Đổi mới hệ thống khái niệm lí luận văn học ở Việt Nam thời kì đổi mới và hội nhập

Bảo tàng Văn học Việt Nam trân trọng giới thiệu bài tham luận của PGS.TS Cao Thị Hồng tại Hội nghị Lý luận phê bình Văn học lần thứ V:

  1. Nói đến lý luận là nói đến một hệ thống tư duy bằng các khái niệm, các phạm trù văn học. Hệ thống khái niệm lý luận văn học được thể hiện bằng siêu ngôn ngữ đặc thù – ngôn ngữ suy lý, nó là công cụ giúp con người giải mã các hiện tượng văn học xuất hiện trong đời sống, đánh giá tác động của văn học với hoạt động của con người, khám phá bản chất của sự sáng tạo nghệ thuật.

Trước đổi mới, lý luận văn học chủ yếu quan tâm đến các khái niệm lý thuyết từ mỹ học Mác – xít, rõ nhất là quan điểm phản ánh luận, xét văn học trong mối quan hệ với việc phản ánh hiện thực được quy chiếu từ cuộc sống một cách giản đơn, còn tính đặc thù của văn học và chủ thể sáng tạo của nó chưa được quan tâm và đánh giá đúng mức. Từ đổi mới đến nay, lý luận văn học tập trung nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề bản thể văn học. Các nhà nghiên cứu đã có sự thống nhất trong việc trả lời cho câu hỏi mang tính bất biến: Văn học là gì? Từ đó, trả lại cho văn học những gì thuộc về căn tính của văn học, một lĩnh vực hoạt động tinh thần tinh tế của con người mang đậm chất nhân văn. Đi sâu lý giải các vấn đề thuộc bản thể văn học, lý luận văn học thời kỳ đổi mới đã thay đổi hệ thống khái niệm lý luận văn học truyền thống, làm mới hệ thống khái niệm làm tiền đề quan trọng cho tư duy lý luận văn học nước nhà nhanh chóng bước vào quỹ đạo hiện đại, tiến bộ, phát triển.

  1. Khảo sát các công trình nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, các giáo trình lý luận văn học biên soạn trong thời kỳ đổi mới, chúng tôi nhận thấy hàng loạt các khái niệm như đề tài, chủ đề, hình tượng, tính cách điển hình, tính đảng, tính nhân dân,… không còn được sử dụng như trước, thậm chí có những khái niệm không còn được nhắc đến. Thay vào đó là sự mở rộng ý nghĩa các khái niệmxuất hiện các khái niệm mới như: cấu trúc ngôn từ, cảm hứng, không gian, thời gian nghệ thuật, điểm nhìn trần thuật, quan niệm nghệ thuật về con người, tính đa thanh, phức điệu, tính đối thoại, chủ thể, thế sự, bản năng tính dục, vô thức, tâm linh, kỳ ảo, liên văn bản, nghịch dị, lạ hóa, diễn ngôn, nữ quyền, giọng điệu…. Hệ thống khái niệm đa dạng, phong phú nhiều màu sắc đã, đang và sẽ tiếp tục được bổ sung theo tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà nói chung và lý luận văn học nói riêng. Đó là kết quả của quá trình nghiên cứu, chọn lọc tiếp thu những tinh hoa lý luận văn học nhân loại, đặc biệt là lý luận văn học phương Tây.

Từ đó lý luận đổi mới đi sâu nghiên cứu đặc trưng của văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ, bổ sung thêm nội dung quan niệm về chức năng của văn học, quan niệm về tác phẩm văn học, nội dung và hình thức văn học, tính quy luật và sự không ổn định của tâm lý tiếp nhận văn học, lý luận về phê bình văn học… đó là những phương diện hết sức quan trọng nhưng một thời gian dài đã không được quan tâm thích đáng hoặc chưa được đề cập đến trong hệ thống khái niệm của lý luận văn học nước nhà.

2.1. Mở rộng nội hàm khái niệm đặc trưng của văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ

Trước đây, khi nói đến đặc trưng của văn học, lý luận văn học chỉ nhấn mạnh tới tính hình tượng và tư duy hình tượng mà không chú ý đến nội dung đặc thù của văn học. Tính hình tượng và tư duy hình tượng được coi là “đặc trưng chủ yếu của văn học trong cách thức phản ánh cuộc sống” (1) và: “vấn đề viết về người thật việc thật là một trong những biện pháp chính để xây dựng hình tượng, để phản ánh cuộc sống theo cách của văn học.” (2) Ngược lại, lý luận thời kỳ đổi mới quan niệm tính hình tượng, tính truyền cảm là những đặc trưng chung của nghệ thuật với tư cách là một loại hình thái ý thức xã hội. Nếu chỉ quan niệm như trước đây là chưa đủ, bởi vì văn học không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một loại hình nghệ thuật. Do đó, cần phải khám phá đặc trưng của văn học trong sự đối sánh với các loại hình nghệ thuật khác. Mà rõ nhất là về chất liệu đặc trưng của mỗi loại hình nghệ thuật.

Lý luận văn học đổi mới cho rằng đặc trưng của văn học là ngôn từ nghệ thuật thể hiện ở bốn phương diện cơ bản: Thứ nhất, đó là tính chất phi vật thể. Nhờ tính phi vật thể của chất liệu ngôn ngữ nên văn học có thể nắm bắt được tất cả những cái mơ hồ, vô hình để xây dựng nên những hình tượng văn học có giá trị biểu cảm và biểu đạt cao giúp con người khám phá những chiều sâu của thế giới tâm tưởng mà các loại hình nghệ thuật khác không thể hiện được. Chính tính chất phi vật thể này của hình tượng văn học đã khiến nó trở thành phương tiện vạn năng để chiếm lĩnh hiện thực. Thứ hai, ngôn ngữ văn học không bị hạn chế về không gian và thời gian. Nhà văn có thể miêu tả thời gian từ nhiều thời điểm, nhiều chiều, nhiều tầng lớp,… Thứ ba, khả năng phản ánh ngôn ngữ, tư tưởng của nghệ thuật ngôn từ và thứ tư là tính vạn năng và tính phổ thông của văn học.

