NGỌC BÁI
Truyện ngắn
Thật ra khi được điều động về làm cán bộ chuyên trách chính sách của Tỉnh đội, Quân đã cất công đi tìm Tuyển nhiều lần mà không biết anh đã trôi dạt đi tận đâu. Không biết còn sống hay đã chết? Tìm về quê cũ Thổ Sơn, những người trẻ tuổi bảo rằng họ chẳng thấy có ai tên là Tuyển đóng gạch, người lớn tuổi thì bảo có nghe mang máng đâu đó, nhưng hình như người ấy dạt đi đâu không biết từ lâu lắm rồi. Từ đấy, Quân cứ lần mò hỏi thăm mà chẳng biết ông bạn Tuyển đóng gạch tội nghiệp đã mất hút tận phương trời nào.
Kể từ ngày miễn cưỡng chia tay nhau âm thầm ở ven rừng bản Thúc Xà Lời hồi cuối Mậu Thân, Quân không còn biết Tuyển ở nơi nào. Mò mẫm về tận quê Thổ Sơn, mới biết tình cảnh Tuyến thật đáng thương tâm.
Hơn bốn mươi năm trước.
Sau trận đánh Làng Vây lịch sử, đơn vị chuyển ra bắc đường số Chín để đối mặt ngày đêm với lính thuỷ đánh bộ Mỹ. Hầu hết các điểm cao đều bị phi pháo Mỹ xới đào phát quang, rồi chúng đổ quân chốt giữ. Thời gian ấy Quân và Tuyến ở cùng trung đội bộ binh chiến đấu. Đứa quê trung du đứa đồng bằng mà điển hình thân nhau. Có đêm mắc tăng võng nằm kề, Tuyển kể ở quê có nghề đóng gạch nổi tiếng khắp vùng. Gạch quê Tuyển ngày xưa các cụ già bảo còn được chở thuyền theo sông Hồng về Hà Nội xây thành phố. Cảnh đóng gạch đốt gạch vô cùng vất vả, mỗi khi gạch ra lò bụi mù cả một vùng. Trước khi vào bộ đội, Tuyển đã là anh chủ nhiệm hợp tác đóng gạch rất cừ khôi. Tuyển chỉ thương mẹ già với vợ và đứa con gái nhỏ mới sinh được vài tháng. Quân thì bảo nhà Quân nghèo lắm. Nhà tranh vách nứa sơ sài, khi mùa đông gió lùa bốn bề, rét thấu xương. Tuyển hẹn Quân bao giờ hết chiến tranh, Tuyển sẽ đóng cho Quân vài vạn gạch, chỉ việc đến chở về mà xây nhà.
Trong những ngày ác liệt ấy, đơn vị được giao đánh chiếm các vị trí quân Mỹ đồn trú ở một số điểm cao. Lính Mỹ với hệ thống hầm hào bao cát phòng thủ khá chắc chắn. Trực thăng cẩu dây thép gai và những bao cát từ ngoài bãi biển vào, bao giờ thoả mãn việc làm công sự mới thôi. Chúng ỷ vào hoả lực mạnh với hệ thống cứ điểm liên hoàn có thể chi viện và ứng cứu cho nhau bất cứ lúc nào. Đánh chúng không dễ dàng. Pháo và phi cơ Mỹ suốt ngày quần phá, đồi núi như đưa võng. Có điểm cao lính ta và lính Mỹ giành giật từng khoảnh đất. Ta đánh bật chúng khỏi điểm chốt, chúng lại dùng bom pháo đánh hất ta ra. Nhiều điểm chốt ta hy sinh không ai sống sót. Bấy giờ Tuyển đã là trung đội phó, Quân mới là tiểu đội trưởng. Cứ mỗi trận lại lên một chức. Người trước hy sinh, người sau thay ngay vị trí.
