Hồi nhỏ tôi học văn

Hồi nhỏ khi tôi còn học ở trường làng gần thị xã Long Xuyên cũng như sau này lên học ở Cần Thơ, giờ học toán đối với tôi khổ sở nhọc nhằn bao nhiêu thì giờ học văn đối với tôi thật là thú vị. Cho tới hôm nay tôi cũng không tự giải thích đầy đủ được vì sao từ lúc tuổi hãy còn thơ, có môn học nhập vào người mình khó khăn như vậy, và có môn học lại nhập vào mình một cách khoan khoái dễ chịu như vậy. Tôi nghĩ có lẽ có những năng khiếu bẩm sinh, cộng vô đó là môi trường và hoàn cảnh.

Chân dung nhà văn Anh Đức

Tôi sinh ra, lớn lên, rồi cắp sách đi học, suốt thời tuổi nhỏ hầu như lúc nào cũng ở giữa thiên nhiên rất đỗi hài hòa. Cái làng chôn nhau cắt rốn của tôi đó nằm kề bên sông Cửu Long. Phù sa màu mỡ của dòng sông không ngừng bồi bổ ruộng vườn. Cá tôm dưới sông thật nhiều, tới mùa cá dại, mọi người xách rổ lội xuống xúc cá về lớp ăn, lớp làm mắm. Tuổi thơ tôi hầu như đêm ngày được ru trong tiếng gió và sóng Cửu Long Giang, trong tiếng chim kêu hót từ các khu vườn, trong tiếng xạc xào của ruộng lúa. Tuổi thơ tôi nghe vắng vẳng tiếng hát ru, tiếng võng đưa kẽo kẹt giữa trưa yên tĩnh, và trong mỗi buổi chiều tà in hình từng đàn cò trắng lả cánh bay về. Tôi còn nhìn thấy những cảnh đời người khác biệt nhau, có kẻ quá no đủ phủ phê trong những ngôi nhà nền đúc phòng tô, có người quá khổ cực sống trong chòi lá xơ xác, có những đứa theo Tây nổi mỏ truy lùng cộng sản, và có những người cộng sản bị bắt giải đi.

Có lẽ nhờ tất cả những thứ đó, nên tiềm thức khiếu năng của tôi được khơi động. Rồi nhờ vào những quyển sách tôi đọc. Từ lâu trong gia đình tôi có một tủ sách khá phong phú, do cha tôi tạo nên, kế đó các anh chị tôi mua thêm, đóng gáy mạ chữ, giữ gìn rất cẩn thận. Tôi đọc say mê ngốn ngấu, đọc cả những quyển mà lẽ ra tuổi tôi chưa được đọc. Có lúc tôi ẩn mình trong kẹt tủ có lúc leo tuốt lên cành ổi um tùm, nhất là từ Hà Nội vào, gia đình tôi đều mua đủ, từ những cuốn cho trẻ em như loại Hoa Mai, Truyền Bá, sách Hồng, cho tới các cuốn tiểu thuyết của nhà Tân Dân, của Tự Lực văn đoàn v.v… Đối với tôi hồi nhỏ, cuộc sống của cô bác ở nông thôn, cảnh vật làng quê, cộng với sách, đó là hai thú nhập lại làm một thiên đường, gợi mở cho trí tưởng. Có quyển sách tôi không dám đọc hết, cứ đọc nhín, như món ăn ngon phải ăn dè. Khi đọc, tôi không chỉ thấy dòng chữ, mà còn thấy cảnh tượng sau dòng chữ, trí tưởng tượng nhiều khi dẫn tôi đi rất xa, về thêu ra lắm điều thú vị. Khi đó tôi thầm thán phục các nhà văn, nhà thơ, thấy họ như không phải người thường mà giống như ở cõi nào khác, và họ tạo ra những trang sách như có phép lạ.

Lớn lên một chút, khi tôi học lớp nhì, lớp nhất, tới phần làm văn, luận văn, tôi nảy ra ý nghĩ dùng tới phép lạ này thử coi sao. Thế là với các bài văn, thầy giáo ra đề gì, tôi cũng cố gắng đem vô đó cuộc sống, thiên nhiên cảnh vật quanh tôi và khéo léo gia thêm những gì từ trang sách tôi đọc được, biến hóa cho phù hợp. Tôi tự nhận thấy như hồi ấy, tôi đã làm những bài văn có vẻ già dặn vượt quá tuổi thơ tôi, bởi tới nghĩ hễ mình dám viết ra câu văn thì không nên do dự mặc cảm mình là trẻ con gì hết, mà phải vượt lên, viết với tư thế đàng hoàng như một người lớn. Chính vì vậy nên số phận những bài làm văn của tôi hồi lớp nhất đã gặp sự cố. Lúc đó, trừ các kỳ thi ba tháng hoặc sáu tháng là làm tại lớp. Kỳ dư bài thường thì đem về nhà làm. Một lần thầy coi bài tôi xong, không cho điểm, bảo rằng bài đó không phải của tôi, ngờ rằng có ai đó làm dùm tôi. Thầy bảo sức tôi không thề làm nổi một bài như vậy. Thầy hỏi gặng tôi, giọng nghiêm khắc:

– Em hãy thành thật cho biết bài này do em làm hay là các anh chị của em làm ?