Lý luận văn học đổi mới còn so sánh làm rõ sự khác nhau giữa ngôn từ nghệ thuật với ngôn từ khoa học, ngôn từ thực dụng: “Chất liệu của văn học là ngôn ngữ, hay nói sát đúng hơn là ngôn từ đều không phải là bản thân vật chất, mà chỉ là ký hiệu của nó mà thôi (…). Ngôn từ (parole) là ngôn ngữ trong vận động, tức là lời nói được thể hiện qua những chủ thể phát ngôn khác nhau (…). Nhưng nói văn học là nghệ thuật của ngôn từ, song không phải là những ngôn từ logic chỉ tác động chủ yếu vào lý tính như trong chính trị, triết học…, mà phải là ngôn từ giàu hình ảnh và tình cảm, tác động chủ yếu vào tâm hồn con người”. (3)

Ngoài ra các đặc điểm khác của ngôn từ nghệ thuật được các nhà nghiên cứu đặt trong sự so sánh với ngôn từ thực dụng: “Lời văn nghệ thuật là hư cấu, lời văn mang tính chất hình tượng của lời nói, chứ không phải là lời trực tiếp của tác giả như trong ngôn từ thực dụng” (4). Tính chất hư cấu của ngôn từ nghệ thuật khiến mọi vật trên thế giới đều được thể hiện cảm xúc và cất lên tiếng nói của mình, khả năng kết hợp hòa trộn nhiều giọng điệu tạo nên tính phức điệu đa thanh của văn bản nghệ thuật.

Và cũng từ đây các nhà lý luận đã phát hiện ra thủ pháp để ngôn từ văn học gây chú ý đến bản thân nó đó chính là phép lạ hóa. Với phép lạ hóa, nghệ thuật được trình bày trong một thứ ánh sáng mới không quen thuộc. Tiếp thu tinh thần của phép lạ hóa trong lý luận phương Tây hiện đại, lý luận văn học Việt Nam đổi mới đã lý giải rõ hơn thủ pháp lạ hóa của ngôn từ văn học. Sở dĩ nó có tính chất gợi cảm gây ấn tượng là bởi nó phá vỡ sự phản ứng theo thói quen của con người đối với ngôn từ thực dụng hàng ngày. Tuy nhiên, các nhà lý luận cũng lưu ý: “Lạ hóa không có nghĩa là lúc nào cũng làm biến dạng ngôn từ tự nhiên, giản dị. Bản thân ngôn từ tự nhiên, giản dị cũng là một vẻ đẹp và một cách biểu hiện nghệ thuật cao cường” (5)

Như vậy thời kỳ đổi mới, vấn đề đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật đã được lý luận văn học bàn đến một cách khoa học, toàn diện hơn. Ngôn từ nghệ thuật vừa được phân biệt với các phương tiện biểu hiện của các nghệ thuật khác, vừa được phân biệt với ngôn từ khoa học và ngôn từ thực dụng. Văn học ra đời như một hình thức ngôn từ đặc thù nhằm biểu hiện tư tưởng, tình cảm và sự thể nghiệm cuộc sống của con người. Ngôn từ nghệ thuật được sáng tạo nhằm mục đích nghệ thuật, không có ngôn từ nghệ thuật sẽ không có chất liệu để xây dựng hình tượng nghệ thuật. Và chính vì sử dụng chất liệu ngôn từ như trên nên hình tượng văn học có những đặc điểm đặc thù mà không loại hình nào có được.

Song, có một điểm đáng lưu ý là mặc dù tiếp thu điểm khả thủ trong cái nhìn khám phá về bản chất ngôn ngữ của lý thuyết văn học phương Tây, nhưng các nhà lý luận Việt Nam đã không thụ động và đóng khung trong cái nhìn phiến diện. Trần Đình Sử tranh biện: “Các lý thuyết cấu trúc, ký hiệu và hình thức chủ nghĩa chỉ chú ý tới văn bản ngôn từ mà hầu như bỏ qua vấn đề hình tượng. Đối với họ, bản thể của tác phẩm nghệ thuật chỉ là văn bản ngôn từ và các quy luật tổ chức (…). Tuy nhiên, chỉ nhìn thấy văn bản mà không thấy hình tượng nghệ thuật thì không thể hiểu được nghệ thuật. Một văn bản ngôn từ mà không xây dựng được hình tượng nghệ thuật ở bên trong là một văn bản trống rỗng và không trở thành tác phẩm văn học… hơn nữa, văn bản tác phẩm văn học lại được xây dựng theo các nguyên tắc của hình tượng.” (6) Ông cũng cho rằng trước đây khi nói tới hình tượng nghệ thuật người ta hay nói tới hình tượng nhân vật, hình tượng phong cảnh… thực ra đó chỉ là yếu tố của hình tượng nghệ thuật trong một số loại hình nghệ thuật. Đã đến lúc phải thẩm xét lại những định nghĩa về hình tượng nghệ thuật chung chung thuộc phạm trù triết học và nghiêng nhiều về phương diện nhận thức luận (coi hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất của cái cá biệt và cái chung, cái cụ thể và cái khái quát, chủ quan và khách quan)… Theo Trần Đình Sử, ngày nay trên quan điểm văn hóa học người ta hiểu hình tượng nghệ thuật là nền tảng của ý thức nghệ thuật, là phạm vi hoạt động thẩm mỹ của con người. Hình tượng nghệ thuật là cái tính chất làm cho tác phẩm trở thành tác phẩm nghệ thuật. “Chất văn”, “tính văn học” mà các nhà cấu trúc đề ra như là phẩm chất thiết yếu của tác phẩm văn học, chỉ khi nào gắn với tính hình tượng nghệ thuật thì mới thể hiện đặc trưng của văn học.