Sau khi chiếm được điểm chốt của Mỹ, Tuyển chỉ huy mọi người tận dụng bao cát, hàng rào thép gai của Mỹ, củng cố trận địa, chuẩn bị đối phó với những đợt phản công mới của địch. Đây là trận chiến đấu giữ chốt tiêu biểu, khẳng định sức chịu đựng dẻo dai của quân ta. Sau đợt phi pháo, quân Mỹ tiếp tục mở đợt tấn công bằng bộ binh chiếm chốt. Thấy phía ta không bắn trả, lính Mỹ ào ào xông lên. Lúc ấy Tuyển mới cho điểm hỏa mìn định hướng. Riêng quả mìn DH10 của Tuyển đã quét đúng vào hướng chính của đội quân Mỹ. Nhẩm tính có vài chục đứa bỏ mạng. Quân cũng điểm hỏa được hai quả mìn định hướng. Cả đơn vị đánh lui nhiều đợt tấn công của Mỹ. Mỗi khi quân Mỹ lui, Tuyển lại cho chuẩn bị đợt chiến đấu mới, phán đoán hướng tấn công và thủ đoạn của địch. Lựu đạn được mở sẵn giây nụ xoè, găm vào cọc cắm chặt xuống đất. Mỹ đến gần cứ việc giật ném bằng cả hai tay. Đấy được coi là một sáng kiến. Bởi khi giáp mặt địch, chỉ cách đó là ném được nhanh và nhiều lựu đạn nhất. Lựu đạn nổ trùm lên đầu lính Mỹ. Cầm cự chiến đấu suốt ba ngày, quân Mỹ không chiếm được trận địa ta, đành phải lui quân, tạo thời cơ cho đơn vị hoàn toàn làm chủ những trận đánh trên toàn mặt trận. Bí quyết của chiến thắng là quân ta luôn bám sát địch, làm cho phi pháo của chúng không phát huy được tác dụng. Chúng sợ bắn nhầm khi hỗn chiến. Cấp trên khẳng định lính Mỹ thua là thua ý chí ngoan cường của quân ta.
Đơn vị được lệnh trở ra nơi an toàn rút kinh nghiệm chiến đấu, bình xét chiến công sau đợt chốt. Tuyển được mọi người vinh danh là dũng sĩ diệt Mỹ, mưu trí dũng cảm, là lá cờ đầu của trung đội, xứng đáng tặng thưởng Huân chương Chiến công. Toàn trung đội được tuyên dương chiến đấu anh dũng, diệt nhiều lính Mỹ, thực hiện tốt ý đồ tác chiến của mặt trận. Không hiểu sao, trong lúc tâm sự sau trận chốt, Tuyển nói riêng với Quân rằng: “lúc bắn tên Mỹ ngã sập mặt xuống công sự máu me be bết, thấy ghê ghê”.
Giãn một thời gian nghỉ ngơi, cả đơn vị trở ra bản Thúc Xà Lời chuẩn bị cho đợt chiến đấu mới. Ai từng là lính trung đoàn Sơn Thuỷ như Quân và Tuyển ở mặt trận Đường Chín đều nhớ trận đói ghê gớm cuối năm 1968. Cả đơn vị thiếu gạo ăn, đói dài đói dạc. Đói phải tìm môn thục nấu cháo để ăn. Ngứa rát họng. Nhưng không ăn thì chết. Nhiều người chết lả trên lối mòn về hậu cứ. Đói đến nỗi có người tự sát. Tình huống ấy thật không ngờ. Cả trung đội đã phải ăn cháo môn thục tới ngày thứ tám. Vài lon gạo phải ưu tiên nấu cháo cầm hơi cho người thật ốm yếu. Mai táng cho bạn chết vì đói xong lại mai táng cho người chết vì trúng phải mìn do máy bay Mỹ thả khắp rừng.
