, Con nuôi thầy phù thủy, Trung tướng giữa đời thường …
Cái nghiệp báo chí, văn chương dẫn dắt Cao Tiến Lê bước vào trận tuyến mới. Sau giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, ông chuyển ngành làm biên tập viên rồi Phó Tổng biên tập Nhà xuất bản Thanh niên. Ở cương vị mới, phẩm chất người lính, nhà văn, nhà báo chiến sĩ được phát huy mạnh mẽ: Xốc vác, nhiệt tình, chu đáo, lo từ cơ sở vật chất, nơi ăn chốn ở cho cơ quan đến công tác “bếp núc” biên tập, liên hệ với tác giả hoàn chỉnh tác phẩm rồi in ấn, phát hành…
Ông đặc biệt quan tâm đến bản thảo của những người lính, những cựu binh, cựu Thanh niên xung phong – những người đã trải qua trận mạc chịu nhiều hi sinh, thiệt thòi mất mát trong chiến tranh nhưng trái tim vẫn nóng bỏng, tâm hồn vẫn rạo rực bản hùng ca chiến thắng. Có khi ông coi sáng tác của họ như là của chính mình, tận tình góp ý sửa chữa cho tác phẩm hoàn hảo, có thể ra mắt công chúng, bạn đọc. Cuốn tiểu thuyết Tình yêu thầm lặng của chị Nguyễn Thị Sáng – một cựu Thanh niên xung phong quê Thanh Chương, trình độ văn hóa chỉ mới tốt nghiệp tiểu học (lớp 4) đang sống chật vật trong túp lều tre bên góc Nhà văn hóa thiếu nhi Ten-lơ-man (nay là Nhà văn hóa thiếu nhi Việt Đức, thành phố Vinh) – một thời gây xôn xao dư luận. Nhiều tờ báo uy tín như Tiền phong chủ nhật, Tuổi trẻ Chủ nhật, Phụ nữ cuối tuần đã đăng bài về chị. Sách bán chạy tới mức in đến lần thứ 3 vẫn không đủ cung cấp cho người đọc. Đạo diễn Nguyễn Mạnh Cường đã chuyển thể thành phim với tên gọi Thầm lặng. Nhà văn Cao Tiến Lê đã góp công lớn để từ một bản thảo viết dưới dạng hồi kí, nhật kí với tiêu đề Tình yêu người mẹ thành Tình yêu thầm lặng hấp dẫn, cuốn hút bạn đọc – nhất là giới trẻ – mạnh mẽ và “cứu” (chữ dùng của nhà báo Võ Minh Châu trong bài “Chuyện kể về một cựu TNXP tốt nghiệp lớp 4 viết tiểu thuyết cứu đời mình” in ở trang đầu sách tái bản lần 3) chị cùng hai đứa con nhỏ thoát cảnh éo le, quẫn bách.
Năm 2000, tại Đại hội lần thứ VI Hội Nhà văn Việt Nam, nhà văn Cao Tiến Lê được bầu vào Ban Chấp hành và được phân công Thường trực Hội. Ông vinh dự được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật và nhiều giải thưởng, danh hiệu cao quý khác. “Với tác phong của một người lính tận tụy và xốc vác anh đã cùng với tập thể BCH đoàn kết, gắn bó hội viên với Hội, nâng cao chất lượng hoạt đông nghề nghiệp và phát triển tài năng trẻ… Với tác phong của người lính nói đi đôi với làm, thẳng thắn và chân thành lúc nào anh cũng đặt hết mình với công việc…”. Đấy là những lời tâm huyết của chủ tịch Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam, chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam Hữu Thỉnh trong điếu văn đọc tại Lễ truy điệu và đưa tang nhà văn lúc 13 giờ ngày 6.6.2016 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
Tác phong ấy, tấm lòng ấy đã được minh chứng qua những việc làm, nghĩa cử đáng trân trọng như giúp chị Sáng hoàn chỉnh cuốn sách nói trên; hay lo việc đi lại, ăn ở cho nhà thơ Hữu Loan (tác giả bài thơ Màu tím hoa sim) khi nhà thơ ra Nhà xuất bản làm tuyển tập thơ và ông đã không quản ngại đường xa, công việc bề bộn, vào Vinh dự lễ tổng kết trao giải Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương do UBND tỉnh Nghệ An tổ chức lần đầu năm 2002. Sau tách tỉnh, rồi nghỉ hưu, ông vẫn nhận thực hiện dự án xây dựng Bảo tàng Hội Nhà văn và làm rất hiệu quả…

Giới cầm bút thường tách bạch giữa viết văn, viết báo. Sự nghiệp báo chí của nhiều tác giả khá đồ sộ nhưng khi họ viết văn, cho ra đời những ấn phẩm văn chương thu hút người đọc, người ta không gọi họ là nhà báo nữa mà gọi là nhà văn như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Vũ Bằng, Hoàng Thiếu Sơn… Ngay cả nhà thơ Tản Đà, tác giả của Khối tình con, Thề non nước cũng bắt đầu từ nghề báo và sau này vừa làm thơ vừa viết báo.