Ý kiến của Trần Đình Sử cho thấy các nhà lý luận Việt Nam đã coi hình tượng nghệ thuật là sự tồn tại của bản thể nghệ thuật, văn học. Hình tượng nghệ thuật là tiêu chí sáng tạo của người nghệ sĩ, làm cho văn bản ngôn từ trở thành văn bản nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật luôn sống động, đa dạng như đời sống, nó luôn biến đổi, khúc xạ, do đó tư duy lý luận tiến bộ cần xác nhận nó và giải phóng nó khỏi những quan niệm mang tính công thức giản đơn, mở rộng thêm nội hàm, trả lại cho khái niệm này sự phong phú và năng động vốn có. Trên cơ sở mở rộng tư duy nhận thức như trên, lý luận văn học đổi mới đã khẳng định đặc trưng của hình tượng văn học – một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt “được sáng tạo bởi chất liệu ngôn từ, nó có tính gián tiếp trong việc gợi ra hình tượng, nhưng lại trực tiếp biểu hiện sức cảm thụ của chủ thể, nó có tính khái quát cao do thể hiện được các đặc trưng mang bản chất và thể hiện quan niệm của nhà văn.” (7)

2.2. Về chức năng văn học

Chức năng văn học là vai trò, tác dụng của văn học đối với đời sống xã hội, là ý nghĩa của nó đối với đời sống con người, là lý do tồn tại của văn học. Lý luận văn học trước đây thường đề cập đến ba chức năng: nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ. Đến đổi mới, các nhà lý luận văn học đã nhận thấy văn học không chỉ bó hẹp trong ba chức năng trên mà còn có nhiều chức năng khác. Khi bàn về chức năng của văn học, các nhà nghiên cứu đã nhìn lại toàn bộ lịch sử lý luận văn học từ xưa đến nay, từ Tây sang Đông để soi tỏ nhiều quan điểm phong phú bổ ích khác nhau về chức năng của văn học. Ngoài các chức năng vốn đã được thừa nhận, lý luận văn học thời đổi mới cho rằng văn học còn có chức năng dự báo, chức năng giao tiếp, chức năng giải trí, chức năng khêu gợi tư tưởng, tình cảm, nâng đỡ nhân cách con người phát triển. Như vậy ở khái niệm chức năng văn học, một mặt lý luận bổ sung, đào sâu, hiểu đúng hơn về nội hàm những chức năng đã được thừa nhận, mặt khác vươn tới những nhận thức mới về nhiều phương diện của chức năng văn học.

Trước đây, khi bàn về chức năng giáo dục, vấn đề giáo dục đạo đức, chính trị, tư tưởng, lập trường giai cấp, thường được đề cao: “Chức năng cải tạo cũng là chức năng đấu tranh, chức năng chiến đấu và chức năng tạo dựng của văn học. Tính chất “công cụ”, “vũ khí” của văn học biểu hiện ở chỗ này (…). Nói đến chức năng cải tạo của văn học là nói đến việc nhà văn dùng tác phẩm để truyền đạt lý tưởng sống của bản thân mình, mà cũng là lý tưởng sống của một giai cấp, một lực lượng, một thời đại mà mình là tay, chân, tai, mắt.” (8) Đến thời kỳ đổi mới chức năng giáo dục được nhấn mạnh ở khả năng “cảm hóa”, tự giáo dục của văn học. Hiệu quả của tác phẩm văn học đến với con người một cách tự nhiên. Tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng nhằm khơi dậy cuộc đấu tranh, sự vật lộn bên trong ở mỗi người khi tiếp nhận nghệ thuật. “Nó là tấm gương để con người tự soi mình, tự đối chiếu và tự phán xét về người khác, cũng như về chính bản thân mình. Bằng cách đó, văn học chuyển quá trình giáo dục thành tự giáo dục.” (9) Như vậy lý luận văn học đổi mới thừa nhận tác động của văn học đối với con người là mạnh mẽ, nhưng lâu dài, chìm sâu vào nỗi trăn trở của nhân cách. Sự giáo dục bằng nghệ thuật không có tính chất cưỡng bức mà là một hoạt động tự giác, văn học gieo vào lòng người sự cảm nhận về cái tốt, ý thức về cái xấu, nỗi khát khao hướng thiện, tất cả nằm trong thế khả năng chứ không phải sự tác động tức thì.

Chức năng thẩm mỹ được xem xét ở hai cấp độ cơ bản: 1/ Thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, khơi dậy những khoái cảm nghệ thuật; 2/ Hình thành thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ, đánh thức chất nghệ sĩ và tinh thần sáng tạo của con người. Xét về mối quan hệ của các chức năng với nhau, lý luận văn học đổi mới nhận thức chức năng thẩm mỹ là nét riêng nhất làm cho văn học nghệ thuật là hình thái ý thức không thể thay thế được. Nếu trước đây, trong đấu tranh giải phóng dân tộc, chức năng thẩm mỹ cũng được nhắc đến nhưng đặt ở mức thấp hơn so với chức năng tuyên truyền, giáo dục thì nay đến thời kỳ đổi mới văn học, ý thức về vị trí của chức năng thẩm mỹ được nhìn nhận lại công bằng, hợp lý hơn. Chức năng thẩm mỹ được coi là chức năng đặc thù, đúng với đặc trưng, bản chất của văn học nghệ thuật.

Lý luận văn học đổi mới cũng lưu ý rằng, sở dĩ nghệ thuật dễ tác động, biến cải được con người là bởi sự vui tươi, hấp dẫn, giúp con người giải trí, bớt căng thẳng. Thậm chí những tác phẩm thuộc các thể loại hài hước, châm biếm tưởng như thiếu “nghiêm túc” thì việc giáo dục lại đặt ra hết sức nghiêm túc. Từ điểm độc đáo này của sự tác động nghệ thuật, lý luận văn học khẳng định thêm một chức năng nữa của văn học mà trước đây không được bàn đến: chức năng giải trí.

