Dịch văn học trong hành trình quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam sau 1975

Bảo tàng Văn học Việt Nam trân trọng giới thiệu bài tham luận của nhà phê bình Hoài Nam tại Hội nghị Lý luận phê bình Văn học lần thứ V: 

  1. Dịch văn học và bước đầu của “dịch ngược” trong văn học Việt Nam

Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống trong tất cả sự toàn vẹn, đa dạng của nó”. Đây là chân lý ngàn đời bất biến, cho dẫu, ở những khoảng thời gian nào đó, trong những không gian văn hóa xã hội hoặc những trào lưu lý thuyết nào đó, người ta có thể giảm nhẹ hoặc làm mờ đi chức năng “phản ánh hiện thực cuộc sống” của văn học – để nhấn mạnh hoặc khẳng định tính chủ động, sự tự do thể hiện thế giới tinh thần của chủ thể sáng tạo văn chương, tức nhà văn – thì vẫn không sao bác bỏ được một thực tế là, bằng cách này hay cách khác, ở phương diện này hoặc phương diện kia, cuộc sống vẫn cứ đi vào các tác phẩm văn chương và nói với người đọc chúng ta những điều gì đó về hiện thực mà chúng ta đã và đang góp phần hình thành nên nó, đã và đang trở thành một phần của nó. Hiện thực nào? Hiện thực của đất nước và hiện thực của tâm hồn con người. Ở đây, trong khuôn khổ vấn đề nghị sự, chúng ta nhấn mạnh vào hình ảnh đất nước và con người Việt Nam.

Hình ảnh đất nước và con người Việt Nam trong các tác phẩm văn học Việt Nam tất nhiên là thân thuộc với người đọc Việt Nam. Thân thuộc, nhưng không gây nhàm chán, đặc biệt nếu tác phẩm văn học là sản phẩm nghệ thuật ngôn từ của những nhà văn giàu tri thức văn hóa, vốn sống, năng lực sáng tạo và tình yêu quê hương đất nước, yêu cuộc sống, yêu con người. Khi đó, cái hiện thực “thô” của đất nước và con người Việt Nam – trong chiến tranh, trong lao động sản xuất và trong sinh hoạt thường nhật – sẽ được lọc qua nhận thức, tình cảm và ý hướng kiến tạo của các nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, để xuất hiện trong tác phẩm với những đường nét mới, hình ảnh mới, thậm chí nhiều khi có thể gây bất ngờ thú vị bởi sự mới mẻ của chúng. Người đọc nhận ra những điều quen thuộc, và nhận ra cả những điều rất khác về đất nước, về cuộc sống xung quanh mình và rộng hơn, về thời mà mình đang sống, với ánh sáng và bóng tối, với hạnh phúc và đau khổ, với những cái tốt và với cả những cái xấu, những điều còn dở dang, chưa hoàn thiện.

Tuy nhiên, trong mục tiêu chiến lược là “quảng bá” – phải nhấn mạnh từ này – “hình ảnh đất nước, con người Việt Nam”, thì đối tượng mà nền văn học của chúng ta cần hướng đến, một cách mạnh mẽ nhất, không phải độc giả quốc nội, mà là độc giả thuộc các nền văn học dân tộc khác, các ngôn ngữ/ chữ viết khác nằm ngoài biên giới quốc gia hình chữ S này. Từ xưa đến nay, nhiều triết gia, nhà văn hóa và nhà văn nức tiếng Đông Tây đã khẳng định chức năng “nhịp cầu thông hiểu” của văn học, theo nghĩa: với văn học và bằng văn học, những khoảng cách trong sự hiểu biết về nhau giữa các vùng địa lý, các quốc gia dân tộc khác nhau trên toàn thế giới sẽ ngày càng được thu hẹp lại, thậm chí có thể bị san lấp. Không nên đặt vấn đề ở đây về một “nền văn học thế giới” hay một “tiến trình văn học thế giới” như cách mà Goethe, nhà thơ vĩ đại người Đức đã hình dung, mà là thông qua các tác phẩm văn học – với chức năng “phản ánh hiện thực cuộc sống” như đã nêu trên – người đọc ở đất nước này cũng có thể có những hình dung và sự thấu hiểu nhất định về các giai đoạn lịch sử và cuộc sống trong hiện tại của con người ở những đất nước khác, có khi cách xa nhau hàng ngàn vạn dặm. Hiểu, thì dễ thông cảm, dễ hợp tác và dễ đẩy được sự hợp tác đến những kết quả như mong đợi. Xét cho cùng thì đó chính là điều tối quan trọng đối với mỗi quốc gia dân tộc trong một thế giới toàn cầu hóa, hướng đến hợp tác quốc tế để phát triển bền vững như hiện nay. Lẽ dĩ nhiên, người ta cũng có thể đặt vấn đề mang tính phản biện rằng: để có sự hiểu biết về một đất nước khác và con người ở đó, thì văn học không phải con đường duy nhất. Người ta có thể đọc các công trình nghiên cứu và các báo cáo, theo dõi báo chí và các kênh truyền hình hoặc mạng xã hội v.v… là đủ để biết những gì cần biết. Quả đúng là như vậy, nhưng với đặc thù của phản ánh văn học, như đã nói, sự thông hiểu không chỉ nằm ở thông tin bề mặt, mà nó còn nằm và nằm chủ yếu ở tình cảm, cảm xúc, nhịp đập của trái tim người sáng tạo trước những số phận con người và những biến chuyển lớn nhỏ của đất nước. Đó mới thực là điều quan trọng mà người đọc văn học ở những đất nước khác muốn biết và cần biết về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.