Tôi đáp :

– Thưa thầy, bài này em làm lấy, chớ không nhờ ai làm giúp.

Ông thầy vẫn ngó tôi với vẻ không tin, nhưng sau khi đắn đo suy nghĩ một lúc, thầy với bút chấm mực đỏ, cho điểm vào bài tôi. Thầy gọi tôi lên trả lại bài và nói với cả lớp:

– Bữa nay tôi vẫn cho em bảy điểm rưỡi, coi như bài do em làm, vì bài rất hay, xứng đáng với điểm đó, nhưng nay mai tới kỳ thi tam cá nguyệt làm bài tại lớp, em sẽ cho thầy và cả lớp biết sự thật.

Tôi cầm lại bài, cúi chào thầy, đi về chỗ ngồi, vừa uất ức lại vừa phấn khởi. Lẽ tất nhiên, cả lớp đều láng máng nghi ngờ tôi, và tôi biết có nhiều thằng bạn khoái chí chờ đợi tôi đò nợ trong kỳ thi làm bài tại lớp. Tôi thì không sợ, nhưng cũng lo, vì biết đâu gặp đề khó, mình có thể sa sẩy. Từ bữa đó tới kỳ thi ba tháng tôi như bị án treo có điều an ủi tức hời là với bài vừa rồi, tôi đã làm khá, và sự thật chính tôi làm lấy. Bảy điểm rưỡi trên mười, đó là cái điểm chưa bao giờ thầy tôi chấm cho một bài văn. Vậy thì riêng việc ấy có nghĩa là tôi đã vận dụng khá những gì tôi thấy, tôi biết, từ cuộc sống và sách đọc. Tuy nhiên tôi suy gẫm rằng giá như tôi giảm bớt một phần những gì tỏ ra vượt quá tầm tuổi thì có lẽ hay hơn, hợp lý hơn.

Tới kỳ thi tam cá nguyệt, tôi chuẩn bị tinh thần, cố gắng làm sao trong hai tiếng đồng hồ, làm một bài văn chứng tỏ tôi chính là người làm ra bài văn trước chớ không phải ai khác. Lần này thầy tôi cho một đầu đề phải nói là hắc búa, tuy mới xem qua thấy rất bình thường.

Em hãy kể về một người bạn quen thân, gần gũi với cha mẹ, gia đình em mà em yêu mến và kính trọng !

Đầu đề rất ngắn nhưng rất khó, vì lần đầu tiên bài vẫn đặt ra yêu cầu tả về một con người, mà theo sự tính toán, cân nhắc của tôi, thì viết ngắn khó lòng làm nổi bật lên được. Nếu viết đầy đủ trên bản nháp, sau đó chép lại e không kịp giờ. Tôi liều quyết định viết thẳng luôn. Như thế, đòi phải cân nhắc kỹ từng câu, từng chữ để tránh bôi xóa. May mắn cho tôi, nhờ có sự để ý, quan sát thường ngày những cô bác bạn bè thân thiết của cha mẹ tôi, tôi liền chọn một người cha mẹ tôi rất quý và bản thân tôi cũng yêu mến. Đó một cô giáo nghèo, ở trong xóm tôi, thường lui tới gia đình tôi. Cô giáo này tuổi chưa tới ba mươi, vóc người mảnh mai, có nhan sắc, tính tình dịu dàng, chỉ phải cái hơi ít nói, trầm lặng. Cô dạy học ở trường nữ, nghe đâu mười năm về trước có thương một thầy giáo và cũng được thầy giáo đó yêu thương. Nhưng rốt cuộc, hai người không lấy nhau được Mối tình không thành, thầy giáo có gia thất, nhưng cô giáo thì vẫn ở vậy, ngày ngày đi dạy. Thế là không do dự, tôi làm một bài văn viết đầy ba trang giấy, tả cô giáo nọ. Tôi viết với lòng yêu mến, xót thương, với những ý nghĩ trẻ thơ của tối, và với những cầu những chữ tôi thu tóm được chỗ này chỗ nọ trong sách đã đọc. Tôi nộp bài một giờ. Thầy tôi cầm bài, đưa mắt nhìn tôi, thản nhiên cất bài đi không nói gì. Tới tuần sau, là trả lại bài cho cả lớp. Riêng bài tôi, thầy giữ lại trả sau cùng, khiến trống ngực tôi đập thình thịch. Tôi còn nhớ, trong buổi sáng đó thầy đã nói với cả lớp, giọng cố giữ bình tĩnh nhưng lộ rõ xúc động:

– Thầy xin lỗi, vì hôm trước thầy ngờ oan cho em A- Bài thi của em làm tại lớp vừa rồi là một bài còn hay hơn bài trước nhiều. Tôi cho em tám điểm. Bây giờ em lên nhận bài, rồi đọc cho cả lớp cùng nghe.