Từ trong căn tính của mình văn học nghệ thuật đã mang chức năng giải trí. Nhà lý luận người Mỹ, Barnet cho rằng trong văn học có yếu tố “trò diễn”, có nghĩa là mua vui, người đọc chờ đợi ở tác phẩm văn học sự vui thú, khoái trá. Không thể quan niệm đơn giản rằng văn học nghệ thuật chỉ là để “mua vui”, nhưng nếu không chú ý đến điều này sẽ làm cho văn học nghệ thuật ít hấp dẫn, lôi cuốn. Giải trí bằng văn học nghệ thuật làm cuộc sống của con người phong phú hơn, có thể nói văn học nghệ thuật là “trò diễn” hữu ích đối với con người: “Nó khơi dậy, thắp sáng lên trong con người một nguồn lực trong trẻo, ham sống và yêu đời, nhìn thẳng vào sự thật, khắc phục các khó khăn và trở ngại, đấu tranh chống tiêu cực, cái xấu và cái ác.” (10)

2.3. Quan niệm về hình thức và nội dung của tác phẩm văn học

Phê bình Mác – xít xem hình thức và nội dung có quan hệ biện chứng và luôn khẳng định nội dung quyết định hình thức: “Hình thức được tạo nên bởi nội dung, giống với nội dung và đi cùng nội dung.” (11) Thậm chí quan niệm xã hội học dung tục còn cho rằng:“Hình thức nghệ thuật chỉ là một mánh khóe thủ thuật, được áp đặt bề ngoài lên cái nội dung hỗn độn của bản thân lịch sử.” (12) Trước đổi mới, do ảnh hưởng của cái nhìn hạn hẹp về nội dung và hình thức của văn học nên khi đề cập đến vấn đề hình thức văn học thường dễ bị quy chụp là “hình thức chủ nghĩa”. Và cũng chính cái nhìn trên làm cho người ta thường đi tìm ở các tác phẩm văn chương nội dung tư tưởng, ý đồ chính trị, tôn giáo hơn là khám phá giá trị nghệ thuật của văn chương.

Trong lịch sử lý luận nghệ thuật nhân loại, đã có nhiều ý kiến khám phá và lý giải một cách khoa học về quan hệ giữa hình thức và nội dung mà Hegel là một điển hình. Hegel cho rằng nội dung phải là cái chất liệu đã mang một hình thức được xác định, cái nội dung này không thể tồn tại như chính nó bên ngoài cái hình thức nhất định của nó. Nếu hình thức thay đổi, nội dung cũng bị thay đổi. Hình thức không thể tồn tại độc lập với một nội dung của chính nó. Quan điểm của Hegel đã thừa nhận mối tương quan chặt chẽ giữa nội dung và hình thức, “Hegel đã khẳng định sự chuyển hóa qua lại giữa hình thức và nội dung, vai trò chủ đạo của nội dung, hình thức bên ngoài và hình thức bên trong cũng như sự phù hợp gắn bó của nội dung và hình thức.” (13)

Tiếp nhận lý luận thi pháp học, Trần Đình Sử quan niệm mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong nghệ thuật có tính chất đặc thù: “Sự thống nhất hình thức và nội dung phải được hiểu là nội dung hóa thân vào hình thức, biểu hiện vào văn bản, hình thức biểu đạt nội dung cũng mang tính nội dung. Hình thức là phương thức tồn tại và biểu hiện của nội dung. Chính vì vậy hình thức hàm chứa mọi quy tắc biểu đạt và biểu hiện tất cả sự phong phú của nội dung. Muốn hiểu được nội dung chỉ có một con đường là đi sâu khám phá về hình thức.” (14) Ông cho rằng các yếu tố hình thức như ẩn dụ, so sánh, hoán dụ,… chưa phải là một hình thức nghệ thuật, chúng chỉ là những phương tiện riêng lẻ. Trần Đình Sử lưu ý phải xem xét hình thức nghệ thuật trong chỉnh thể thống nhất, tức là văn bản nghệ thuật. Chỉ có hình thức này mới có giá trị nghệ thuật bởi nó là sự biểu hiện sáng tạo độc đáo, có cá tính, đó là hình thức mang tính nội dung, mang tính quan niệm. Ông cũng phân biệt rõ hình thức bên ngoài và hình thức bên trong tác phẩm văn học. Hình thức bên ngoài là cơ sở khách quan của tác phẩm, là bộ khung, giá đỡ, là diện mạo tối thiểu cần thiết của tác phẩm, là hình thức tồn tại của tác phẩm. Hình thức bên trong của văn học là hình thức cảm thấy, nhìn thấy, tức hình thức của khách thể thẩm mỹ mà tác phẩm mang lại cho người đọc, chứ không phải hình thức văn bản trần trụi. Hình thức bên trong chính là hình thức của sự kiến tạo thế giới nghệ thuật, mang dấu ấn riêng, thể hiện cá tính thẩm mỹ, sự hiện diện của con mắt nghệ sĩ và là thước đo tài năng sáng tạo nghệ thuật. Xem xét hình thức bên trong mới có thể thấy sự vận động, phát triển của ý thức nghệ thuật và tư duy nghệ thuật.