Để đạt được sự thông hiểu ấy, buộc phải nói đến hoạt động dịch văn học và sản phẩm của nó: các tác phẩm văn học dịch. Không phải là dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, mà là “dịch ngược”, tức dịch các tác phẩm văn chương Việt Nam từ tiếng Việt sang các thứ tiếng, các ngôn ngữ/ chữ viết nước ngoài. Xét ở phương diện lịch sử vấn đề, hoạt động “dịch ngược” này ở văn học Việt Nam là khá muộn so với nhiều nền văn học trên thế giới, và có lẽ nó được bắt đầu bằng việc dịch một danh tác của văn học Việt Nam trung đại: tác phẩm “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du. Điều đáng chú ý là, nói riêng trường hợp “Truyện Kiều”, đây là một quá trình liên tục, xuyên suốt kể từ trước năm 1945 cho đến tận bây giờ. Trước năm 1945 chúng ta đã có các bản dịch Kiều sang tiếng Pháp của các dịch giả như Paulus Của, Nguyễn Văn Vĩnh…, sau năm 1945 chúng ta có bản Kiều được dịch sang tiếng Pháp (được đánh giá là tốt nhất) của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (xuất bản năm 1965, kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du), rồi nhà nghiên cứu văn học, PGS, TS Trương Đăng Dung dịch Kiều sang tiếng Hungary vào những năm 1980, và vài năm gần đây là các bản dịch Kiều sang Anh ngữ của các dịch giả Nguyễn Bình và Dương Tường. Đó là nói việc người Việt Nam dịch “Truyện Kiều” sang các ngôn ngữ/ chữ viết nước ngoài, một cách chủ động – câu chuyện này còn dài – còn về tổng quan của việc dịch Kiều, có thể căn cứ vào hội thảo “Nguyễn Du và những vấn đề lý luận văn học nghệ thuật trung đại Việt Nam” do Trung tâm nghiên cứu Quốc học tổ chức ngày 24 tháng 10 năm 2015. Ở hội thảo này, dịch giả Nguyễn Minh Hoàng cho biết “Truyện Kiều” đã được dịch ra 16 thứ tiếng, từ những thứ tiếng phổ biến như Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc… đến những thứ tiếng mà chúng ta không bao giờ ngờ đến: Hy Lạp, Mông Cổ, Arab…, và số lượng bản dịch lên đến 48 bản. Tuy nhiên theo ghi nhận của nhà nghiên cứu văn học, PGS, TS Đoàn Lê Giang thì “Truyện Kiều” đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng với trên 60 bản dịch khác nhau. Ông còn cho biết thêm có cả thảy năm bản dịch Kiều tiếng Nhật đã được phát hành, sớm nhất là bản của dịch giả Komatsu Kiyoshi (năm 1942), mới nhất là bản của dịch giả Kuroda Yoshiko (năm 2005).