Trong một đêm mắc tăng võng bên bờ suối, đang nằm thiu thiu ngủ, Quân nghe tiếng Tuyển thì thầm vào tai: “Quân, trốn đi! Mình chuẩn bị kỹ rồi, cả mấy đứa nữa cùng trốn”. Quân bàng hoàng vì ý định quá bất ngờ, bảo với Tuyển rằng chết vinh hơn sống nhục, làm thế mất danh dự, ảnh hưởng tới truyền thống của đơn vị. Tuyển thở dài. Nghe tiếng thở dài trong đêm thật rõ, thật não lòng. Lặng đi khá lâu, giọng Tuyển như dao khứa: “Cuộc chiến còn ác liệt lắm. Sức người chịu đựng có hạn thôi, Quân không trốn thì đừng tố giác mình nhé! Cũng đừng làm tổn thương tình bạn. Sau này may mắn còn sống sẽ tìm nhau”. Tuyển ôm lấy Quân, tiếng nói đứt quãng trong tiếng gió rừng: “Mình biết làm như thế là hèn, nhưng mình còn mẹ già, con nhỏ”. Quân nói với Tuyển: “Mình can đấy, làm như vậy không nên”. Nước mắt Tuyển thấm vào vai Quân, khiến Quân cũng không cầm được nước mắt. Tuyển bảo: “Thôi, cứ biết thế nhé!”.
Cả đêm Quân trằn trọc, cứ nghĩ mông lung, sao bỗng chốc Tuyển lại có hành động lạ lùng vậy? Khuya lắm, Quân nghe rõ tiếng bước chân hướng về chỗ để mấy lon gạo. Hình như Tuyển đổ gạo vào bao ruột tượng. Rồi lại nghe tiếng trút gạo trả lại chỗ cũ. Mệt quá, Quân ngủ thiếp đi. Mãi tới khi sáng bạch, Đại đội trưởng lay gọi, hỏi Tuyển và mấy anh em đâu, Quân mới giật mình bừng dậy. Mấy chiếc võng buông màn như có người đang ngủ, nhưng lật ra chẳng còn ai. Tuyển cùng mấy người đào ngũ đã mang theo hai chiếc xoong và ít muối và mì chính. Gạo còn nguyên. Quân làm vẻ ngơ ngác như không biết, rồi theo lệnh Đại đội cũng đi lùng sục. Nhưng trong bụng Quân nghĩ rằng nhóm Tuyển đã đi xa lắm. Không để lại bất cứ dấu vết gì. Đại đội trưởng gặng hỏi: Đồng chí Quân có biết hiện tượng đồng chí Tuyển trốn không? Quân trả lời rằng không!
Mặt trận đánh giá cao tinh thần chiến đấu giữ chốt của đơn vị và yêu cầu nêu gương anh dũng điển hình, chọn người xứng đáng tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn mặt trận để đi dự Đại hội Quyết thắng toàn quân. Dù có chuyện không ai muốn xảy ra trong đơn vị, nhưng trận đánh giữ chốt có ý nghĩa quan trọng làm thay đổi tình thế chiến đấu của mặt trận, nên rất cần người đã trực tiếp làm nên chiến công, ra miền Bắc báo cáo. Người xứng đáng được đi báo cáo thành tích chiến đấu trong trận đánh ấy là Tuyển thì đã đào ngũ. Vì thế Quân là người thế chân, với danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn mặt trận, Dũng sĩ diệt Mỹ, được cử về tận Hà Nội dự Đại hội Quyết thắng và thăm hậu phương.
Khi được lên diễn đàn báo cáo về thành tích diệt Mỹ, Quân luôn như thấy hình ảnh Tuyển đôn đáo anh em trên trận địa giữ chốt. Bóng Tuyển chuyển động nhập nhoè trong ánh chớp đạn. Cả tiếng la hét chỉ huy. Nhiều lúc đợi địch thật gần chỉ cách dăm mét mới cho nổ súng, để địch bất ngờ không kịp trở tay. Những tên lính Mỹ cao lênh khênh đổ sập ngay trước muĩ súng của lính ta. Công lao chỉ huy trận đánh phải là Tuyển. Vậy mà vinh quang thì Quân đang được hưởng. Cả hội trường vỗ tay rầm rầm khi Quân kể lúc trận địa đồng loạt điểm hỏa mìn định hướng. Xác lính Mỹ chồng lên nhau.