Nghiên cứu chủ nghĩa hình thức Nga, Trương Đăng Dung nhận thấy: “Đối với các nhà hình thức Nga (…) hình thức không phải là cái nồi để đổ nước (nội dung) vào. Đặc trưng nghệ thuật không thể hiện qua những yếu tố nằm trong tác phẩm mà qua việc sử dụng một cách đặc trưng các yếu tố đó. Như vậy là khái niệm hình thức có được ý nghĩa mới mà không cần đến khái niệm nội dung bên cạnh.” (15) Ở đây, nội dung không phải là yếu tố quyết định tất cả hình thức, hình thức không phải là cái vỏ để chứa nội dung mà đối với nghệ thuật điều quan trọng là các yếu tố hình thức được sử dụng để cuối cùng mang lại hiệu quả nghệ như thế nào. Nghiên cứu Về đặc trưng của phản ánh nghệ thuật trong mỹ học Ch.Caudwell và G.Lukacs, từ cơ sở phân tích quan điểm của hai nhà lý luận này, Trương Đăng Dung nhấn mạnh: “Ở phản ánh nghệ thuật nội dung và hình thức đều bình đẳng (…). Phản ánh nghệ thuật không tách biệt nội dung và hình thức, sự thống nhất giữa nội dung và hình thức là điều kiện cần và đủ để tạo nên hiệu quả thẩm mỹ.” (16)

Nhìn chung, tiếp thu những khám phá về vấn đề hình thức và nội dung tác phẩm văn học của lý luận văn học hiện đại thế giới, lý luận văn học Việt Nam thời đổi mới đã có sự diễn giải cụ thể và mạch lạc về vấn đề này. Những bổ sung và thay đổi quan niệm về nội dung và hình thức tác phẩm văn học đã tạo cơ sở cho việc tiếp cận các hiện tượng văn học ngày càng khoa học, khách quan và chuyên nghiệp hơn.

2.4. Quan niệm về văn bản và tác phẩm văn học

Bước vào những năm 80 của thế kỷ XX vấn đề tiếp nhận văn học được đồng loạt giới thiệu và nghiên cứu ở Việt Nam. Các nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân, Trần Đình Sử, Hoàng Trinh, Nguyễn Thanh Hùng, Trương Đăng Dung, Phương Lựu,… đã nghiên cứu, giới thiệu lý thuyết tiếp nhận. Từ lý thuyết tiếp nhận, lý luận văn học đổi mới đã nhận thức lại khái niệm như: văn bản, tác phẩm văn học, người đọc

Quan niệm trước đây cho rằng tác phẩm như là những sáng tác có sẵn đầy đủ mọi ý nghĩa khách quan do tác giả cung cấp, người đọc chỉ còn đọc và hiểu tác phẩm. Trương Đăng Dung trong chuyên luận Tác phẩm văn học như là quá trình đã cho thấy tác phẩm văn học “với lớp lớp câu chữ phi vật thể, ẩn chứa nhiều nghĩa khác nhau, luôn biến động và không thể khoanh vùng, tác phẩm văn học có phương thức tồn tại riêng, thông qua người đọc.” (17) Nhà văn sáng tạo văn bản như là một cái biểu đạt, một hệ thống tạo nghĩa, “văn bản văn học là tập hợp các ký hiệu ngôn ngữ, có đời sống riêng, có năng lượng ngữ nghĩa riêng và tồn tại độc lập với tác giả của nó.” (18) Và chỉ khi có người đọc đọc đến thì văn bản mới chuyển hóa thành đối tượng thẩm mỹ, trở thành ý thức của người đọc. Người đọc trở thành trung tâm tạo nên giá trị của tác phẩm. Tác phẩm là khách thể thẩm mỹ, sản phẩm sau khi đọc, tồn tại trong ý thức người đọc, là sự thống nhất của hình tượng và ý nghĩa. Điều này có nghĩa, từ văn bản đến tác phẩm văn học là quá trình tác động hai chiều trong mối quan hệ giao tiếp giữa nhà văn và bạn đọc. Quá trình này luôn tiếp diễn không ngừng bởi năng lượng phong phú phát ra từ văn bản và ý thức tiếp nhận mạnh mẽ, đa dạng, đa chiều của độc giả.

Tiếp nhận lý thuyết hiện đại, lý luận văn học đổi mới nhận thức văn bản không trùng khít với tác phẩm. Nó mới chỉ là một giai đoạn tồn tại của tác phẩm, hay nói cách khác, nó là tiền đề, điều kiện, khách quan của sự tồn tại của tác phẩm, nó là một cấu trúc ký hiệu đa tầng ý nghĩa, một “sơ đồ” chứa đựng nhiều “điểm không xác định” (thuật ngữ của R.Ingarden), một “đề án tiếp nhận” (thuật ngữ của H.R.Jauss), một “kết cấu vẫy gọi” (thuật ngữ của W.Iser), một “mã nghệ thuật” (thuật ngữ của M.Markov)… văn bản ra đời có nghĩa là một giai đoạn tồn tại của tác phẩm được khép lại để một giai đoạn tồn tại mới bắt đầu. Nói theo cách của Roman Ingarden, mọi tác phẩm văn học đều dang dở, đòi hỏi sự bổ sung mà không bao giờ có giới hạn cuối cùng. Một tác phẩm luôn tồn tại nhiều cách đọc khác nhau, đó là sự cụ thể hóa. Quan niệm về tác phẩm văn học theo hướng quan tâm đến mối quan hệ tác phẩm và độc giả, đề cao tính chủ động sáng tạo của người đọc – một phương diện mà trước đổi mới chưa được lý luận quan tâm bởi chỉ chú trọng tập trung vào mối quan hệ tác giả – tác phẩm.

Vấn đề khái niệm văn bản và tác phẩm văn học là một trong những vấn đề trọng điểm và giao điểm của nhiều lý thuyết hiện đại về văn học. Thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, nó đã thu hút nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu lý luận và phê bình. Với tinh thần xây dựng một nền lý luận biết kế thừa tinh hoa thế giới một cách chủ động, sáng tạo các nhà nghiên cứu lý luận đổi mới đã khơi mở những vấn đề mấu chốt, quan trọng xung quanh câu hỏi: Tác phẩm văn học là gì? – Một vấn đề tưởng rất quen thuộc nhưng không đơn giản về lý thuyết. Hiện nay những quan điểm xung quanh khái niệm văn bản và tác phẩm văn học vẫn đang vận động hướng đến mục đích tìm câu trả lời có căn cứ khoa học, thống nhất và thuyết phục.

