Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, đồng hành cùng những giọt mưa

Năm 1982, bài thơ Những giọt mưa đồng hành của nhà thơ Nguyễn Thụy Kha được trao giải nhì Báo Văn Nghệ. Sau khi trao giải, nhà thơ Xuân Diệu tới nhà Kha ăn cơm, ông nói: ‘Giải nhì lần này còn ngon hơn giải nhất đấy em ạ’.

Nhạc sĩ – nhà thơ Nguyễn Thụy Kha

Xuân Diệu đánh giá cao bài thơ Những giọt mưa đồng hành của Nguyễn Thụy Kha. Rồi Văn Cao nghe tiếng Kha có bài thơ hay, tìm đến, anh em gặp nhau uống rượu, Văn Cao ôm Kha mà cười: “Mầy là giọt mưa đồng hành của tao!”. Từ đó, Văn Cao coi Nguyễn Thụy Kha như một đứa em thân thiết.

Khởi đầu sự nghiệp thơ như thế là quá được.

Nhưng Nguyễn Thụy Kha không dừng lại ở đó. Năm 1999, anh cho xuất bản tập thơ Thời máu xanh, mà theo tôi, đây mới là tập thơ tới độ chín của thơ anh. Vẫn là thơ về người lính, nhưng Thời máu xanh đi tới tận cùng những số phận người lính, không né tránh những mất mát của thân phận người lính trong và sau chiến tranh.

Khi đã sống hòa bình rồi, bấy giờ cuộc chiến tranh mới trở lại với anh, vò xé anh. Nhưng với người làm thơ, đó lại là cơ may. Bởi có sống cuộc chiến tranh ấy, Nguyễn Thụy Kha mới tìm được gương mặt đích thực của anh, thơ của anh.

Một số tác phẩm của Nguyễn Thụy Kha. Ảnh tư liệu

Thời máu xanh là một ẩn dụ, như là ẩn dụ mà bất cứ ai từng trải qua Trường Sơn ngày ấy đều nhận ra ngay lập tức, như nhận ra gương mặt đồng đội, gương mặt chính mình, xanh xao, vàng vọt vì sốt rét, vì đói ăn đói ngủ, cứ như máu trong huyết quản mình đã chuyển sang màu xanh.

Nhưng “màu xanh” ấy còn là trùng trùng hun hút những đoàn quân trang phục xanh, ngụy trang xanh ra trận mà mỗi người lính chỉ đơn giản như “mỗi giọt máu xanh – chảy lặng lẽ trên thân hình bán đảo…” (Máu xanh). Lúc ấy, cả Trường Sơn là sống – lưng – lính, giấu trong nó những huyết quản chảy rần rật dòng quân xanh, chảy đến tận ngón chân cái bám đầy bùn đất của Tổ quốc là mũi Cà Mau.

Một số tác phẩm của Nguyễn Thụy Kha. Ảnh tư liệu

Nguyễn Thụy Kha không phải là nhà thơ thay đổi nhiều về thi pháp qua các tập thơ của mình. Cách đi của anh thường trực tuyến, và cách biến ảo, cái bất ngờ của thơ anh cũng trực tuyến. Cách “dừng bóng và đổi hướng bóng” bất ngờ có không ít trong thơ Kha, nhưng đó là những đường bóng thẳng.

Nhà thơ, thực ra, rất gần và rất dễ đồng điệu với cầu thủ bóng đá, chính là qua thi pháp được coi như một thứ kỹ thuật đi bóng, dắt bóng. Có điều, “khung thành” trong thơ thì lúc ẩn lúc hiện, và người làm thơ chẳng biết khi nào thì mình đưa được ngôn ngữ vào đúng dòng thơ, vào “lọt” bài thơ. Những “cú sút” ngôn ngữ trong thơ mang nặng dấu ấn thi pháp của từng nhà thơ.

Với Nguyễn Thụy Kha, người ta lại dễ nhận ra cách “sút chữ” của anh: những đường bóng căng, không né tránh, những cú “vào bóng” quyết liệt, không sợ chấn thương. Ở điểm dễ bị chấn thương này, nhà thơ cũng rất giống cầu thủ bóng đá. Trung thực, mạnh mẽ, thơ Nguyễn Thụy Kha thu hút người đọc bởi “chất” nam tính rất mạnh. Có ai đề cao “nữ tính”, hay “âm tính” trong văn học, trong thơ, cứ như đó là điều kiện phải có để làm nên những tác phẩm hay. Tôi nghĩ khác.

“Âm tính” hay “dương tính” gì cũng được, miễn tác phẩm của anh là một thế giới riêng của anh. Mà đã là “thế giới” thì chắc chắn phải gồm cả “âm” lẫn “dương”, phải “nữ tính” đi kèm “nam tính” thì mới ra việc chứ?