Sau Đại hội Quyết thắng, Quân được bố trí đi nói chuyện chiến đấu. Bao địa phương, bao đơn vị huấn luyện lính mới chuẩn bị bổ sung cho chiến trường. Câu chuyện chiến đấu với lính Mỹ quá hấp dẫn đã khích lệ bao thanh niên xung phong đi bộ đội, bao đơn vị hăng hái ra chiến trường. Tất nhiên, những chuyện hy sinh gian khổ, những tình huống nghiệt ngã của chiến tranh không bao giờ Quân đề cập tới.
Ba năm sau, Quân được cấp trên cho về thăm nhà. Lúc này Quân đã là cán bộ chỉ huy cấp tiểu đoàn. Quân đã giành phần lớn thời gian để đi tìm Tuyển. Từ xa đã có thể nhận ra làng Thổ Sơn đóng gạch của Tuyển. Những lò gạch cũ đổ nát ngổn ngang gạch vụn. Vẫn còn thấy câu cổ động: “Ra đi mang nặng lời thề. Chưa hết giặc Mỹ chưa về quê hương” kẻ bằng vôi trắng đã loang lổ vì mưa nắng. Thời chiến không còn ai xây nhà, khu lò gạch bỏ hoang tàn. Hỏi thăm trẻ chăn trâu nhà Tuyển ở đâu? Chúng hỏi lại: có phải Tuyển đóng gạch đào ngũ không? Rồi chúng mới chỉ nhà. Một ngôi nhà ba gian gần sông vắng hoe. Không tiếng gà tiếng chó. Nhà hoang, cỏ lấp. Mấy chiếc rổ rách vứt chỏng chơ cạnh bếp gio than nguội lạnh. Đang loay hoay tìm người hỏi thăm thì gặp một bà già. Bà hỏi: anh tìm ai? Quân thưa đi tìm Tuyển. Bà già thở dài bảo, cám cảnh lắm bác ơi. Nhà này không còn ai ở nữa. Tan tác cả rồi.
Quân nghe bà già kể:
– Khổ lắm, năm kia ở trong nam về đến nhà, lúc đầu mọi người tưởng cậu Tuyển được về phép. Ai dè lại là đào ngũ. Cô vợ là xã đội trưởng dân quân làm ầm ỹ lên. Anh cam tâm đào ngũ, bôi gio trát trấu vào mặt tôi. Tôi còn uy tín đâu để làm việc. Anh có biết đang thực hiện khẩu hiệu tất cả cho tiền tuyến đánh thắng giặc Mỹ xâm lược không? Hèn hạ quá! Tôi còn nói ai được đây? Anh là giống người gì? Giống người gì? Bà mẹ Tuyển chỉ thốt lên được câu: nhục, nhục quá! Rồi ngã vật ra bất tỉnh. Tuyển kêu “trời đất ơi, tôi giết mẹ tôi rồi!”. Vợ Tuyển than thở “khổ thân tôi quá, biết làm sao bây giờ?”. Y sĩ xem bệnh bảo bà bị xốc đột ngột. Vỡ mạch máu não. Cấm khẩu luôn. Hai ngày sau thì qua đời.