Lấy ra một ví dụ như vậy là để thấy vài khía cạnh trong sự quan tâm của các dịch giả nước ngoài đối với văn học Việt Nam. Họ quan tâm vì những giá trị nghệ thuật to lớn, những giá trị nhân văn tốt đẹp nằm ở bản thân tác phẩm “Truyện Kiều”. Họ yêu mến những giá trị ấy và mong muốn chúng được lan tỏa trong đời sống tinh thần của nhân dân nước mình thông qua việc chuyển ngữ từ tiếng Việt. Nhưng vẫn còn một lý do nữa: ấy là nỗ lực tìm hiểu tại sao nhân dân Việt Nam lại yêu thích “Truyện Kiều” đến như vậy, bất chấp quãng cách thời gian giữa câu chuyện được kể lại với bối cảnh văn hóa xã hội hiện tại của người đọc/ tiếp nhận tác phẩm? Trả lời được câu hỏi này, có thể nói, các dịch giả nước ngoài và những người đọc nước ngoài đã giải mã được một bí mật trong thế giới tình cảm và đời sống tâm hồn của người Việt Nam.

 

  1. Những bước tiếp theo, thực tế của việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam bằng văn học

Sau đó, kể từ năm 1954, khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập (năm 1945) và đã giành chiến thắng vang dội trước quân đội Pháp trong cuộc kháng chiến chín năm đầy gian khổ (1945 – 1954), thì việc dịch các tác phẩm văn học Việt Nam từ tiếng Việt sang các thứ tiếng, các ngôn ngữ/ chữ viết nước ngoài vẫn tiếp tục được thực hiện, song trong những giai đoạn khác nhau lại kèm theo những đặc điểm cũng rất khác nhau. Có thể nhận thấy khá rõ hai giai đoạn: từ 1954 đến trước Đổi mới (1986), và từ Đổi mới đến nay. Ở giai đoạn thứ nhất, trong bối cảnh chiến tranh (cuộc kháng chiến chống Mỹ và đi đến thống nhất đất nước) và bối cảnh rộng hơn là chiến tranh lạnh trên phạm vi toàn thế giới, thì việc dịch văn học Việt Nam ra các thứ tiếng nước ngoài chủ yếu do các dịch giả thuộc những nước trong khối Xã hội chủ nghĩa thực hiện: Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Bulgary, Hungary, Triều Tiên, Cuba v.v… Đối tượng dịch của họ chủ yếu là các tác giả, tác phẩm tiêu biểu thuộc dòng văn học cách mạng, chiến tranh và yêu nước trong văn học Việt Nam hiện đại: Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lâm Thị Mỹ Dạ, Trần Đăng Khoa v.v… Tính mục đích ý thức hệ và sự tương trợ quốc tế ở đây khá rõ ràng: họ, các dịch giả văn học nước ngoài, hết lòng ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam, và do đó, qua các bản dịch văn học, họ mong muốn người đọc nước mình cũng như người đọc toàn thế giới hiểu biết thêm về một nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình nhưng anh hùng và tràn đầy tinh thần cách mạng, một đất nước Việt Nam luôn kiên cường trên tuyến đầu chống lại chủ nghĩa đế quốc để giành lấy độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia. Hình ảnh đất nước và con người Việt Nam trong chiến tranh, một phần, đã được quảng bá như thế, qua những nỗ lực dịch thuật của các dịch giả văn học người nước ngoài.

Ở giai đoạn thứ hai, từ Đổi mới đến nay, bên cạnh việc tiếp tục dịch và giới thiệu các tác phẩm thuộc dòng văn học cách mạng, chiến tranh và yêu nước của văn học Việt Nam, các dịch giả nước ngoài đã có sự tập trung lớn vào nền văn học đương đại, tức là nền văn học của một đất nước Việt Nam hậu chiến, một đất nước Việt Nam đã chuyển từ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập mạnh mẽ với thế giới bên ngoài. Đối tượng dịch của họ đương nhiên là các tác giả, tác phẩm tiêu biểu, những nhân tố cơ bản nhất làm hình thành diện mạo của văn học Việt Nam thời đổi mới và hậu đổi mới. Người ta có thể thấy trong danh sách tác phẩm văn học được chuyển ngữ từ tiếng Việt sang các thứ tiếng nước ngoài ở giai đoạn này là những tác phẩm cuối đời của Nguyễn Minh Châu, là các tiểu thuyết “Thời xa vắng” của Lê Lựu, “Bến không chồng” của Dương Hướng, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, là các truyện ngắn và thơ của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Quang Thiều, Lê Minh Khuê, Dạ Ngân, Hồ Anh Thái, Võ Thị Hảo, Ý Nhi, Dư Thị Hoàn, Y Ban, Nguyễn Quang Lập, Sương Nguyệt Minh v.v… Và trẻ nhất trong số các tác giả được dịch này, tính cho đến nay, là những nhà văn sinh ra vào khoảng giữa thập niên 1970, như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp… Các dịch giả văn học nước ngoài quan tâm đến điều gì ở những tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam đương đại? Không khó để có câu trả lời: họ muốn biết về đất nước Việt Nam thời hậu chiến và đổi mới, về cuộc sống của con người Việt Nam khi chuyển dịch từ trạng thái chiến tranh sang trạng thái đời thường không tiếng súng; về những vui buồn, được mất, hạnh phúc và đau khổ của con người trong bối cảnh một xã hội đang vận hành theo các quy luật kinh tế thị trường, công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh mẽ, trong khi những vấn đề di chứng chiến tranh và hòa hợp, hòa giải dân tộc vẫn chưa thực sự chấm dứt, và các vấn đề về toàn cầu hóa, yêu cầu giữ gìn bản sắc văn hóa, sự kết nối giữa truyền thống và hiện đại thì ngày càng được đặt ra và nổi lên một cách rất bức thiết.

