Thế Lữ là nhà thơ duy nhất của phong trào Thơ mới được phong danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân và truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Nhà thơ duy nhất phong trào Thơ mới được phong danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân
Trong số các nhà thơ của phong trào Thơ mới, Thế Lữ là nhà thơ duy nhất được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân. Ông là thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn từ những ngày đầu thành lập (1934). Bài thơ Nhớ rừng của ông từng được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu của phong trào thơ mới và từng được chọn đem vào sách giáo khoa phổ thông để giảng dạy.
Nghệ sĩ Nhân dân, nhà thơ Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ sinh năm 1907 tại Hà Nội, mất năm 1989 tại TP.HCM. Ông là chồng của Nghệ sĩ Nhân dân Song Kim và cha của Nghệ sĩ Nhân dân, Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi.

Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng và tập truyện Vàng và máu (1934). Nhà phê bình văn học Hoài Thanh – Hoài Chân từng viết trong Thi nhân Việt Nam rằng: “Độ ấy Thơ mới vừa ra đời, Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam”.
Nghệ sĩ Nhân dân, nhà thơ Thế Lữ cũng từng viết truyện trinh thám, chịu ảnh hưởng sâu sắc của nhà văn trinh thám Mỹ Edgar Poe. Nhà văn Vũ Ngọc Phan đã không ngại ngần đánh giá: “Ông (Thế Lữ) tỏ ra là một tiểu thuyết gia có biệt tài”.
Không chỉ nổi danh trên văn đàn, Thế Lữ còn là một nhà báo tài hoa. Với bút danh Lê Ta, ông đã viết rất nhiều bài trên tờ “Phong hóa” hàng tuần. Khi phong trào Thơ mới có dấu hiệu suy tàn, Thế Lữ đã tìm đến với sân khấu.
Năm 1935, ông cùng với Lan Sơn, Lê Đại Thanh thành lập một nhóm kịch ở Hải Phòng, đương thời được gọi là nhóm kịch Thế Lữ, chủ yếu diễn các vở của Vi Huyền Đắc.
Năm 1936, một nhóm các văn nghệ sĩ bao gồm Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc, Phạm Văn Hạnh, Trần Bình Lộc, Nguyễn Đỗ Cung, Vũ Đình Liên… thành lập một ban kịch lấy tên Tinh hoa, với mục đích “khởi sắc kịch Việt Nam khả dĩ không thua kém kịch trường Pháp”. Đây là ban kịch nghiệp dư đầu tiên của Việt Nam ra đời với mục đích phụng sự nghệ thuật. Thế Lữ là đạo diễn kiêm diễn viên và người tổ chức của ban kịch.
Được một thời gian, ban kịch ngừng hoạt động, Thế Lữ tiếp tục gây dựng nhóm kịch Thế Lữ. Bên cạnh các thành viên cũ, còn có thêm các diễn viên mới như: Lê Thương, Linh Tâm, Huyền Thanh, Thanh Hương, Lan Bình, Song Kim, Minh Trâm… Nhóm kịch đã cho ra mắt một số vở diễn tại Nhà hát lớn Hải Phòng.
Thời đó, sân khấu như một dòng suối mát chảy vào tâm hồn Thế Lữ. Ông không chỉ làm tác giả kịch bản, đạo diễn mà còn làm diễn viên. Là diễn viên, Thế Lữ nhập vai nhân vật kỹ tính và cầu toàn đến mức: “Có khi chỉ sai sót một chi tiết nhỏ Thế Lữ đã vò đầu bứt tai, thậm chí thét lên rồi ngất xỉu trên sân khấu” (theo lời kể của nhà thơ Hoài Anh).
Lao động sân khấu đối với Thế Lữ lúc nào cũng giống một nghi lễ. Ông quan niệm, hành trình của một vở diễn giống như một cuộc đi đường rừng, luôn hấp dẫn và kỳ thú trước những biến chuyển xảy ra từng giây phút một, mạo hiểm và hồi hộp trước phản ứng của khán giả.
Thế Lữ đặc biệt chú ý đài từ của diễn viên mà ông gọi là “nghệ thuật thốt lời”. Khi hóa thân vào nhân vật, mỗi chữ người diễn viên nói ra phải giống như một hạt ngọc rơi xuống, thấu tận tai khán giả ngồi ở hàng ghế cuối cùng.
Với những cống hiến lớn lao cho nghệ thuật, Thế Lữ đã được nhận danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân đợt đầu tiên năm 1984. Ông cũng được Nhà nước truy tặng giải thưởng cao quý nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000.
Tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc (năm 1948) thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam, Thế Lữ được bầu làm Ủy viên thường vụ Ban chấp hành của Hội, kiêm trưởng Đoàn Sân khấu Việt Nam. Mùa hè năm 1948, nhân dịp Quân khu 10 tổ chức Đại hội tập huấn ở Vĩnh Trân, ông dàn dựng vở kịch Đề Thám xuất quân, được Thế Lữ viết lại từ vở Đề Thám của Lưu Quang Thuận theo sự gợi ý của Thanh Tịnh.
Năm 1949, Đoàn Sân khấu Việt Nam chuyển thành Đoàn kịch Chiến Thắng. Vợ chồng Nghệ sĩ Nhân dân Thế Lữ – Song Kim cùng các nghệ sĩ theo Đoàn kịch đi biểu diễn nhiều nơi tại Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Thái Nguyên… Ông tham gia đóng và dàn dựng hầu hết các vở của đoàn như: Đợi chờ, Giác ngộ, Anh Sơ đầu quân, Vết cũ, Vợ người thương binh, Ba người thợ… Tác giả của nhiều vở trong số này là Nguyễn Huy Tưởng.