Trong những ngày tang mẹ, xã yêu cầu Tuyển lên xã tập trung cải tạo lao động, cùng với mấy anh chàng đào ngũ khác xới cỏ cho uỷ ban. Rồi chị xã đội trưởng được giao trực tiếp đưa lính đào ngũ trả đơn vị thu dung đóng quân ở xã. Hàng ngày Tuyển phải tập hợp trước trụ sở uỷ ban, cùng với những người đào ngũ đồng thanh hô: “Ai cũng như tôi, lấy ai đi đánh Mỹ!”. Rồi cán bộ đơn vị thu dung bắt những người đào ngũ đeo biển bằng bìa các tông, có dòng chữ “Ai cũng như tôi thì mất nước” trước ngực, đi rong trong làng cho trẻ con rồng rắn bâu theo hò hét ê xì. Tuyển không dám ngẩng lên nhìn ai.
Bốn mươi chín ngày cho mẹ xong, cô xã đội trưởng dân quân bế con về nhà cha mẹ đẻ vì xấu hổ có chồng đào ngũ. Tuyển không chịu được nhục nhã đã bỏ làng đi đâu mất tăm mất dạng luôn từ đó…
Thắp hương mộ bà mẹ Tuyển xong, Quân hỏi thăm đường đến nhà vợ Tuyển. Cuộc gặp mặt với vợ và con Tuyển càng làm cho Quân xót thương thân phận bạn. Vợ Tuyển đang chuẩn bị đi họp xã, như miễn cưỡng tiếp Quân. Đứa con gái bốn tuổi ngây thơ ngồi trong lòng mẹ ngước đôi mắt tròn xoe nói với Quân: “bố cháu bị đào ngũ!”. Vợ Tuyển kể rằng xã được công nhận là xã anh hùng, quyết tâm không để bất cứ chuyện gì ảnh hưởng đến danh tiếng của xã. Việc anh Tuyển đào ngũ là một vết nhơ không thể tha thứ được, nên đã trả Tuyển về đơn vị thu dung quản lý. Quân nói: cách giải quyết như vậy quá căng cứng, xỉ nhục con người, đẩy Tuyển đến đường cùng. Sao lại xử sự với Tuyển quá đáng vậy? Tuyển có phải kẻ thù đâu? Vợ Tuyển bảo, vì phải chấp hành lệnh trên. Đối với Tuyển, chị không thể thiên vị người nhà được.
Vợ Tuyển nói với Quân, trước khi bỏ làng ra đi, Tuyển còn để lại mảnh giấy này. Chị lục trong mớ sổ sách một mảnh giấy pơ luya chữ viết nguệch ngoạc: “Trời ơi! Hận lắm! Nhục lắm! Đau đớn lắm! Ta phải đi khỏi làng thôi! ”
*
Nhớ hồi mới vào mặt trận, trung đoàn trưởng nói: ai vượt Trường Sơn vào chiến trường đều xứng đáng đề nghị nhà nước thưởng Huân chương. Câu nói tuy chỉ là động viên chiến sỹ, nhưng thực sự đánh giá đúng công trạng của những ai đã vượt Trường Sơn. Thế thì, tìm Tuyến ở đâu bây giờ? Khi làm cán bộ chuyên trách chính sách, Quân luôn nghĩ đến Tuyển. Làm sao để Tuyển được hưởng một chút chính sách sau chiến tranh, bù đắp những gì Tuyển đã cống hiến thời ở mặt trận. Nhưng mọi tìm kiếm đều vô vọng. Việc không biết Tuyển giờ sống chết ra sao cứ dằn vặt Quân mãi.
Giờ Quân đã về hưu, cấp hàm Đại tá. Huân chương đeo kín ngực. Mái tóc bạc bồng bềnh trong gió. Chỉ một nỗi chạnh buồn là chất độc da cam Mỹ đã làm cho vợ chồng Quân vô sinh. Nuôi được đứa con gái làm con nuôi thì đã lớn tuổi gả chồng. Công tác xa nên thỉnh thoảng mới đáo về thăm bố mẹ. Lắm lúc nhớ thời chiến tranh. Nhớ bạn trận mạc, Quân lại thập thững chống gậy đi tìm bạn chiến đấu xưa. Hình ảnh Tuyến lại hiện về ám ảnh. Nhiều đêm trằn trọc không ngủ được. Có lúc thẫn thờ như mất hồn, vợ Quân hỏi làm sao anh cứ thừ người ra thế? Quân nói muốn trở lại Thổ Sơn lần nữa xem sao. Đất nước yên hàn rồi, biết đâu Tuyển đã trở về quê.