Cho đến lúc này, như đã trình bày ở trên, về việc “quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam” thông qua hoạt động dịch các tác phẩm văn học Việt Nam từ tiếng Việt sang các thứ tiếng, các ngôn ngữ/ chữ viết nước ngoài, chủ yếu là do các dịch giả văn học người nước ngoài thực hiện. Họ có thể làm công việc này một cách độc lập, hoặc làm dưới sự bảo trợ của các chính phủ, các trường đại học, các trung tâm văn hóa quốc tế (ví dụ như Trung tâm William Joiner mà cựu chiến binh, giáo sư, nhà thơ người Mỹ Kevin Bowen từng làm giám đốc, chuyên nghiên cứu hậu quả của chiến tranh thông qua văn học). Họ làm vì tình cảm yêu mến đất nước và con người Việt Nam, làm với sự nỗ lực bắc những nhịp cầu thông hiểu giữa nhân dân toàn thế giới với nhân dân Việt Nam. Dẫu sao đi chăng nữa, đó là những nỗ lực từ một phía. Còn ở phía kia, phía Việt Nam, không khó để quan sát thấy rằng những nỗ lực như vậy là khá yếu. Chúng ta gần như thụ động trong việc dịch và giới thiệu các tác phẩm văn học của Việt Nam chúng ta với người đọc thế giới. Hãn hữu lắm mới có trường hợp tác giả văn học Việt Nam tự dịch tác phẩm của mình hoặc của các đồng nghiệp trong nước từ tiếng Việt ra các thứ tiếng nước ngoài. (Nói thêm: nền văn học của chúng ta có không ít dịch giả, nhưng đa phần là “dịch xuôi”, những người có khả năng “dịch ngược” thật ra không nhiều). Cũng tương tự như vậy, hãn hữu lắm mới có trường hợp tác giả văn học Việt Nam, bằng những quan hệ hoàn toàn mang tính chất cá nhân với giới hoạt động văn học ở nước ngoài, có thể “môi giới” để các dịch giả văn học nước ngoài dịch các tác phẩm của văn học trong nước. Nếu coi đây là “xuất khẩu văn chương”, thì gọi nó là xuất khẩu văn chương theo con đường “tiểu ngạch” hẳn cũng không xa sự thực là mấy.

Nói gọn lại, việc “quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam” thông qua văn học – nói chính xác: thông qua hoạt động dịch văn học – cần một con đường chính ngạch. Nghĩa là nó phải nằm trong, trở thành một phần cơ bản trong chiến lược phát triển văn hóa của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phải xây dựng và phát triển được một tổ chức “dịch ngược” văn học Việt Nam tương đương như “Viện dịch thuật văn học thế giới” của Hàn Quốc: họ chuyên chú vào việc dịch các tác phẩm xuất sắc, đáng chú ý của văn học Hàn Quốc ra các thứ tiếng nước ngoài, nhất là các ngôn ngữ/ chữ viết vào loại “mạnh” trên thế giới. Nếu chúng ta xây dựng và phát triển được một cơ quan/ tổ chức “dịch ngược” như vậy – dịch giả có thể là người Việt Nam hoặc người nước ngoài, điều đó không quan trọng lắm – thì việc dịch và giới thiệu các giá trị của văn học Việt Nam – từ trung đại đến hiện đại và đương đại – sẽ thực sự là hoạt động mang tính chủ động cao. Và càng chủ động bao nhiêu, càng đạt hiệu quả cao bấy nhiêu trong việc “quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam” bằng văn học.