2.5. Người đọc với hoạt động tiếp nhận văn học

Nói đến vai trò của tiếp nhận văn học không thể không nói đến vai trò của người đọc. Nếu trước đổi mới vấn đề người đọc chưa được lý luận văn học quan tâm đúng mức, coi sáng tạo văn học là độc quyền của nhà văn thì thời kỳ đổi mới, tiếp thu tư duy lý luận văn học hiện đại và hậu hiện đại, vai trò người đọc được coi trọng. Người đọc được xem như là một nhân tố không thể thiếu được của quá trình văn học và là “người đồng sáng tạo với tác giả.” (19) Vậy quá trình sáng tạo của người đọc được lý luận hiện đại lý giải như thế nào?

Trước hết, sự sáng tạo ở người đọc là sáng tạo trong tiếp nhận nghệ thuật, sáng tạo trên nền một sáng tạo khác nhằm mục đích hiểu, thưởng thức, lý giải, bình giá tác phẩm, khai thác từ tác phẩm những giá trị tinh thần có ích cho mình và cho đời sống ý thức xã hội, và bằng cách đó, làm cho tác phẩm thực sự sống một cuộc sống đầy ý nghĩa. Nhưng không phải cứ biết chữ và đọc là có sáng tạo mà sự đọc chỉ có sáng tạo khi người đọc phải có tiền đề cơ sở, đó là vốn sống và những kinh nghiệm nghệ thuật nhất định, hơn thế những kinh nghiệm này phải luôn luôn có sự mở rộng và phát triển, đổi mới không ngừng theo dòng chảy sống động của cuộc sống, của văn học. “Với tư cách là chủ thể tiếp nhận đối với bất cứ loại tác phẩm văn học nào, người đọc không bao giờ là một tờ giấy trắng thụ động trước bất kỳ sự khắc họa nào, mà họ vốn có một “tầm đón nhận” được hình thành một cách tổng hợp bởi nhiều yếu tố. Trước hết là do thực tiễn cuộc sống và sự giáo dưỡng văn hóa đã hình thành nên ở người đọc từ thế giới quan đến nhân sinh quan, từ thái độ chính trị đến khuynh hướng tình cảm và hứng thú thẩm mỹ, rồi nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính,…” (20)

Như vậy, nền tảng hiểu biết về cuộc sống và văn học (tức trình độ) là điều kiện đầu tiên phải có để người đọc thể hiện tính tích cực, sáng tạo cùng bản lĩnh, nhân cách của mình trong tiếp nhận. Kinh nghiệm thực tiễn (bao gồm cả kinh nghiệm thẩm mỹ) của người đọc là chỗ dựa quan trọng trong việc đánh giá tác phẩm văn học. Điều này cũng lý giải vì sao cùng một tác phẩm văn học được đọc ở cùng một thời điểm thời gian và không gian mà cách hiểu, cấp độ hiểu của mỗi người đọc lại khác nhau.

Lý giải về cơ chế hoạt động đọc sáng tạo, lý luận đổi mới cho rằng khi tiếp nhận văn học, người đọc thể hiện tính tích cực, sáng tạo ở chỗ anh ta đã lấp đầy những “khoảng trống” mà nhà văn có ý thức hoặc vô tình tạo nên. Ở cấp độ cao hơn, người đọc phát hiện ra những ý nghĩa mới của tác phẩm cùng những mối liên hệ chỉnh thể tương ứng với chúng. “Sự phát hiện này, đôi khi làm sửng sốt chính người đã đẻ tác phẩm… Cấp độ sáng tạo này trong hoạt động tiếp nhận chính là yếu tố then chốt tạo nên sức sống trường cửu của tác phẩm văn học, của hình tượng văn học.” (21)

Nhấn mạnh tính tích cực, sáng tạo của người đọc không có nghĩa coi thường tính khách quan của tác phẩm. Các nhà lý luận Việt Nam, một mặt tiếp thu những điểm hợp lý của lý luận nước ngoài nhưng mặt khác cũng phê phán những quan điểm lệch lạc, cực đoan cho rằng tác phẩm chỉ là “một cái bình dùng để đựng và chuyển đổi những chất chứa khác nhau” (A.G.Gornfeld), hoặc tác phẩm là một “chương trình được tạo thành bởi các mã tượng trưng đợi người đọc tùy ý rót những tình huống cụ thể vào làm đầy nội dung cho nó” (R.Barthes). Trần Đình Sử viết: “Theo những quan niệm này, hóa ra người đọc có được quyền năng “sáng tạo” vô hạn trong tiếp nhận. Sự thực không phải như vậy (…) Mỗi tác phẩm văn học là một hệ thống của những tương quan chằng chịt giữa vô số yếu tố cấu thành, và những tương quan đó tạo nên tính xác định tương đối cho các ý nghĩa được “rút ra”. Rõ ràng, ta không thể tùy tiện bóp méo ý nghĩa của tác phẩm bất chấp sự “phản đối” của các dữ kiện và tương quan trước đó, bất chấp tính xã hội và của phương tiện ngôn ngữ, tệ hơn, bất chấp sự tồn tại của thế giới tinh thần tác giả được “ký mã” vào tác phẩm.” (22)

Quan điểm tiếp thu học thuật như trên cho thấy các nhà lý luận Việt Nam thời đổi mới đã ý thức về sự “lâm nguy” (từ dùng của Tzvetan Todorov) của nền văn học nếu không chú trọng tính nhân văn và xã hội của văn học, tách rời sự tiếp nhận với sáng tác, người đọc với người viết, chỉ tiếp cận hướng nội – vi mô đối với tác phẩm mà không coi trọng tiếp cận hướng ngoại – vĩ mô đối với người viết, người đọc.