Nguyễn Thụy Kha có những câu thơ thật mạnh mẽ đi liền những câu chữ thật yếu đuối: Mùa hè ấy gạch chảy ra như máu/ Máu các anh che chở những căn nhà/ Em làm chi? Em xếp gạch đằng xa/ Em ghép lại mặt trời mùa hè ấy/ Hay rưng rưng tay nâng dòng máu chảy/ Dĩ vãng trẻ măng, dĩ vãng binh nhì… Những dòng thơ ấy là “âm tính” hay “dương tính”, nam tính hay nữ tính?

Những xúc động, những phút yếu lòng đâu chỉ dành cho nữ, cho phái đẹp, và những phút trào dâng, những cơn mãnh liệt cũng không chỉ dành cho nam giới, cho “phái mạnh”. Thơ đi giữa hùng mạnh và yếu đuối, thơ chạm vào hai bờ, vin vào hai phía để làm nên chính mình.

Nguyễn Thụy Kha cũng vậy, một người lính đa cảm bên trong một nhà thơ quyết liệt. Người ta thấy những cây sắn mì bình dị vô danh giữa Trường Sơn: Khúc thân sắn đốt xương của đất/ Chìm như sống lưng làm tươi da thắm thịt/ Khúc thân sắn ống sáo thiên nhiên/ Thổi xuống đất giai điệu đắng nghiêng (Sắn Trường Sơn). Và cũng thấy cái vô danh hy sinh của những đời người: Mẹ sững sờ trước cửa/ Tóc bạc nhòa sau lưng/ Vợ đã đành bước nữa/ Con trai nép bên tường (Người lính mùa xuân về).

Cái ngơ ngác của người lính sống sót trở về sau khi đã có giấy báo tử, một cuộc trở về không có ai đợi nữa, như người dân đã cắn răng nuốt nước mắt “Quen vắng anh từ lâu”.

Với những câu thơ như thế, thật khó để nói Nguyễn Thụy Kha là yếu đuối hay mạnh mẽ. Chỉ biết, anh đã được là chính mình khi làm thơ, khi đối diện với trang giấy trắng. Một tập thơ viết tuyền về người lính, vậy mà khi đọc ta lại có cảm giác như đang đọc một tập thơ tình. Còn hơn là một tập thơ tình réo rắt những “em”, “anh”, những nụ hôn hoa hồng và các thứ, đây là một tập thơ viết về tình đồng đội trong chiến tranh và sau chiến tranh, người đọc vẫn có khi rưng rưng nước mắt…

Có một Nguyễn Thụy Kha “yếu đuối” trong thơ, và chính qua những phút “yếu đuối” như thế mà người lính trưởng thành, rắn chắc, bình tĩnh. Họ sẵn sàng đón chờ tất cả, kể cả cái chết: Các anh trong veo như mưa/ Nhập ngay về đất/ Khi người lính tự nguyện chết/ Họ đâu biết ai còn sống hôm nay (Trước nghĩa trang Núi Bút).

Ẩn sau những câu thơ chừng như đơn giản ấy là những cơn sóng ngầm dữ dội mà người làm thơ không hề muốn che kín. Số phận người lính là vậy, họ chấp nhận chịu mọi thiệt thòi, chấp nhận vô danh như những hạt mầm: Hạt dẻ nằm trên cỏ như mơ/ nằm lẫn vào lính ngủ (Nghe tiếng rao hạt dẻ).

Và thơ đã đến với họ, như một lẽ đương nhiên. Nơi nào thiệt thòi nhất, cay đắng nhất, nơi ấy có thơ như bạn đường, như đồng đội, như những hạt dẻ vô tư và vô danh: Cánh hoa dẻ mùa xuân rơi trên tóc ai/ Mùi thơm ấy lan sâu năm tháng/ Lao xao chồn bay chiều thu chạng vạng/ Hạt dẻ rơi trên cỏ như mưa (Nghe tiếng rao hạt dẻ). Những bài thơ lính của Nguyễn Thụy Kha cũng là những hạt dẻ ấy, lăn lóc cùng người lính, lẫn vào những giấc mơ của họ, và cũng là của chính mình.

Tôi với Nguyễn Thụy Kha thân nhau cũng mấy chục năm rồi. Hai chúng tôi là “những giọt mưa đồng hành” cùng nhau trong cuộc sống, cùng nhau trong thơ.

Từ những tháng năm bao cấp khốn khó, hai chúng tôi đã sát cánh với nhau, nhận làm đủ việc, từ thơ tới nhạc, miễn kiếm được những đồng nhuận bút ít ỏi nuôi gia đình, giúp bạn bè khốn khó hơn mình.

Thơ đã là số phận chúng tôi. Ngày vợ tôi qua đời, Kha đã khóc, đã chia sẻ nỗi đau khổ cùng tôi. Đó thực sự là tình bạn.

THANH THẢO/ TNO

Theo nguồn: https://vanvn.vn/nha-tho-nguyen-thuy-kha-dong-hanh-cung-nhung-giot-mua/