Theo tài liệu tác giả Phạm Xuân Cần sưu tầm công bố trong bài Tản Đà “khối tình con” xứ Nghệ (Tạp chí Sông Lam số tháng 4.2020), ông đã lận đận với tờ An Nam tạp chí của mình vào Vinh, được lương y, nhà báo Phó Đức Thành vừa quản lý công ty dược Vĩnh Hưng Tường vừa quản lý tờ Thanh Nghệ Tĩnh tân văn làm nhà hảo tâm ra tay giúp đỡ. Nhà báo Tản Đà đã phải biến cả toa xe lửa Hà Nội . Vinh thành “tòa soạn” và in chịu tạp chí ở nhà in Châu Tịnh tại Vinh…
Sau này, hòa bình lập lại ở miền Băc, trong chiến tranh chống Mỹ có bao trường hợp: Nguyễn Khải, Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc), Nguyễn Thi, Bùi Đức Ái (Anh Đức), Trần Đinh Vân (Thép Mới), Dương Thị Xuân Qúy… có những thiên phóng sự, tùy bút, bút kí văn – báo để đời như Đường chúng ta đi, Người mẹ cầm súng, Sống như Anh, Sống chết ở Cồn Cỏ… Và, Cao Tiến Lê cũng không ngoại lệ, chỉ riêng Vinh ông “đã viết hàng trăm bài báo, bút kí, phóng sự…” (bút kí “Người Thành phố Vinh”).
Thiết nghĩ, báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, trong hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, trong công cuộc đổi mới, hội nhập hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm và đánh giá cao sự đóng góp của báo chí cách mạng. Trong Đại hội Nhà báo và các diễn đàn liên quan Người luôn nhắc nhở, dặn dò về đạo đức ngươì làm báo, về cách viết: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào? Các nhà báo không chỉ trong chiến tranh mà hiện nay cũng đang phải lăn lộn, hi sinh – kể cả hi sinh tính mạng – để phanh phui những hành động chống phá chính quyền, các tệ nạn buôn lậu, buôn bán hàng cấm, ma túy, lâm tặc, tham nhũng… Để có bài báo hay, lôi cuốn người đọc, nhà báo còn phải chọn lọc, phát hiện những chi tiết độc đáo, có ý nghĩa và phải vật lộn với con chữ, vận dụng mọi thủ pháp nghệ thuật cả của người viết văn. Có thế mới hấp dẫn bạn đoc, lay động trái tim, tâm hồn họ, động viên cổ vũ được công chúng rộng rãi. Đó là những yêu cầu không đơn giản đặt nhà báo ở vị trí tiền đồn xứng đáng được tôn vinh.
Nhà báo chiến sĩ Cao Tiến Lê đã thực hiện được những yêu cầu này. Những bài báo của ông đã “có tư liệu đầy đủ, phân tích sâu sắc”, “được thể hiện sinh động và lôi cuốn”, “đủ sức thuyết phục người đọc, người xem, người nghe” như những điều Bác dạy các nhà báo trong diễn đàn đã nêu.