Thổ Sơn giờ thật khác. Đường bê tông về tận xóm. Đồng lúa mướt xanh. Khu lò gạch thủ công xưa đã là nhà máy gạch hiện đại. Xuống bến xe Thổ Sơn, Quân vẫn nhớ đường về ngôi nhà Tuyển xưa. Trên nền ngôi nhà cũ gần mé sông đã mọc lên ngôi nhà xây mới. Không thể nhận ra vợ Tuyển. Cô xã đội trưởng ngày ấy đã thành bà già quắt queo. Vẫn một mình chống chọi với muôn mặt đời sống mấy chục năm trời. Dạc dày tàn tạ vì ân hận. Con gái cũng đã đi lấy chồng, giờ công tác trên huyện. Rót nước mời Quân, thỉnh thoảng vợ Tuyến lại lấy khăn thấm nước mắt. Hết chiến tranh, vợ Tuyển nhiều lần cất công đi tìm chồng. Hễ thấy ai có tin về Tuyển đang ở đâu là vợ Tuyến cùng với con gái dù tốn kém thế nào cũng khăn gói đi ngay. Quân đã được nghe vợ Tuyển kể những cơ cực phải gánh chịu sau ngày Tuyển bỏ làng, bỏ vợ con đi mất tích.
Bao tin đồn đoán, bao giả thiết quanh việc Tuyến bỏ làng mà đi biệt tích.
Người ta đồn, do uất quá Tuyển đã nhảy xuống sông Hồng tự vẫn. Tin đồn này không có căn cứ, bởi thời gian Tuyến bỏ nhà ra đi, dọc sông Hồng không thấy xác ai chết trôi.
Người ta suy diễn từ câu Tuyển nói khi đi khỏi làng là để “rửa hận, rửa nhục”. Chắc Tuyến đã trở lại chiến trường tìm đơn vị cũ, chẳng may đi giữa đường bị bom Mỹ, chết tan xác. Nhiều người lính ở mặt trận về cả quyết rằng đã gặp Tuyển trở lại chiến trường miền nam, chiến đấu anh dũng và đã hi sinh đâu đó ngoài mặt trận.
Lại cũng có người kể rằng: rời khỏi làng, Tuyển đã lên một tỉnh thượng du, mở lò đốt gạch, đang ăn nên làm ra thì xảy ra cuộc chiến tranh năm 1979. Lính Tàu đã phá nát khu lò gạch bởi chủ nhân của nó cùng một số người dân địa phương đã dựa vào lò gạch chống trả quyết liệt. Chúng bắt được chủ lò gạch rồi dùng lưỡi lê chọc mù đôi mắt anh ta. Với đôi mắt mù, anh phải lang thang xin ăn khắp Cao Bằng, Lạng Sơn. Vợ Tuyển cùng con gái đã lặn lội tàu xe tới tận nơi, nhưng chỉ là tin đồn.
Quân chỉ biết chia sẻ nỗi niềm với người vợ bạn, trải qua nhiều khuất khúc đắng cay và hối hận, đã không tiếc công đi tìm chồng. Chỉ hy vọng những ngày tới liệu có tìm được Tuyến trong chương trình “như chưa hề có cuộc chia ly”, hoặc sẽ tìm thấy tên anh trên tấm bia Liệt sỹ ở một nghĩa trang nào đó, dọc con đường Trường Sơn thời chống Mỹ cứu nước oanh liệt.
N B, 11/7/2009