Tôi đứng dậy, rời khỏi bàn, đi lên bục. Thầy trao bài cho tôi. Tôi cầm lấy đọc, cố ý nhấn mạnh và thể hiện tình cảm ở những đoạn mà tôi cho là quan trọng nhất. Đọc xong, tôi nhìn thấy thầy tôi cố nén xúc động buồn bã, nhìn chăm chăm xuống mặt bàn. Khi tôi dời chân định quay về chỗ, bỗng thầy gọi lại, ra hiệu bảo tôi đưa bài. Thầy cho tôi thêm nửa điểm nữa, là tám điểm rưỡi.

Hôm ấy tôi hết sức phấn khởi. Cả lớp cũng ngạc nhiên về số điểm quá cao, xưa nay chưa từng có. Đám bạn không còn nghi ngờ gì tôi được nữa, nhất là mấy đứa mong cho tới lâm nạn, nay đều cụt hứng. Trong buổi sáng hôm ấy, tôi được thầy khen ngợi nhiệt liệt, đến nỗi tôi như nhận ra một cái gì khác thường. Sự khác thường ấy về sau tôi mới biết, thật ra cũng rất bình thường. Thầy giáo tôi không phải chính là người thầy trong bài văn tôi tả, nhưng ít lâu sau tôi được biết thầy ở trong một hoàn cảnh, tương tự, khi thầy ra trường sư phạm đi dạy. Về sau này nữa, khi tôi đã trở thành một người viết, tôi vỡ lẽ ra rằng, viết về cảnh ngộ con người thì mọi con người đều có thể cảm thấy, và đó là chính công việc cực kỳ quan trọng mà người sáng tác phải chuyên tâm.

Cho tới hôm nay nhìn lại, những kỉ niệm học văn tuy đã lùi xa nhưng vẫn còn hiện rõ. Tôi thấy muốn học văn tốt, trước hết phải biết giá trị mạnh mẽ của môn văn. Cho dù xã hội và đất nước ngày càng phát triển kinh tế để đem lại sung túc về vật chất thì môn văn bao giờ cũng tồn tại vị trí vững mạnh của nó, với sứ mệnh dìu dắt, nâng cao phẩm chất con người. Và khi còn tuổi nhỏ điều giúp học văn tốt, ấy là nhờ khiếu năng cộng với sự đồng cảm của mình trước cuộc sống, con người ở quanh ta, cộng với những trang sách hay, hỗ trợ ta rất đắc lực. Về cái gọi là khiếu năng, tôi nghiệm thấy nó hiện đến rất sớm, tự mình có thể biết rằng mình có cái đó hay không, dầu nó còn lờ mờ như ẩn dưới một làn sương. Hãy cố gắng mà vén màn sương ấy, tự vun hồi cho mình để ngày ngày nó càng hiện rõ. Không có cách nào khác hơn. Ngay khi còn ngồi ở ghế nhà trường, ngay khi làm ra những bài văn còn nhỏ nhoi vụng dại, tôi đã có một linh cảm mơ hồ là cái việc nào mình có thể rớ tới được. Tôi còn cảm thấy rằng làm công việc này, phải cố gắng đạt tới sự nói lên cái cụ thể và tránh xa mọi câu chữ không nói lên được cái gì cụ thể. Nhớ lại hồi đó, có lần thầy ra đề cho chúng tôi làm một bài văn về một cảnh sinh hoạt lao động, tôi đã viết về một cặp vợ chồng xuồng chài, mở đầu bằng buổi mờ sáng trên sông, người vợ bơi chiếc xuồng lướt êm tới những nơi mà hồi đêm chính chị đã bơi đi bỏ mồi chìm dụ cá tới. Tôi tả rất kỹ anh chồng đứng trước mũi, nhún nhẹ chân vài chài, mũi xuồng hầu như không động, rồi người vợ bơi chặn ra sao rồi chài kéo lên, những con cá đuôi đỏ lấp lánh vẩy bạc trong lưới chài, và đôi mắt vui mừng chờ đợi của người vợ cũng lấp lánh sắc hồng của bình minh.

… Thật là không có cách gì học văn làm văn tốt cho bằng hiểu biết và cảm được cuộc sống, nhất là cuộc sống lao động của cô bác, về ở những nơi đó, giá trị con người được chỉ rõ nhất. Nhưng như thế cũng chưa đủ, còn phải biết cách thừa hưởng, hấp thụ di sản thơ văn của cha ông, của nhân loại, của các nhà văn nhà thơ, mà những thứ đó phần lớn nằm ở trong sách, tầng tầng, lớp lớp qua bao niên kỷ, chỉ cần ta chăm đọc, biết cách đọc, nghĩa là biết gạn lọc, biết rút lấy những gì bổ ích, cần thiết cho mình.

A.Đ.

Tháng 8-1986

(Trích: Hồi nhỏ các nhà văn học văn)