Lúc tôi còn là học sinh, từng hào hứng đọc bài của ông trên báo Nghệ An, Quân khu Bốn, Quân đội nhân dân và cứ nghĩ tác giả là một anh lính phòng không gan góc, mưu trí, yêu đời và lãng mạn. Nó kích thích cảm hứng sáng tác để tôi học tập và đã viết được một số bài báo, bài thơ được Đài truyền thanh Nghệ An đọc trên loa kim treo đầu nhà, được nhà báo Lương Sĩ Cầm biên tập báo Quân khu Bốn gửi thư cám ơn, động viên viết bài. Phải gần 30 năm sau (1998), hết lên rừng xuống biển rồi về “đóng đô” ở thành phố quê hương, tôi bất ngờ “gặp” ông qua bài bút kí Người Thành phố Vinh gửi dự Cuộc vận đông sáng tác văn học chào mừng 210 năm Phượng Hoàng Trung Đô Vinh; tôi được tham gia Ban tổ chức, Ban giám khảo. Tôi hồi hộp dõi theo từng dòng bản thảo. Cũng với chất lính, chất nhà báo xông xáo bám sát thực tế, phong cách sâu sát, tinh nhạy, tác giả phát hiện những sự việc những câu chuyện bi hùng, rất dũng liệt mà thấm đẫm nhân văn, có ý nghĩa sâu sắc làm sáng tỏ phẩm chất của con người xứ Nghệ – Thành Vinh mà nhà thơ Huy Cận đã khái quát trong bài thơ Gửi bạn người Nghệ Tĩnh: “Đất này bền nghĩa bạn/ Đất này tình thủy chung”, “Anh hùng nghĩa khí” mà “ Lòng đỏ như son”.
Đó là chuyện về một cô gái đến tìm người yêu sau trận đánh ác liệt ở trận địa phía băc phà Bến Thủy, nhiều chiến sĩ hi sinh, trong đó có người yêu của cô bị bom phạt bay mất đầu. Các chiến sĩ kéo chăn che kín phần đầu, vội vàng đưa lên xe và nói dối cô là anh ấy lên Sở chỉ huy Trung đoàn từ sáng sớm vì không thể để cô thấy anh trong tình trạng này. Nhưng cô một mực khẳng định: “Các anh nói dối! Anh ấy hi sinh rồi! Em nhìn thấy ngón chân cái anh ấy kia kìa!” và cô thét lên chạy theo xe mặc gai góc, đá gạch cào tước bàn chân… Cao Tiến Lê đã phải nao nao, bất thần không chỉ lúc đó mà hàng chục năm sau “Tôi vẫn không hiểu nổi làm sao cô gái thành phố Vinh chỉ nhìn qua ngón chân cái của liệt sĩ mà khẳng định chắc chắn đấy là người yêu của mình…” (trích trong Người Thành phố Vinh – Cao Tiến Lê, tác phẩm được chọn in trong tập sách Thành phố Đỏ mùa thu kỉ niệm 210 năm Phượng Hoàng Trung Đô – Vinh).
Hẳn không chỉ có tôi mà nhiều người đọc khác cũng phải bàng hoàng xúc động trước câu chuyện bi tráng mà tột cùng nhân văn ấy.
Rồi cơ duyên đến, vài năm sau, tôi gặp lại anh khi cùng tham gia trại sáng tác của Bộ đội biên phòng ở Cửa Lò. Bế mạc, tôi chở xe máy đưa anh về Vinh thăm anh em họ hàng, bạn bè. Dọc đường, anh nói về nghề văn, nghề báo. Tôi nhớ mãi câu: “Làm nghề viết dù là văn chương hay báo chí luôn phải nhập cuộc, phải lăn lộn thực tế để tích lũy tư liệu, vốn sống. Nhưng cái cần hơn là phải có trái tim, tấm lòng biết rung cảm biết nâng niu, trân trọng cái đẹp cái cao quý, tác phẩm mới có hồn cốt mới lôi cuốn người đọc. Cái bút kí Người Thành phố Vinh cậu vừa nhắc minh chứng rõ điều đó…
ĐINH THANH QUANG
Tạp Chí Sông Lam