Vấn đề tiếp nhận của người đọc từ điểm nhìn của mỹ học tiếp nhận được nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn đã khắc phục những giới hạn của tư duy lý luận trước đây chỉ xem giá trị của tác phẩm văn học chủ yếu từ mối quan hệ giữa tác phẩm văn học với tác giả, quan hệ tác phẩm với hiện thực, đơn giản hóa ý nghĩa tác phẩm vốn là một cấu trúc mở mang tính đa nghĩa, coi nhẹ vai trò người đọc với tư cách là một chủ thể thẩm mỹ, một khâu quan trọng trong quá trình sáng tạo văn học. Với sự xuất hiện của lý thuyết tiếp nhận, lý luận văn học thời kỳ đổi mới đã nhận thức đúng vai trò của người đọc – họ là người đồng sáng tạo cùng với nhà văn, góp phần quan trọng nối dài cuộc đời tác phẩm đến vô cùng. Chính họ đã thổi hồn vào những con chữ để nhân lên những giá trị nghệ thuật mới, biến cái “hữu hạn” của tác phẩm thành cái “vô hạn”. Từ quan niệm mới về người đọc cho thấy ý nghĩa của văn học không chỉ nằm trong văn bản mà còn nằm trong mối liên hệ nhiều mặt với cuộc sống. Đọc văn học là một cuộc đi tìm nghĩa, “mọi người đọc đều có cơ hội bình đẳng như nhau trong trò chơi tìm nghĩa. Không ai có tiếng nói cuối cùng. Không ai là duy nhất đúng. Tác phẩm ngày càng giàu có lên trong tình yêu văn học của mọi người.” (23)

2.6. Phê bình văn học

Những năm trước đổi mới, phê bình văn học chủ yếu lấy nhà văn làm trung tâm, coi tác phẩm văn học như là một khách thể cố định có ý nghĩa khách quan xác định. Nhà phê bình luôn hướng tới mục đích tìm kiếm ý đồ sáng tạo của nhà văn, xác định mức độ thành công của việc biểu hiện ý đồ ấy. Nhà phê bình đồng thời cũng là người thuật lại ý kiến của nhà văn về sáng tác. Từ đó phê bình chỉ là “bình tán” các vấn đề xung quanh tác phẩm như: hoàn cảnh ra đời, đề tài, chủ đề, nhân vật, ý đồ sáng tác của nhà văn… Mô hình phê bình lấy nhà văn làm trung tâm bộc lộ rất nhiều hạn chế, nó biến “nhà phê bình thành tiểu đồng của nhà văn và tự đánh mất vai trò chủ thể của mình trước tác phẩm.” (24)

Từ đổi mới đến nay, lý luận về phê bình văn học được bổ sung thêm nhiều kiến thức mới. Phê bình văn học được coi như một hoạt động tác động đến đời sống văn học và quá trình văn học, như một hoạt động sáng tạo, đồng thời còn được coi như một bộ môn nghiên cứu văn học. Phê bình là một hình thức và cấp độ tiếp nhận văn học mang tính chất xã hội hóa cao, đi đôi với hoạt động đầy ý thức chuyên môn nhằm đánh giá, thẩm định giá trị của đối tượng, xuất phát chủ yếu từ những yêu cầu của cuộc sống. Phê bình văn học lấy bản thể tác phẩm làm trung tâm, đây thực chất là hành trình đi tìm ý nghĩa tiềm tại của văn bản văn học. Phê bình đóng vai trò quan trọng trong việc lý giải, cắt nghĩa tác phẩm văn học. Với ưu thế của một hoạt động mang tính chuyên nghiệp, sự cắt nghĩa tác phẩm của phê bình thường hàm chứa những phát hiện mới, tác động mạnh mẽ đến người đọc, phê bình bồi dưỡng, nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, xây dựng tinh thần lành mạnh cho xã hội. Phê bình văn học tác động vào tất cả các khâu của quá trình sáng tác – giao tế văn học. Phê bình là một loại hình hoạt động tinh thần nằm giữa khoa học và nghệ thuật. Từ văn bản văn học, mỗi nhà phê bình sáng tạo nên một văn bản có giá trị độc lập, nhân lên những sáng tạo nghệ thuật, giúp người thưởng thức phê bình đọc thấy những ý nghĩa dôi thêm của tác phẩm, và tiếp tục đồng sáng tạo, làm phong phú thêm những giá trị văn học, làm giàu thêm cho đời sống tinh thần của con người. Phê bình văn học là một bộ phận hợp thành không thể thiếu được của quá trình văn học. Trong thời đại hội nhập toàn cầu phê bình nên “chủ hướng đề cao loại lý thuyết phê bình tìm kiếm những giá trị nhân văn trong văn học, coi nghệ thuật trước hết nhằm cổ vũ lòng dũng cảm, chia sẻ những bất hạnh của con người, chất vấn về lẽ sinh tồn của con người, coi hoạt động lý luận phê bình như một bộ phận không thể tách rời với các khoa học nhân văn, tức luôn phối hợp với các bộ môn khác như triết học, sử học, văn hóa học trong việc tìm tòi khoa học của mình.” (25)