Sau này, ông là tham gia Đoàn Kịch nói Trung ương (tiền thân của Nhà hát Kịch Việt Nam). Năm 1955, ông là Trưởng ban Nghiên cứu Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam. Thế Lữ còn là chỉ đạo nghệ thuật của Đoàn Ca múa Nhân dân Trung ương đi biểu diễn tại các nước: Liên Xô, Ba Lan, Trung Quốc.

Cuộc đời bôn ba của nhà thơ, Nghệ sĩ Nhân dân Thế Lữ
Nhà thơ Thế Lữ có một cuộc đời khá bôn ba khi từng sống ở nhiều vùng đất. Cha ông làm quản lý ga xe lửa tuyến đường sắt Lạng Sơn – Thanh Hóa. Khi mới vài tháng tuổi, Thế Lữ bị đưa rời khỏi mẹ, đem lên Lạng Sơn sống cùng bà nội và gia đình riêng của cha.
Xa mẹ từ nhỏ, mỗi năm có được gặp một đôi lần, nên cả tuổi thơ đến lúc lên 10 tuổi, Thế Lữ luôn nhớ thương người mẹ đẻ của mình. Sống ở xứ Lạng Sơn, núi rừng thiên nhiên nơi đây với những câu chuyện kinh dị ma quái mà ông được nghe từ nhỏ đã trở thành nguồn tư liệu, tạo cảm hứng cho các tác phẩm văn xuôi của ông sau này.
Năm 11 tuổi, sau khi anh trai mất, ông theo mẹ về Hải Phòng học trung học. Năm 23 tuổi, ông đỗ dự thính vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương nhưng chỉ theo học một năm thì nghỉ. Nhờ học ở mái trường này, ông chơi thân với những người bạn như Nguyễn Đỗ Cung, Trần Bình Lộc, Vũ Đình Liên, Ngô Bích San, Hoàng Lập Ngôn… Họ tổ chức một nhóm, chuyên thảo luận về văn học.
Thời gian này, ông bắt đầu viết văn, các tác phẩm đầu tay được gửi tới Nhà xuất bản Tân Dân, ký bút danh “Đào Thị Tô cùng viết với Thế Lữ” nhằm thu hút sự chú ý.
Nhà thơ Hoài Anh cho rằng, cuộc đời bôn ba đã khiến Thế Lữ trở thành một con người “tài hoa mà hóm hỉnh, lịch thiệp mà tự trọng, từng trải mà nhuần nhị, vừa quê vừa tỉnh, vừa rừng rú vừa thành thị…”.
Thế Lữ lập gia đình khi mới 17 tuổi với người vợ đầu tên thật Nguyễn Thị Khương, hơn ông hai tuổi. Vợ chồng ông có bốn người con, ba trai một gái, đặt tên lần lượt là: Nghi, Tâm, Học, Tùng. Năm 1954, vợ cùng ba người con sau di cư vào miền Nam và sau này mãi đến năm 1979 gia đình Thế Lữ mới đoàn tụ.
Người con cả tên Nguyễn Đình Nghi (1928-2001), từng tham gia kháng chiến cùng cha, được cha trực tiếp truyền nghề sân khấu. Nguyễn Đình Nghi ở lại miền Bắc, về sau trở thành một đạo diễn sân khấu nổi tiếng và được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân năm 1988. Con dâu cả của Thế Lữ, vợ của Nguyễn Đình Nghi – Nghệ sĩ Ưu tú Mỹ Dung cũng là một diễn viên kịch nói của Nhà hát Kịch Việt Nam.
Nghệ sĩ Nhân dân, nhà thơ Thế Lữ gặp người vợ thứ hai là Song Kim vào năm 1936 trong buổi ra mắt vở kịch Ghen của Đoàn Phú Tứ. Biết Song Kim yêu nghệ thuật, Thế Lữ đã cho người từ Hải Phòng lên Hà Đông mời bà xuống đóng một vai cô Mão trong vở Gái không chồng của Đoàn Phú Tứ do nhóm kịch của ông dàn dựng và biểu diễn tại Nhà hát lớn Hải Phòng.
Vài năm sau cuộc gặp gỡ đầu tiên, nghệ sĩ Song Kim và nhà thơ Thế Lữ nên duyên vợ chồng. Trước đó, Thế Lữ từng kết hôn một lần và có con trai là đạo diễn, Nghệ sĩ Nhân dân Nguyễn Đình Nghi. Khi kết hôn với Song Kim, dù không có con chung nhưng nữ nghệ sĩ vẫn góp phần quan trọng trong việc nuôi dạy con riêng của Thế Lữ.
Cuộc đời của Nghệ sĩ Nhân dân, nhà thơ Thế Lữ đúng như bài thơ Cây đàn muôn điệu của ông. Cuộc đời ông không chỉ muôn điệu thăng trầm, lắm bi kịch và nhiều vinh quang mà cả sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của ông cũng đa sắc như một bản nhạc. Nghệ thuật đã đưa ông đến quan điểm duy mỹ, duy cảm để mãi mãi là người tôn vinh cái đẹp, dù cuộc đời ông cũng trầm luân.
TUỆ LÂM/ TN
Theo nguồn: https://vanvn.vn/nha-tho-duy-nhat-phong-trao-tho-moi-duoc-phong-nghe-si-nhan-dan-vo-con-deu-la-nghe-si-nhan-dan/