  1. Đổi mới lý luận văn học ở Việt Nam từ 1986 đến nay chính là hiện đại hóa lý luận trên tinh thần nhận thức lại, phát triển, bổ sung và hoàn thiện nhiều vấn đề cho phù hợp với thời đại. Với cơ hội thuận lợi do thời đại mang lại, mở rộng biên độ giao lưu, mở rộng tầm nhìn, lý luận văn học Việt Nam đã chủ động hướng về những chân trời khác nhau để tiếp thu học hỏi những kinh nghiệm và tinh hoa lý luận của nhân loại. Có thể khẳng định, trong vài chục năm qua, sự hiện diện và ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng, học thuật hiện đại nước ngoài nói chung và lý luận văn học nước ngoài (chủ yếu là lý luận văn học phương Tây) nói riêng đã tác động trực tiếp tới lý luận văn học mà quan trọng nhất là bổ sung, thay đổi, làm mới hệ thống quan niệm lý luận, từ đó giúp tư duy lý luận văn học Việt Nam được đổi mới và phát triển ngày càng phong phú hơn. Hệ thống các khái niệm lý luận văn học mới được hình thành mở ra một không gian mới cho tư duy về văn học, ảnh hưởng tích cực tới mọi phương diện của đời sống văn học. Đến nay hệ thống khái niệm lý luận văn học Việt Nam một mặt đã định hình được những khái niệm mới, mặt khác vẫn đang tiếp tục chuyển động theo hướng tiếp cận hệ thống khái niệm lý luận văn học của thế giới, bổ sung thêm những khái niệm mới. So với hệ thống lý thuyết cũ vốn nghèo nàn và còn nhiều giới hạn, hệ thống lý thuyết mới có độ mở, linh hoạt và đặc biệt mang tính thực tiễn cao. Hệ thống lý thuyết này chính là nền tảng, là công cụ để giải quyết các vấn đề nghiên cứu phê bình văn học đang đặt ra hết sức cấp bách khi nền văn hóa, văn học nước nhà bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển trong xu hướng toàn cầu hóa.

 

CHÚ THÍCH:

(1), (2), (8) Hoàng Trinh (chủ biên), Văn học cuộc sống nhà văn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 237, 233, 188.

(3), (20) Phương Lựu (Chủ biên), Lý luận văn học, Tập I, Văn học, Nhà văn, Bạn đọc, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội, H, 2002, tr. 185, 349.

(4), (5), (7), (19), (21), (22), (23) Trần Đình Sử (Chủ biên), Giáo trình lý luận văn học, Tập 1, Bản chất và đặc trưng văn học, Nxb. Đại học Sư Phạm Hà Nội, H, 2007, tr. 105, 107, 115, 162, 163, 164, 195.

(6) Trần Đình Sử, Lý luận và phê bình văn học, Nxb. Giáo dục Hà Nội, 2000, tr. 56, 188.

(9) Phương Lựu (Chủ biên), Lý luận văn học (tái bản lần thứ nhất), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997, tr. 174-175.

(10), (15), (18) Nhiều tác giả, Lý luận và phê bình văn học đổi mới và phát triển (Kỷ yếu Hội thảo khoa học), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005, tr. 417, 56.

(11), (12) T. Eagleton, Chủ nghĩa Marx và phê bình văn học, (Lê Nguyên Long dịch), ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2009, tr. 57, 58.

(13), (14) Trần Đình Sử,Tuyển tập, Tập 2, Những công trình lý luận và phê bình văn học, (Nguyễn Đăng Điệp tuyển chọn và giới thiệu), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005, tr. 41.

(16) Phong Lê (chủ biên), Văn học và hiện thực, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990, tr. 195-196.

(17) Trương Đăng Dung , Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004, tr. 229, 311.

(24) Trần Đình Sử, Lý luận và phê bình văn học, Nxb. Giáo dục Hà Nội, 2000, tr. 56, 188.

(25) Trịnh Bá Đĩnh, Mấy vấn đề về phê bình văn học hiện nay, Nhân dân số 2039 (13/6/2011).

 

Tài liệu tham khảo

  1. Trương Đăng Dung , Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004
  2. Trương Đăng Dung, Nguyễn Cương (đồng chủ biên), Các vấn đề của khoa học văn học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990
  3. Trịnh Bá Đĩnh, Mấy vấn đề về phê bình văn học hiện nay, Nhân dân số 2039 (13/6/2011).
  4. Nguyễn Đăng Điệp, Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2003
  5. Cao Hồng, Một chặng đường đổi mới lý luận văn học Việt Nam (1986 – 2011), Hội Nhà văn, Hà Nội, 2011
  6. Nhiều tác giả, Lý luận và phê bình văn học đổi mới và phát triển (Kỷ yếu Hội thảo khoa học), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005.
  7. Ilin I.P, Tzurganova E.A. (chủ biên), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX (Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch), Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2003
  8. Lã Nguyên (tuyển dịch), Lý luận văn học những vấn đề hiện đại, Đại học sư phạm Hà Nội, 2012
  9. Phong Lê (chủ biên), Văn học và hiện thực, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990
  10. Phương Lựu (Chủ biên), Lý luận văn học, Tập I, Văn học, Nhà văn, Bạn đọc, Đại học Sư phạm Hà Nội, H, 2002
  11. Phương Lựu (Chủ biên), Lý luận văn học (tái bản lần thứ nhất), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997
  12. Lộc Phương Thủy (Chủ biên), Lý luận phê bình văn học thế giới Thế kỷ XX, Tập một, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007
  13. Lộc Phương Thủy (Chủ biên), Lý luận phê bình văn học thế giới Thế kỷ XX, Tập hai, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007
  14. Trần Đình Sử (Chủ biên), Giáo trình lý luận văn học, Tập 1, Bản chất và đặc trưng văn học, Đại học Sư Phạm Hà Nội, H, 2007
  15. Trần Đình Sử, Lý luận và phê bình văn học, Nxb. Giáo dục Hà Nội, 2000
  16. Trần Đình Sử,Tuyển tập, Tập 2, Những công trình lý luận và phê bình văn học, (Nguyễn Đăng Điệp tuyển chọn và giới thiệu), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005
  17. T. Eagleton, Chủ nghĩa Marx và phê bình văn học (Lê Nguyên Long dịch), ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Nxb. Tri thức, Hà Nội,2009
  18. Hoàng Trinh (chủ biên), Văn học cuộc sống nhà văn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978.